Người đàn bà theo cô y tá vào
pḥng. Trên giường, một người đàn ông
nằm nh́n thẳng lên trần nhà, mắt mở to thao láo.
Cô y tá lay nhẹ vai anh, nói bằng
tiếng Pháp:
- Ông Nguyễn, ông Nguyễn,
đoán xem ai đây ? ... Nh́n kỹ đi, vợ ông tới
thăm ông nè.
Người đàn bà đưa
tay ra muốn nói ǵ đó th́ vừa lúc người đàn
ông hướng ánh mắt về phía chị, Anh kêu lên
thều thào nhưng hớn hở :
- Em! Trời ơi!
Anh loạng quạng ch́a bàn tay
khẳng khiu ra, chị như ngần ngại một giây
rồi nắm lấy, cầm nhẹ nhàng trong hai tay ḿnh.
Anh mỉm nụ cười héo
hon:
- Lạnh không ? Bám, chặt vào!
Chị khẽ khàng đặt tay
lên ngực anh. Rồi bỗng bạo dạn hơn,
chị choàng qua, siết ṿng tay lại. Nụ cười
ngây ngô trên môi anh kéo dài như vô cùng:
- Con đâu em ?
- Con đang ngủ. Anh cũng ráng
ngủ một chút đi cho khỏe .
Giọng anh bỗng kêu thất
thanh :
- Sát lại. Bám chặt anh. Khéo
tuột.
Chị áp sát vào tấm thân gầy
g̣ run rẩy, bận bịu gật gật đầu. Tóc
anh lưa thưa cứ như muốn dựng ngược
lên từng sợi . Chị dịu dàng vuốt những
sợi tóc mùa thu của anh, âu yếm như người
mẹ. Mắt chị buồn thiu, xa vắng.
- Em nè, vợ chồng, có những
lúc, cơm không, lành, canh không ngọt, anh có lỡ giận,
la em, cái ǵ em bỏ qua cho anh nghe, đừng giận,
bỏ anh, tội, tội, nghiệp, cái chính, là, biết,
anh thương, em , vô cùng, nghe em, đời anh, chỉ, có
em, và, con ...
Chị khóc:
- Anh đừng nghĩ quẩn
quanh nữa. Em không giận anh đâu. Em cũng ...
thương anh lắm!
Chị kéo chăn cho anh ngay
ngắn. Hai bàn tay hiền dịu vẫn ve vuốt anh. Ngoài
đêm, trời hối hả rải tuyết...
Sáng sớm hai người y tá vào
pḥng. Ông y tá đen to lớn dềnh dàng phủ lên
người anh tấm ra trắng muốt. Cô y tá đỡ
chị đứng lên và lặng lẽ mở ngăn kéo lôi
ra các thứ giấy tờ bọc trong bao ny-lon:
- Ông nhà đi như vậy
đỡ khổ cho ông hơn, nhất là có bà bên cạnh.
Bao nhiêu lần rồi bệnh viện cố t́m bà mà không ra
.
Chị hỏi, hơi tần
ngần:
- Lần cuối cùng ông ấy vào
đây là lúc nào ?
- Thứ sáu tuần rồi . Bà
coi, trời như vầy mà lại trần truồng
đứng múa ở vườn Luxembourg!
- Lần này sao bệnh viện
lại t́m ra tôi ?
Cô y tá cười:
- Cái khó là cạy răng ông
để ông cho biết địa chỉ của bà. Khi ông
ta nói "biển" th́ giản dị thôi, cứ bấm
minitel ra lục lọi các vùng có biển là t́m ra bà ngay!
Chị cũng cười:
- Phải, giản dị thật!
Hai người y tá đẩy
băng ca đi. Ngang qua cửa sổ, tấm ra pha lẫn
vùng tuyết ngoài kia . Căn pḥng trống trơn. Chị ra
hành lang, lặng lẽ mở bao nylon ra và đọc .
Những tia nắng đầu ngày đông u ám rọi lên các
thứ giấy tờ và một số thư từ cũ
nḥa . Chị vừa đọc vừa khóc. Xong chị
xếp lại vào bao, thở dài . Chị quàng lại
khăn, kéo cao cổ áo măng-tô lên. Trời rất
lạnh.
Bước vào ca-bin, chị
để cạc vào máy điện thoại và bấm
số.
- Anh hả ? Em đây ... Trẻ
nhỏ dậy hết chưa ?... Xa quá anh à. Một
người đồng bào ... (chị thở dài). Không,
dĩ nhiên là không bà con ǵ với ḿnh cả. Khi em tới th́
tối rồi và coi bộ ông ta lẫn lộn hết
cả, tưởng em là vợ ...Ơ th́ anh coi, cứ
Nguyễn Thị Ngọc ǵ ǵ có vần "ương"
theo sau mà chả là em. Ḿnh đă nhận bao nhiêu thứ
rồi ...Có, cô y tá đưa hết giấy má thư
từ của ông ấy cho em ... Em đọc rồi,
vợ con đều chết biển khi vượt biên,
chỉ c̣n ông ta sống sót với mấy người thôi
... (chị khóc) .. Xong rồi anh ạ ... Vâng, lúc năm
giờ sáng, trong tay em...
MIÊNG
(/O-O/
sưu tầm)
ÔNG LĂO KỲ LẠ
ÔNG LĂO KỲ LẠ
Tôi muốn viết
từ lâu, kể chuyện một ông lăo kỳ lạ, ông ta
sống giữa đời như tất cả chúng ta, song
lại hành động rất khác!
Lần đầu
tiên tôi nghe về lăo là mùa Giáng Sinh 1990. Chiều 24 tháng 12
năm ấy, tôi lên thăm bạn ở thành phố Lausanne.
Chúng tôi rủ nhau đi phố sắm sửa vài món quà cho
bữa tiệc thân hữu gặp nhau. Phố xá lạnh
lẽo và vắng lặng lắm v́ đa số mọi
người đă đều đi về đoàn tụ
với gia đ́nh. Trời lất phất đổ
tuyết, gợi cho lữ khách, tùy tâm trạng, mà cảm
thấy lăng mạn hay cô đơn kinh khiếp. Với tôi,
năm ấy thật buồn, v́ ba mẹ tôi đi Hoa
Kỳ thăm bạn, c̣n tôi v́ phải lo học thi cho
học kỳ mùa Đông, nên không đi theo được.
Ở lại xứ cao nguyên sương mù, gió lạnh trong
mùa Giáng Sinh lê thê quả là một chuyện cô đơn khó
chịu. May mà c̣n có bạn bè dễ thương. Họ làm
tiệc mời tôi và qua đó cũng ấm ḷng
người viễn xứ!
Khi ở phố
về, chúng tôi chọn đường tắt nên đi
ngang qua một chiếc cầu rất dài, bắc lắt
lẻo trên ghềnh đá, đứng trên thành cầu nh́n
xuống dưới người yếu bóng vía dễ
bị xây xẩm v́ chiều sâu hun hút hiểm trở.
Người bạn đi chung chợt giật tay tôi
chỉ một túp lều vải được dựng
ngay bên cạnh đầu cầu. Tôi hơi ngạc nhiên, v́
mùa này không phải là mùa để người ta cắm
trại nơi đây! Bạn tôi kể rằng từ 20
năm nay, mỗi năm cứ đến mùa Giáng Sinh
lại có ông già đến đây cắm trại. Tôi
ngạc nhiên hỏi lư do. Bạn tôi cho biết chiếc
cầu này là nơi quyến rũ nhiều người
cứ đến mùa Giáng Sinh ra nhảy cầu tự
tử. V́ mùa Giáng Sinh ở Thụy Sĩ buồn quá,
những người sống cô đơn thường
bị cơn trầm cảm (Depression) hành hạ nên dễ
t́m cái chết. 20 năm qua, người đàn ông đă
cắm trại ở đầu cầu, nếu thấy ai
một ḿnh đứng trên cầu, lập tức ông
bước tới nói chuyện khuyên nhủ. Trong lều
của ông thường có rượu chát, chocolate và vài món
quà nho nhỏ. Người có ư định tự tử
thường được ông mời vào lều cho
uống rượu tâm t́nh, cho đến khi người
đó bỏ ư định quyên sinh. Trước khi rời
khỏi lều, thể nào họ cũng được ông
cho món quà có ư nghĩa, với số điện thoại
để sau đó cần người nói chuyện th́ t́m
ông. Ông làm việc âm thầm và không nhờ bất cứ
hội đoàn nào giúp sức.
Nghe lời kể
của bạn tôi, tôi xúc động lắm, thật không
ngờ giữa cuộc sống có quá nhiều bon chen, tranh
giật lại có Tâm Bồ Tát hiện hành. Tôi kéo bạn tôi
đi về phía lều của ông lăo và tỏ ư muốn nói
chuyện. Ông lăo mở cửa lều, mời chúng tôi vào.
Đó là một người đàn ông có dáng người
khắc khổ, tuổi khoảng trên dưới 70
tuổi, gương mặt đầy từ ái. Trong
căn lều thiết trí rất đơn giản, có
tấm thảm trải cho ấm và một ḷ than nho nhỏ
bên cạnh để sưởi, nấu trà, càfê và thức
ăn. Ông lăo hỏi chúng tôi sao lại đứng trên
cầu bàn luận lâu vậy, giữa thời tiết giá
lạnh trong buổi chiều Noël? Tôi kể ông nghe về
cảm nhận của ḿnh khi biết chuyện và vô cùng tán
thán hạnh nguyện của ông. Ông lăo mỉm cười: "Th́
sống trong đời, ta có thể làm được
việc ǵ tốt cho người khác th́ phải cố
gắng thôi!" Ông cũng cho biết thêm "có
nhiều người oán trách tôi v́ tôi bắt họ tiếp
tục sống để chịu khổ!" Chúng tôi nói
chuyện với nhau khoảng 1 giờ đồng hồ
về nhiều đề tài rất tương
đắc, ông lăo rất thông thái, rất tế nhị và
khi nói chuyện có sức thuyết phục rất cao. Sau
đó chúng tôi từ giă ông để trở về lo
bữa tiệc buổi tối.
Từ đó,
thỉnh thoảng tôi gọi điện thoại nói
chuyện với ông. T́nh bạn giữa chúng tôi nảy
nở và trở nên thân thiết. Ông tên Peter Dupont, tuổi
đă 72 và sống một ḿnh cô độc. Tôi cũng
ngạc nhiên không hiểu tại sao ông không có gia đ́nh. Ông
bảo: "Khi trước tôi cũng có bà mẹ nữa,
v́ phụng dưỡng mẹ nên tôi chẳng lập gia
đ́nh, ngày tháng qua đi, trở thành người già khi nào
không biết." Ông làm việc tại ngân hàng X với
nhiệm vụ chuyển thư từ tài liệu từ
văn pḥng này tới văn pḥng khác. Ông không bao giờ
nghỉ, trong suốt 40 năm làm việc tại
đâỵ Khi mẹ ông qua đời trong đêm, ông
đến xin phép ban giám đốc cho ông được
nghỉ nửa ngày. Ông giám đốc ngạc nhiên thấy
ông xin nghỉ, hỏi lư do mới biết đêm qua mẹ
ông qua đời. Ông giám đốc kêu trời và bắt ông
nghỉ 1 tuần ở nhà lo mọi chuyện. Sau 3 ngày, ông
gọi điện thoại xin cho ông đi làm lại
kẻo không ông cũng sẽ "chết" như bà
mẹ của ông mất, nếu người ta c̣n bắt
ông ở nhà! Quả thật tôi không thể hiểu
được tại sao có người ham mê công việc
đến thế, ông lăo trả lời những thắc
mắc của tôi rằng: "Ta được sống
trong xă hội đầy đủ thế này, ta nợ
biết bao nhiêu người, nếu không làm việc
để trả lại những ân nghĩa ta vay, thời
ta nợ đến bao giờ mới trả nổi!?"
Tôi giật ḿnh v́ lư luận của ông rất gần
với tư tưởng Bồ Tát Đạo của
Phật Giáo đại thừa, trong khi ông là Ki Tô Hữu.
Với thời gian,
chúng tôi khám phá ra ông Dupont cũng chính là khách hàng ở nhà bank
nơi bạn tôi làm việc, mặc dù cũng làm việc
cho nhà bank, song nhà bank nơi ông làm việc thuộc nhà ngành
quản trị gia tài (asset management bank), trong khi ông chưa
giàu có để có trương mục tại ngân hàng
đó. Ông biết bạn tôi và rất tin tưởng khi có
chuyện ǵ có liên quan đến ngân hàng tiền bạc.
Thời gian trôi
đi, đă 14 năm kể từ ngày tôi quen ông Dupont. Hàng
năm ông vẫn đến cắm trại bên cầu, dù
rằng tuổi ông đă quá cao và yếu nhiều. Rất nhiều
người biết về ông, có những bài phóng sự hay
chương tŕnh truyền h́nh nói về ông, song chưa bao
giờ những thứ ấy khiến ông để ư! Ông
thường tỏ ra khó chịu khi người ta tới
quay phim, phỏng vấn ông.
Hôm qua, tôi nhận
được điện thoại của bạn tôi, tôi
đă lặng người đi khi nghe tin ông đă vừa
giă biệt cơi đời! Cảm động nhất là
trước ngày ông mất, ông nhờ người
đẩy xe lăn cho ông tới ngân hàng gặp bạn tôi
(sau cơn bệnh cách đây 3 tháng, ông không đi lại
được nữa, mà phải ngồi xe lăn), ông mang
tất cả các hoá đơn thuế nhà, thuế
đất, bill điện nước theo và yêu cầu
bạn tôi thanh toán giúp ông. Ông bảo: "Ta biết ta
sắp ra đi, nay nhờ anh giúp trang trải hết
những nợ nần c̣n sót lại này, ta không muốn c̣n
phải nợ nần ǵ khi giả biệt cơi trần."
Ông không có nhiều tiền trong trương mục,
nhưng sau khi thanh toán c̣n lại một chút, bạn tôi
hỏi ông muốn làm ǵ, ông bảo làm ǵ cũng
được, song ông có người cháu họ xa, hiện
cũng đă 70 tuổi, nếu số tiền c̣n lại
đó sau khi ông qua đời, được chuyển cho
người cháu với lời nhắn nhủ là "Giáng
Sinh năm nay, ráng thay ông, một năm cũng
được ra cầu Lausanne cắm trại cứu
người, th́ ông sẽ mỉm cười thanh thản
ở bên kia thế giới". Chỉ vậy, hai ngày sau
đó ông ra đi thanh thản tại bệnh viện
gần nhà.
Một vị Bồ
Tát bằng xương bằng thịt đă âm thầm
đến và đi, không để lại dấu vết!
Tôi không đi dự tang lễ của ông được,
nhưng nghe đâu rất đông người tham dự! Có
nhiều người được ông cứu từ 30
năm về trước cũng mang gia đ́nh con cháu
tới tiễn ông.
Mùa thu ... vắng lặng và buồn quá!
Chiếc lá vàng rơi để trở về với cát
bụi ... tăng thêm chất màu mỡ cho đất.
Một đóng góp cuối cùng! Ông lăo kỳ lạ kia
cũng vậy!
Mùa Vu Lan 2548
QUẢNG DIỆU TRẦN BẢO TOÀN
(/O-O/
sưu tầm)
From: vo do
From: vo do
CUỐN TIỂU THUYẾT BIẾT NHẢ KHÓI
Để khuyến cáo mọi
người bỏ thuốc lá, nhiều quốc gia cho in lên
vỏ bao những ḍng chữ khuyến cáo, thậm chí h́nh
cảnh báo ung thư, viêm phổi... với hy vọng
người ta hút thuốc... mất ngon!
Vừa rồi nhà xuất bản
Blumenbar ở Munich (Đức) đă có một chiêu
mới là in những câu chuyện hấp dẫn trên vỏ
bao thuốc và bán với giá bán 2 euro một bao.
Tung ra thị trường từ
Tháng Ba, những cuốn tiểu thuyết biết nhả
khói bắt đầu lên cơn sốt ở Đức và
thu hút những tên tuổi lớn trên văn đàn
nước này như Doris Dorrie, Helmut Krausser, Vladimir Kaminer,
Joseph von Westfalen, Maxim Biller... Họ viết những câu
chuyện ngắn về t́nh yêu, sự chia ly và nỗi
đau. Súc tích, hấp dẫn hay không là quan điểm
của mỗi người nhưng ǵ th́ cũng hay hơn
đọc về số phận tệ hại của chính
ḿnh sau những điếu thuốc lá thơm.
Tất nhiên vỏ bao thuốc lá
với cả mặt trước lẫn mặt sau cũng
chẳng đủ chỗ để đăng tải
những câu chuyện lê thê. Bởi vậy quy định
của nó là chỉ được phép dài 2,500 chữ. Ví
như nhà văn Helmut Krausser viết về một
người đàn ông mà những ngón tay của ông ta ghen
tuông lồng lộn với nhau. Thế là người
đàn ông nọ phải đặt cho chúng những cái tên
nam và nữ. Rồi ông phải đi găng tay để
cách ly chúng ra mà cũng chẳng xong... Maxim Biller mô tả câu
chuyện t́nh ly kỳ giữa Thomas và Melody. Họ yêu nhau,
lạc nhau giữa Chicago và cuối cùng t́m thấy nhau
ở Paris. Tất cả có 58 ḍng và đọc cẩn
thận lắm, bạn cũng chỉ mất chừng 3
phút. Nếu là tiểu thuyết, chắc người ta
sẽ viết được 500 trang về câu chuyện
t́nh này.
Ư tưởng xuất bản
những câu chuyện ngắn trên vỏ bao thuốc lá
để tăng thêm vị ngon trong khi thưởng
thức làn khói trắng đă đến sau một
buổi thảo luận ư kiến của những kẻ
nghiện thuốc. Những lời khuyến cáo trên
vỏ bao thuốc của các vị bộ trưởng y
tế Châu Âu thật là khó coi, nhưng phải chấp
nhận v́ đó là luật pháp. Để tránh sự
thưởng thức bị ảnh hưởng, một
vỏ bao sạch sẽ, có văn hóa đă được
nghĩ ra như các loại vỏ bao kim loại hoặc
bằng các chất liệu khác vẫn được bán
trên thị trường. Không ai có thể cấm chúng tôi làm
điều đó, Wolfgang Farkas, giám đốc nhà
xuất bản Blumenbar kể lại. Họ hy vọng
sẽ thay đổi toàn bộ chức năng của
những lời khuyến cáo đó bằng những lời
văn, tất nhiên là chẳng cần liên quan ǵ đến
thuốc lá cả. Bởi ai hút thuốc th́ đều
biết tác hại của nó rồi, không cần phải
cảnh báo nữa. Một câu chuyện đủ dài
để lấp hết phần vỏ bao thuốc lá
nhưng cũng phải súc tích, hấp dẫn người
đọc.
Thế là ư tưởng về tiểu
thuyết trên bao thuốc lá lần đầu tiên ra
đời. T́nh cờ gặp nữ nhà văn Doris Dorrie
trong một quán bar, Wolfgang Farkas tŕnh bày ư tưởng này và
lập tức được ủng hộ. Doris hứa sẽ
viết một câu chuyện ngắn chừng 2,500 chữ.
Sau đó, ông dạm hỏi ư kiến một số nhà
văn khác và cũng lập tức nhận được
sự hợp tác rất vui vẻ. Chúng tôi cứ
cười với nhau và bảo có lẽ v́ hầu hết
cánh nhà văn đều là những ống khói tích cực,
ông Wolfgang vui vẻ nói.
Tính cho đến thời điểm Tháng
Sáu năm nay, đă có 15,000 cuốn tiểu thuyết trên
vỏ bao thuốc lá được bán ra. Tháng Mười
này, nhà xuất bản sẽ tung ra serie thứ 4 gồm
nhiều tiểu thuyết mini của các nhà văn nổi
tiếng và cả 5 câu chuyện hấp dẫn nhất trong
700 tác phẩm dự cuộc thi tiểu thuyết ngắn
được tổ chức từ Tháng Năm đến
Tháng Bảy.
Những câu chuyện trên bao thuốc lá
được người hút thuốc sưu tầm,
truyền tay nhau trao đổi và trở thành một
thứ sành điệu ở các quầy bar. Cả những
người chẳng hút thuốc lá bao giờ cũng đi
mua những vỏ bao như vậy để tặng,
hoặc giữ làm đồ quư cho tủ sách của ḿnh.
Người ta đă tổ chức một số buổi
hội thảo về đề tài này và thu hút rất
nhiều sự quan tâm của độc giả.
Thậm chí đề tài một
số chuyện đă xuất bản trong kỳ II, III
được viết thông qua các buổi gặp mặt
như thế. Mỗi tác giả có thể giữ cho ḿnh
một không gian sáng tác riêng có thể vươn tới
mọi lĩnh vực. Người đọc có thể
thưởng thức văn chương của những
cây bút nổi tiếng chỉ trong thời gian một
điếu thuốc. Đó chính là sức hút kinh khủng
của loại h́nh văn học mới này,
Một nhà văn Đức b́nh luận. Vỏ bao có
thể được sử dụng nhiều lần, sau
đó cất vào thư viện và như vậy sự
đóng góp của nó cho nền văn học sẽ
được nhắc đến khi các bộ sưu
tập ngày một dày thêm. Chính tôi từng bỏ 10 Euro mua
một serie 5 cuốn về đọc ngấu nghiến
trong bữa sáng. Công việc của các đồng
nghiệp không tệ một chút nào nếu không nói là rất
được.