KHOẢNG TRỐNG
MÙA XUÂN
(Hạo Nhiên Nguyễn Tấn
Ích)
Hôm qua, nhân chuyến chở gạch
ngói tại thị trấn Madagui, Hạnh đến
khu kinh tế mới Cát Tiên để báo cho
Cẩm Thi biết Tuấn được ra tù. Chậm lắm là
ngày mai chàng sẽ về đến nơi.
Đó là tin tức Hạnh nhận được
từ bức thư của cụ Thuần,
bố nàng gởi về.
Nhân ngày Tết Nguyên
Đán sắp đến, Hạnh mang biếu Tuấn
một chiếc áo vét-tông, loại hàng
"xi-đa" của nước ngoài cứu trợ. Chiếc áo còn khá tốt,
bằng loại vải nỉ màu xám xanh có
những sọc nhỏ trắng vừa lịch sự lại
vừa có thể "trị" được
cái rét nứt da của mùa Đông trong
thung lũng đầy uất khí nầy. Được
tin bất ngờ, Thi ôm chầm lấy Hạnh,
vùi mặt vào vai bạn để che giấu những
giọt nước mắt vui mừng.
Từ khi đứa con gái của Cẩm Thi
và Tuấn bị bệnh sốt xuất huyết bỏ
mình tại khu đầm lầy này, cuộc sống
của nàng vô cùng ảm đạm. Nỗi đau buồn, thương tiếc đứa
con thân yêu khiến Thi hụt hẫng. Nàng như chiếc lò xo mất hết
xung lực. Tương lai là bóng mây chập
chùng vây bủa, chỉ còn sót lại
chút lửa sưởi ấm trái tim
cô đơn của nàng là niềm hy vọng
nhỏ nhoi vào ngày đoàn tụ của chồng.
Đã nhiều lần Hạnh khuyên nên bỏ
khu kinh tế mới này đi nơi khác nhưng
Thi không muốn rời xa nấm mộ đứa con
gái yêu quý của mình.
Việc đầu tiên của Cẩm
Thi là sửa soạn và quét dọn túp lều
cho sạch sẽ, thoáng mát. Mua chiếc chiếu mới
thay chiếc chiếu trải giường đã
mòn, và một chiếc gối độn bông
gòn dành riêng cho Tuấn. Kéo tấm
màn gió qua một bên để lộ chiếc
giường với hai cái gối đặt song song
bên nhau khiến lòng Thi bỗng dưng rạo rực,
đỏ mặt thẹn thùng. Đã mười
năm vò võ đợi chồng, đêm về
nghe ray rứt niềm cô đơn. Hôm
nay, tinh thần phấn chấn, Thi chợt nhớ đến
bài thơ của Tuấn gởi cho nàng ngày
mới vào tù. Chàng đã dịch theo ý bài thơ Xuân Tứ của
thi hào Lý Bạch nói lên tâm sự của
người vợ chờ chồng:
Đất Yên cỏ mọc tơ
xanh
Bãi dâu đượm nét
thiên thanh xứ Tần
Ngày về chàng nhớ bao lần
Bấy nhiêu lần thiếp như
dần ruột đau
Gió xuân nào biết cho nhau
Bỗng dưng lay động màn
sau làm gì ?!
Thi trải một tấm vải nhựa
màu xanh nhạt lên mặt chiếc bàn nơi
phòng khách. Cái áo vét-tông, quà Tết của
Hạnh tặng cho Tuấn được choàng
lên thành chiếc ghế dựa.
Đứng ngoài xa nhìn vào
cái phòng khách tý hon ấy, lòng Thi thấy
rộn lên những kỷ niệm êm đềm của
ngày nào vợ chồng nàng đến
thành phố Đà Lạt hưởng tuần
trăng mật sau ngày lễ thành hôn. Trong căn phòng lớn của
khách sạn, trên bàn xa-lông, một
bình hoa tươi được chăm sóc mỗi
ngày. Những đóa hồng nhung hàm tiếu
hương thơm thoang thoảng. Chợt,
Thi nảy ra sáng kiến phải có bình hoa
trên bàn ăn. Chồng nàng
dù là một quân nhân nhưng tâm hồn
lại như một thi nhân, mơ mộng và
đa tình. Ở đây đủ loại hoa
rừng mình có thể góp nhặt được
một bình hoa rực rỡ sẽ tăng thêm phần
trang trọng cho bữa cơm đoàn tụ và
mang chút hương vị ngày Xuân. Thi thầm quyết định.
Buổi sáng, khi sương đêm còn
đẫm ướt lá rừng, mặt trời
chưa nhuộm vàng trên đỉnh dãy
núi cao, Thi đã cắp rổ đến ven rừng
chọn cắt những cánh hoa dại có màu
sặc sỡ nhất đem về chưng
trên bàn ăn. Bên cạnh
bình hoa, nàng đặt sẵn hai cái
chén cùng hai đôi đũa. Nàng nấu một xoong cơm, đặc biệt
gạo trắng không độn sắn như mọi
ngày. Một đĩa thịt heo
kho, một đĩa rau muống luộc. Thi nhớ lại những bữa cơm thịnh
soạn ngày trước, Tuấn lúc nào cũng
thích món cá biển chiên dòn.
Nàng vội vã đóng cửa cẩn thận
rồi đạp xe chạy ra thị trấn
Madagui cách nhà khoảng bốn cây số, mua
cho được lát cá biển để
đãi chồng.
* * *
Dưới bầu trời nắng ấm của tiết
lập Xuân, con tàu Thống Nhất xuôi Nam lướt qua những cánh
rừng cao su bạt ngàn của miền Nam. Trong toa tàu chất đầy hàng
hóa, hai người, một già một trẻ ngồi
bệt trên sàn tàu. Cả
hai mặc áo quần tù. Thân
thể người nào cũng gầy gò, xanh xao.
Cụ già ngồi bên lên tiếng hỏi :
- Hôm nay là
ngày 29 tháng Chạp, chỉ còn mười mấy
tiếng đồng hồ nữa là lễ
đón giao thừa, cậu định về đâu ?
Người tù trẻ hướng mắt
nhìn qua khung cửa tàu, buồn bã trả lời :
- Bố mẹ cháu đã qua đời từ
lâu. Giờ đây cháu không
còn một ai thân thích. Cách
đây bốn năm vợ cháu sống tại khu
kinh tế mới Cát Tiên có nhờ một
người mang vào trại tù ít quà
và một bức thư báo tin
đứa con gái của cháu đã chết
vì bệnh sốt xuất huyết. Từ
đó đến nay bặt tin nàng. Tuy nhiên, cháu sẽ đến Cát
Tiên tìm vợ cho trọn tình trọn nghĩa.
Trong thâm tâm, cháu làm sao tin
được mười năm qua nàng ở vậy
chờ chồng. Điều bán tín bán
nghi là bốn năm sau cùng, nàng không hề
viết cho cháu một lá thư
nào. Nếu vợ cháu có sang thuyền
khác, cháu cũng chẳng hề giận hờn,
trách móc. Cầu mong cho nàng
có được hạnh phúc với người
chồng mới.
Ông cụ nhìn người bạn tù trẻ,
an ủi :
- Tuổi trẻ của cậu còn có điều
kiện gầy dựng lại tương lai, bi quan
làm gì cho mất nhuệ khí.
Tiếng còi tàu bỗng hú
vang báo hiệu đến trạm dừng đã
cắt ngang câu chuyện giữa hai người. Anh tù trẻ đứng lên, lễ
phép bắt tay người tù lớn
tuổi khi con tàu vừa ngừng hẳn trên
sân ga. Ôm trên tay chiếc túi bằng bao
cát, anh ta bước xuống tàu hướng về
ngã ba Dầu Giây. Chiếc xe khách hiệu
Renault chạy ì ạch trên quốc lộ 20 trực
chỉ đến huyện Đạ- Hoai tỉnh Lâm
Đồng. Trải qua mấy tiếng đồng hồ
ngồi ép mình trong lòng xe nhét đầy
hàng hóa, người tù uể oải bước
xuống xe tại ngã ba Madagui rồi thuê xe ôm
vào khu kinh tế mới Cát Tiên.
Sau khi dò hỏi biết rõ nhà của
Lê Thị Cẩm Thi đang ở, người tù
xăng xái đến căn nhà lá nằm cạnh
bờ suối. Lòng anh rộn ràng nhìn căn
nhà trước mặt đứng im lìm như
cam chịu cái nắng hầm hập của núi rừng.
Cạnh nhà là con suối, nước chảy
róc rách dưới những tảng đá nằm
phơi mình giữa dòng nước trong. Anh hồi hộp tiến vào trước mặt
nhà rồi gõ vào cánh cửa. Yên lặng. Người tù vòng
ra sau nhà. Trên bếp là xoong
cơm còn ủ than hồng. Anh lại
vòng quanh ra phía trước. Nhìn qua cửa
sổ nơi phòng khách, anh trông thấy
trên chiếc bàn ăn với
hai cái chén, hai đôi đũa và một
bình hoa tươi. Anh nghĩ, có lẽ
vợ anh chuẩn bị đón Giao thừa, rồi
chú ý đến chiếc áo vét-tông
đàn ông choàng trên lưng dựa của
chiếc ghế ngồi khiến anh tái mặt. Nhìn sâu bên trong là chiếc
chõng tre có hai cái gối đặt song song
trên đầu giường. "Thế này
là thế nào ?", người
tù tự hỏi. Rõ ràng là vợ anh hiện
đang sống chung với một
người đàn ông khác. Thoạt tiên,
anh tự an ủi : "mình
tìm lầm nhà" nhưng khi tấm ảnh của
con gái anh trên trang thờ đập vào mắt
khiến anh lặng người. Trái tim anh tưởng
chừng như có bàn tay vô hình bóp
chặt, cơn đau đớn tận cùng làm
tê liệt cả tứ chi. Nước mắt ứa
ra chảy ràn rụa trên khuôn mặt xanh xao của
người tù đang đứng chết lặng
trước thềm nhà. Chợt tiếng
chim khách vang lên trên ngọn cây cao bên
dòng suối. Anh sực tỉnh, vội lấy
bút viết vài dòng nguệch ngoạc
vào một mảnh giấy nhỏ, gài vào
cánh cửa liếp, rồi rời căn nhà
như chạy trốn.
Cẩm-Thi lật đật đạp xe về nhà, mồ hôi ướt
đẫm lưng chiếc áo bà ba. Trên
ghi-đông xe treo lủng lẳng chiếc
làn đựng lát cá và ve dầu phụng
mới mua. Dựng xe vào gốc
cây trước sân, nàng dáo dác
nhìn quanh. Chẳng có ai. Thi yên tâm mở cửa vào nhà.
Bất ngờ mảnh giấy nằm trong kẹt
cửa rơi xuống đất. Mở mảnh giấy
ra, Thi bàng hoàng nhận ra chữ viết của Tuấn : "Chúc mừng hạnh
phúc mới của em. Vĩnh biệt con gái
yêu thương của Ba" !
Thi vứt tờ giấy xuống nền nhà rồi
ôm mặt khóc tức tưởi...
* * *
Thời gian thấm thoắt trôi ...
Từ khi Tuấn rời căn nhà của Cẩm Thi,
không ai biết điều gì đã xảy
ra. Chuyện
của hai người tưởng chừng như đi
vào quên lãng.
Đầu năm 1989, Hạnh và con đến Mỹ
theo diện đoàn tụ với chồng.
Hai năm sau, ông cụ Thuần lên đường
định cư tại Hoa Kỳ theo diện
cựu tù nhân chính trị. Người
tù lớn tuổi cùng về với Tuấn trên một chuyến tàu
xuôi Nam vào những
ngày giáp Tết chính là ông Thuần
bố của Hạnh. Hiện gia đình của họ
sống sum họp tại thành phố Stockton
thuộc miền Bắc California.
Đời sống của vợ chồng Hạnh
đã tạm thời ổn định.
Hạnh đẩy chiếc xe
đi chợ đựng đầy thức ăn băng
qua khu parking đến xe của nàng đậu từ
xa. Chợt một người đàn ông hai tay xách mấy túi nylon đựng
thức ăn đi lướt qua mặt nàng. Nhìn nghiêng khuôn mặt người ấy
có nét hao hao giống Tuấn. Nàng
nhanh chân vượt qua để nhìn tận
tường khuôn mặt của anh ta. Hạnh vẫn còn hoài nghi bởi
đã gần hai chục năm rồi có thể
bị nhìn lầm - nàng nghĩ. Nhưng
để cho chắc chắn, nàng hỏi
:
- Xin lỗi, có phải anh là Trương
Đình Tuấn, chồng của cô Lê Thị
Cẩm Thi ở Việt Nam.
Người đàn ông ngạc nhiên
đứng lại nhìn Hạnh một hồi lâu,
lên tiếng :
- Xin lỗi, tôi chưa được hân hạnh
biết cô. Ngưng một lát như để gợi
lại trí nhớ của mình, anh ta tiếp :
- Vâng, tôi là Tuấn, người chồng
trước của cô Thi.
- Thế ai là người chồng sau ? Hạnh bực bội sẵng
lời.
- Làm sao tôi biết được
?
- Nầy anh Tuấn, anh đã nhận ra tôi
là ai chưa ?
- Tôi nhớ đã có lần gặp chị
nhưng quên tên.
- Hạnh đây, bạn của Cẩm Thi vợ
anh đấy.
Tuấn vừa kịp ồ lên một tiếng
thì Hạnh đã chận ngay :
- Tôi sẽ không xin lỗi anh cho dù lời
nói của tôi sau đây có cộc cằn,
thô lỗ : Anh là một người
chồng rất hồ đồ và tàn nhẫn. Đã sáu năm qua tôi cố ý
tìm anh để thanh minh cho Thi, nhưng hoài
công. Có lẽ Thượng đế thấy
rõ lòng Thi, cho nên hôm nay trời dun dủi
cho tôi gặp được anh. Tôi cần
nói chuyện với anh về Thi, và sẵn dịp
mời anh đến nhà sẽ gặp ông Thuần
bố tôi. Ông cụ thường hay nhắc
đến tên anh luôn. Đây
là số điện thoại và địa chỉ
của tôi. Chiều mai tôi mời
anh đến nhà dùng cơm gia đình.
Hy vọng anh không từ chối.
Tôi sẽ cho anh biết tin tức về Thi, một
người vợ chung tình và
rất đáng ca ngợi.
Hạnh nói xong đẩy xe
đi. Tuấn chần chừ muốn hỏi
thêm điều gì đó, nhưng nàng
không quay đầu lại.
Cuộc gặp gỡ giữa cụ Thuần
và Tuấn khá cảm động. Hai người quấn
quít bên nhau nhắc lại những năm
tháng khổ lụy trong tù. Sau
bữa cơm, Hạnh xin phép cha và chồng
được nói chuyện riêng với Tuấn. Nàng đặt
hai ly nước trên chiếc bàn nhỏ dưới
mái hiên trước nhà, rồi mời Tuấn
ngồi. Không cần mào đầu, Hạnh
đi thẳng vào vấn đề :
-
Đã sáu năm rồi tôi và Thi
mang uẩn khúc trong lòng chưa được
giãi bày. Hôm
nay, tôi mong muốn được anh giải thích
nguyên nhân nào anh đã quyết định
rời bỏ căn nhà của Thi ra đi không trở
lại ?
Tuấn nhìn Hạnh, với ánh mắt
đượm buồn chàng nhỏ nhẹ trả lời :
- Như chị biết
đó, bốn năm sau cùng trong tù, vợ chồng
tôi đã mất tin tức của nhau. Ngày tôi ra tù là hoàn
toàn bất ngờ đối với Thi. Niềm hy vọng của tôi là Thi vẫn
đợi chờ. Nhưng khi tìm đến
căn nhà trong khu kinh tế mới Cát Tiên,
thì than ôi, một cảnh tượng phũ
phàng đập vào mắt tôi :
Hai cái gối trên giường ngủ. Hai cái chén, hai đôi đũa, một
bình hoa đặt sẵn trên bàn ăn. Còn có cả chiếc áo
vét-tông đàn ông treo trên thành ghế
dựa. Khung cảnh đó đủ
nói lên cuộc sống hạnh phúc của một
cặp vợ chồng. Hẳn chị trách
tôi không đủ can đảm để ngỏ
lời chia tay với Thi chăng ? Đúng vậy, tôi
không thể chịu đựng thêm cơn đau
xé lòng nếu phải đối diện trước
cảnh vợ tôi cùng với người
đàn ông khác dắt tay
nhau về căn nhà hạnh phúc đó. Tôi không hờn giận Thi, chỉ buồn
cho thân phận hẩm hiu của mình.
Nghe qua lời kể của Tuấn, Hạnh
đưa hai tay lên trời, một cử chỉ
phân trần rồi chua xót thốt lên
:
- Thi ơi, mày đã đoán
đúng với sự suy nghĩ của chồng mày ! Chúa ơi, chẳng lẽ
Người sắp đặt ra cảnh chia lìa ấy
sao ?
Hạnh hướng mắt nhìn
lên bầu trời cao như đang cầu nguyện. Khi tâm tư bớt xao động,
nàng lên tiếng :
- Ngày đó, tôi đã trách
anh, trách thậm tệ, Tuấn ạ. Tôi
trách anh đã hành xử hết sức độc
ác đối với Thi. Bây giờ
thì tôi hiểu. Sự lầm lẫn
đó do ngoại cảnh tạo nên một
cách vô tình nhưng không kém phần tai hại. Tuy nhiên, xin anh hiểu cho rằng,
Thi trang trí chiếc bàn ăn
đó là chuẩn bị cho bữa cơm
đón anh về. Chính tôi là người
báo cho Thi biết tin anh được ra tù qua thư của Ba tôi gởi. Chiếc
áo vét-tông là món quà Tết của
tôi đã mua biếu anh mặc ấm chống lại
cái lạnh của khu
rừng
già. Anh có biết lúc anh
tìm đến nhà là lúc Thi chạy ra chợ
mua cho được khoanh cá biển mang về.
Nó tâm sự : "Ngày
trước Tuấn rất thích ăn món cá
mình
chiên".
Nghe đến đây, Tuấn trố
mắt nhìn Hạnh, da mặt của anh bỗng
tái nhợt, những giọt mồ hôi rịn ra
trên vầng trán đã xuất hiện
vài nếp nhăn.
Không để ý đến sự biến đổi
tâm trạng của Tuấn, Hạnh tiếp
:
- Sau khi đọc mảnh giấy anh để lại,
Thi đã vật vã khóc suốt ba ngày liền.
Rất may là tôi đến thăm kịp thời, không
thì Thi đã quyên sinh bên mộ con
gái rồi.
- Thế chị có biết hiện giờ Thi ở
đâu. Nàng có khỏe mạnh không
? Tuấn nôn nóng ngắt lời
Hạnh.
- Tôi đã an ủi
và khuyên nhủ nhiều lần, Thi mới rời
khỏi khu kinh tế mới. Tôi giới
thiệu Thi với tổ hợp Gạch Ngói huyện
Đạ- Hoai của anh rể tôi. Họ nhận
nó vào giữ chân thư
ký kế toán. Ngày tôi rời Việt Nam lên
đường sang Mỹ, Thi có xuống Sài
Gòn tiễn mẹ con tôi lên máy bay. Hiện
giờ, chúng tôi vẫn thư từ
với nhau. Mới đây, tôi nhận được
thư của Thi, có vài thay
đổi trong cuộc sống của nó. Lát nữa,
tôi sẽ cho anh xem thư của Thi.
Bây giờ anh có thể kể cho tôi nghe về
anh, từ lúc anh rời khỏi căn
nhà của Thi ?
Ánh mắt thất thần của Tuấn
ngước nhìn Hạnh. Chàng nâng ly hớp một
ngụm nước cho thấm giọng, chờ hồi
lâu chàng mới lên tiếng :
- Ngày đó, tôi rời khỏi căn
nhà của Thi, nói đúng hơn là chạy
trốn. Tôi lội bộ trên con đường
đất đỏ dưới cơn nắng gay gắt
đến bến xe đi Sài Gòn mà thần
trí của tôi lúc bấy giờ không
khác gì kẻ mộng du. Đến Sài
Gòn, tôi đã cố tâm tìm nhà của
bác Thuần, bố chị trong khu Bàn Cờ
nhưng người nào cũng lắc đầu
không biết. Tôi đành đến
nhà người bạn học của tôi hồi
còn trung học tạm trú qua một đêm.
Phần vì sợ công an hỏi giấy
tờ, phần cha mẹ của thằng bạn sợ
người mặc áo quần tù, tôi
đành gượng gạo mượn của bạn
tôi bộ sơ-mi quần mặc tạm. Tôi biết cuộc sống của gia
đình bạn tôi vô cùng gieo neo.
Sáng ngày hôm sau, tôi đang
lang
thang trên đường Phan Thanh Giản, một
người đạp xích-lô rà xe mời
tôi. Chợt hắn la lên :
"Đại úy Tuấn ! Đại úy về hồi
nào ?". Tôi hoảng
hốt quay nhìn hắn, thì ra là Trung sĩ Hiển,
thuộc cấp của tôi ngày xưa. Hiển
thúc tôi lên xe chở về
nhà. Hắn đã nuôi tôi suốt
mấy tháng trời và cũng nhờ Hiển bảo
lãnh với chủ ghe cho tôi thiếu nợ để
cùng với gia đình hắn vượt biển
trong chuyến đi đầy nguy hiểm.
Hạnh ngắt lời :
- Thế bây giờ anh ở đâu
?
- Tôi thuê phòng của một gia
đình người Việt trong thành phố nầy.
Khi qua Mỹ rồi, tôi đã gởi cho Thi hai lần
thư nhưng chẳng thấy hồi
âm. Khi nghe chị kể sự thực về
Thi lòng tôi vô cùng đau xót.
Tôi hết sức ân hận sự
hồ đồ của mình đã làm cho vợ
tôi phải chịu muôn vàn đắng cay. Lỗi tại tôi. Lỗi tại anh
muôn phần, Thi ơi !
Tuấn vừa nói vừa đấm
vào ngực mình rồi ôm mặt khóc nấc
lên. Chàng
khóc tự nhiên trước mặt Hạnh. Những
giọt nước mắt ướt đẫm lòng
bàn tay chảy thành dòng
rơi xuống nền hè. Không để cho Tuấn
thấy dòng lệ của mình cũng đang chảy
ràn rụa, Hạnh đứng lên vào
nhà. Nàng cảm thông cho Tuấn
nhưng lại càng xót xa và thương cảm
cho thân phận của Thi. Hạnh lấy
giấy tissue chậm khô nước mắt mình
trước khi mang cả hộp ra trao cho Tuấn.
Chờ cho Tuấn qua cơn xúc động, Hạnh
đặt bức thư của Cẩm
Thi trước mặt chàng. Tuấn vội lấy bức
thư mở ra đọc :
"Đạ Hoai, ngày ...
Hạnh thân mến,
Không như những lần trước, lần
nầy mình hồi âm thư của
Hạnh chậm đến hai tháng. Một thời
gian dài để suy nghĩ, đắn đo chọn
cho mình một con đường thích hợp. Mình quyết định thôi việc trong
Tổ hợp Gạch ngói của anh rể Hạnh. Vợ
chồng anh chị Nghiêm xem mình như đứa
em gái. Anh chị khuyên Thi
nên lấy chồng để có nơi
nương tựa. Anh còn giới thiệu cho
mình ông cán bộ trưởng phòng
thương nghiệp huyện. Một hôm anh ta đến
văn phòng tổ hợp để ký hợp
đồng trao đổi hàng hóa hai chiều, rồi
rà rẫm bên Thi mở lời tán tỉnh. Bất
chợt dạ dày của mình quặn thắt từng
cơn, nước dãi tuôn ra đầy miệng. Không
đè nén được, mình bụm miệng
chạy ra ngoài nôn ọe như người
đàn bà có triệu chứng cấn thai. Nhìn vào bụng mình, anh ta
cười, nhe hàm răng vàng nhựa thuốc, bảo:
- Anh
tình nguyện làm bố đứa
bé trong bụng đấy.
Không có một lời tán
gái nào bất nhã, vô duyên hơn
câu nói của hắn. Máu nóng bốc lên tới đỉnh
đầu, mình trả đũa ngay:
- Nếu sự thật đúng như vậy
thì đứa bé vô phúc quá bởi
nó có một người cha như ông
!
Anh ta đi rồi mà nỗi ấm ức
trong Thi vẫn còn. Hắn đã đánh giá những
người vợ có hoàn cảnh như bọn
mình như thế đấy. Mình
gục đầu trên bàn khóc tức tưởi
cho đến khi có tiếng kẻng dùng cơm tối
vang lên. Chẳng biết hiện giờ
Tuấn ở đâu. Nếu anh ấy
quẫn trí, rủi ro có mệnh hệ nào
thì chính mình là người gây
nên tội. Đã mười mấy
năm rồi mà hình ảnh của Tuấn
không hề phai mờ trong tâm trí mình.
Đêm nào mình cũng mơ thấy
anh ấy, khi thì trách hờn, khi thì âu yếm.
Mình biết Tuấn đã phải
chịu đựng nỗi đau xé lòng khi
nhìn thấy cảnh trí trong nhà mình
đã khiến cho anh hiểu lầm. Nghĩ đến thân
thể gầy gò yếu đuối của Tuấn thất
thểu trên đường, nhiều đêm
mình khóc, nước mắt ướt đầm
cả gối. Tuấn không thể
nào thấy được tình yêu của
mình đã dành cho anh ấy sâu đậm
đến mức nào. Hương Thơ là
đứa con gái duy nhất của mình và Tuấn.
Nó mất đi đã mang theo một
nửa trái tim của mình. Giờ đây Tuấn
đã bỏ mình ra đi biền biệt là
chàng đã làm khô héo nửa quả
tim còn lại . Vì vậy Thi
đã quyết định làm theo
hạnh nguyện mấy năm nay là vào chùa
tu tịnh. Mình nguyện dành phần
đời còn lại cho Phật pháp. Hiện giờ mình đang ở chùa
sư nữ thuộc xã Phương Lâm trên quốc
lộ 20. Sư phụ chưa cho
mình xuống tóc. Sư bảo: "Xuống
tóc là đệ tử bắt đầu vào
đời sống của một sa-di. Nhìn
cặp mắt đệ tử, thầy biết con chưa
dứt bỏ được trần tục. Bi lụy, sầu não, nhớ thương
là những mối tơ vướng mắc của
người bước vào đường tu tịnh.
Hãy ở lại đây tu tập hằng
ngày rồi đệ tử sẽ vứt bỏ dần
mọi vọng tưởng, vọng động, phiền
não và khổ đau. Mai sau tâm hồn con
sẽ an nhiên tự tại".
Hạnh ơi, hàng ngày
mình cầu nguyện đức Phật
A-Di-Đà phò hộ cho gia đình bạn
luôn luôn hạnh phúc nơi xứ người. Mình cầu xin đức
Quan Thế Âm bảo hộ cho Tuấn vượt qua
những thăng trầm và khổ đau trên
đường đời. Cầu
chúc Hạnh và gia đình thân tâm
thường an lạc.
A Di Đà Phật.
Lê Thị Cẩm Thi
Tuấn cẩn trọng xếp bức thư bỏ
vào phong bì trao cho Hạnh. Chàng đứng
lên, nói với Hạnh :
- Ngày mai tôi xin gấp giấy tờ về
Việt Nam
để gặp Thi. Hy vọng nàng sẽ
tha thứ lỗi lầm cho người chồng nông nổi
nầy. Tôi nguyện với
lòng sẽ mang hạnh phúc cho nàng để
bù đắp lại những năm tháng khổ
đau mà vợ tôi đã trải qua. Lời
tri ân gởi đến chị
chưa đủ để đền đáp nghĩa
tình mà chị đã dành cho vợ
tôi. Cho tôi nhắn lời xin lỗi
Bác Thuần và chồng chị. Tôi cần phải lên đường
càng sớm càng tốt.
Đưa tay ra hiệu chào tạm
biệt Hạnh, Tuấn hối hả băng qua đường
lên xe phóng về nhà.
* * *
Tuấn xuống phi trường Tân Sơn Nhất,
bao xe taxi chạy thẳng đến
Phương Lâm. Ngôi chùa sư nữ
nằm sâu nơi chân núi cách quốc lộ
20 chừng vài cây số. Tuấn phải xuống
xe lội bộ qua cánh đồng
bắp. Ngôi chùa tuy nhỏ nhưng
trông uy nghi giữa vườn cây trái xanh
tươi. Tuấn không đi thẳng
vào chánh điện mà vòng qua khu
nhà khách. Chợt vẳng lên tiếng A
Di Đà Phật, rồi một ni cô mặc áo nâu
sòng, bưng trên tay một rổ trái cây
từ góc vườn xuất hiện trước mặt
chàng :
- A Di Đà Phật, quý khách muốn
vào lễ
Phật ?
Tuấn đứng như chôn
chân nhìn người sư nữ. Sư nữ cũng
nhìn chàng đăm đăm. Một khắc
sau, rổ trái cây trên tay ni cô rơi xuống
đất vung vãi, nàng nấc lên
:
- Ôi anh Tuấn ! Người
sư nữ khuỵu xuống. Tuấn vừa kịp
đưa tay đỡ nàng rồi ôm chặt tấm
thân tiều tụy của vợ vào lòng,
chàng kêu lên :
- Thi ơi, tại anh mà ngày nay em ra nông
nỗi này !
Tuấn áp mặt mình vào
mặt vợ, nước mắt chàng làm ướt
đẵm khuôn mặt tái xanh của Thi khiến
nàng tỉnh lại. Mở mắt nhìn Tuấn và lệ
nàng cũng bắt đầu tuôn chảy, chan
hòa với nước mắt của chồng.
Từ nãy giờ, ni sư trụ
trì đã chứng kiến cảnh trùng
phùng của cặp vợ chồng sau mười sáu
năm chia ly. Ngài nở nụ cười thanh
thoát, rạng rỡ tâm Phật nói với hai
người :
- A Di Đà Phật, thầy mừng cho đệ
tử được đoàn viên với chồng.
Âu đó cũng là duyên nghiệp.
Cầu mong cho con trở về với đời sống
trần tục được nhiều phước hạnh
và viên mãn.
Bước chân của vị sư
già hướng về nơi chánh điện. Tiếp theo là tiếng
mõ cầu kinh vang lên từ dưới chân bệ
thờ của đức Thế Tôn.
Vầng tà dương rạng hồng
tròn trịa gác mình trên đỉnh
núi cao. Hai
người vẫn chưa rời nhau, họ cùng quay
nhìn về đỉnh núi hướng tây vừa
xuất hiện bảy sắc cầu vồng khi ánh mặt
trời sắp khuất sau dãy núi mờ
sương như báo hiệu mùa Đông
đã qua rồi và mùa Xuân trở lại.
Hạo Nhiên Nguyễn
Tấn Ích
Trích trong tác phẩm cùng
tác giả "Hương Bồ Kết"
Liên lạc :
408-493-6309,
Email:
tan_ich@yahoo.com