HƯƠNG TRẦM
(Nguyễn Tấn Ích)
* Cảm ơn bạn MT
đã cung cấp một số kinh nghiệm về nghề
đi điệu.
Thời kỳ Bắc thuộc, bọn
quan lại Trung Hoa bắt dân ta xuống biển
mò ngọc trai, lên rừng tìm trầm
hương, ngà voi, sừng tê giác phải chịu
trăm điều gian nguy, khổ ải. Có kẻ ra đi bỏ xác trên rừng.
Người được trở về
thì mang bệnh tật suốt đời.
Thời đại ngày nay, sau
ngày 30 tháng 4, 1975, cuộc sống của dân
ta mỗi ngày mỗi thêm kham khổ. Dân quê phải
cào bới trên đồi hoang trồng sắn trồng
khoai để có cái ăn. Người
ta bắt đầu đào xới dưới đất
để tìm vàng. Dọc bờ suối,
trên sườn đồi, trong rừng sâu, nơi
nào nghi ngờ có quặng vàng là người
người bu vào xới tung
lên. Có kẻ sập hầm bị
chôn sống. Không ít người chết
vì bệnh sốt rét vàng da, chết vì
sơn lam chướng khí ... Chưa kể cảnh
đâm chém, giành giựt ,
thanh toán nhau vì vàng. Trong cảnh
khốn cùng ấy, nghề tìm trầm
hương nổi lên cùng lúc. Nhưng là một nghề đầy hiểm
nguy trực diện với thú dữ, nước
độc, bệnh tật và muôn vàn cái
chết chực chờ.
Phong trào trầm dấy lên từ các
vùng nông thôn lan nhanh đến
thành thị. Người nghèo mạt hạng bỗng
chốc có tí “nổ” chạy nghênh
ngang ngoài đường, vàng đeo trên tay lấp lánh. Lại
có cả nhà xây vách gạch, mái
ngói giữa đám nhà lá vách
trét đất bùn rệu rã. Cũng
có lắm kẻ vai u thịt bắp trúng trầm
bỏ cô vợ chân lấm tay bùn nơi ruộng
đồng lấy người con gái nơi thành
thị môi son má phấn mà quá khứ
đen như đêm ba mươi. Từ hang cùng
ngõ hẻm đến quán cóc bên
đường làng, đâu đâu cũng nghe
bàn tán về trầm.
Ông Hà Lương nguyên
là thợ rừng giàu kinh nghiệm, nhiều
năm miệt mài trên vùng rừng núi
Kontum, Đắc Lắc nôn nao trước làn
sóng người đổ xô tìm trầm. Cố ngơ đi mà
không được ông bèn bỏ nghề khai
thác gỗ chuyển qua tìm trầm. Ông đứng ra làm chủ bầu
thành lập toán đi điệu.
Phan Huy Đông hai lần thi đậu đại
học nhưng vẫn không được “cắt
hộ khẩu” để di chuyển vào
thành phố nhập học với lý do cha ruột
thuộc diện “Tập trung cải tạo”. Buồn
chí, Đông theo bầu điệu đi
tìm trầm. Những chuyên viên
tìm trầm có hạng đa phần là
người Phú Khánh. Vì vậy
ông Lương và Đông phải đích
thân vào Phú Yên tìm người nhiều
kinh nghiê.m. Có sẵn danh sách trong tay nên việc tìm người
có khả năng chẳng khó khăn gì.
Người đầu tiên là
Trần Văn Thí sinh trưởng ở Tuy Phước
sống tại thị xã Tuy Hòa, đã
hành nghề đi điệu gần mười
năm. Hắn chỉ
nhìn da cây dó là biết có trầm
nhiều hay ít trong ruột. Bạn bè ví von : “Tề
Thiên Đại Thánh có thiên lý
nhãn, Trần Văn Thí có tia nhìn
xuyên mộc”. Trong buổi tiệc họp mặt tại
nhà ông Lương, Thí đã tỏ ra
là người sành sõi về nghề
tìm trầm, hắn giải thích :
- Trầm hương chỉ được cấu tạo
trong cây dó bầu. Loại dó nầy có
lá to, dày, thịt cây màu trắng.
Cây nào trầm ăn nhiều
thì thịt cây trở thành màu vàng.
Cây dó nào suôn đuột ít
nhánh ít cành, thân cây cằn cỗi
là chắc mẩm có trầm ăn
bên trong ruột.
- Tại sao vậy ? Ông
Lương vừa châm rượu vào ly cho
Thí vừa hỏi.
Hít hết hơi thuốc cuối cùng, vứt
tàn thuốc qua cửa, Thí giải thích:
- Khi tinh dầu trầm đã thành hình
nhiều trong ruột, cây sẽ không lớn nổi
vì sức nóng của nó. Những cây
dó nầy lâu năm sẽ bị chết khô. Có khi ngả xuống đất rồi bị
lá cây rụng chất chồng lên. Lớp
thịt bọc ngoài cây dó mục dần chỉ
còn trơ lại cái lõi trầm. Thí vừa
nói, vừa rút một điếu thuốc Điện
Biên, xóc xóc hai đầu : “Có một huyền
thoại về cây dó bầu trên sáu
trăm năm, toàn bộ phần ruột cây
dó biến thành kỳ nam nhưng chưa ai
tìm thấy. Nhiều người sành nghề trầm,
có cơ may bắt gặp mùi hương của
nó nên đoán được loại kỳ
nam. Đúng giờ Ngọ ngày mùng
một và ngày rằm hàng tháng là
nó phát tiết. Hương trầm tỏa thơm nồng cả cánh rừng.
Người nào đi vào phạm vi
tỏa hương của nó cũng ngẩn ngơ,
đầu óc mê muội đi, không biết
ngày
đêm, không biết mình là ai. Đến lúc mùi hương ma quái
đó biến mất họ mới sực tỉnh
và tiếc nuối. Người mới
gặp mùi hương nầy sống trong nỗi
hoài nhớ mãnh liệt, ba tháng mười
ngày sau thì chết. Đúng Ngọ thi thể
họ tỏa ra mùi trầm thơm ngát” (Theo
tác giả Hoa Ngõ
Hạnh TNVN )
Đông ngắt lời xen vào:
- Vì vậy mà các nhà nghiên cứu
về trầm hương đã đặt tên
là “Gỗ của các vị thần”. Theo
anh biết thì đã có điệu nào
trúng được kỳ nam chưa ?
- Có chứ, đó là trầm thượng
đẳng. Gặp nó cũng là
cơ duyên “lộc trời cho” của kẻ
tìm trầm. Thí ngừng một chặp, gắp
một miếng dồi thịt cầy bỏ vào miệng :
- Anh Tư Lương nấu món cầy ngon thật.
Quê Tuy Hòa tôi ít khi được ăn món đặc biệt nầy. Thí nâng ly rượu nếp than mời
anh em trong nhóm cùng chúc mừng buổi gặp
gỡ. Hắn ngửa cổ tu một hơi rồi
đặt ly xuống bàn:
- Còn một số loại cây dó
khác nữa như dó me, dó niệt ...
nhưng ít khi có trầm ăn
trong ruột, hạ nó xuống thêm phí sức
mà chẳng được gì.
Phận đưa cặp mắt thán phục
nhìn Thí rồi lên tiếng:
- Trầm được chia làm mấy loại,
thưa anh?
- Trầm hương chia làm nhiều loại tuy
không có tiêu chuẩn nào rõ rệt,
nhưng cặp mắt chuyên môn của người
đi trầm tựa như người chuyên nấu
rượu ngày xưa chỉ cần chấm một
giọt vào lưỡi là biết nồi rượu
đã đủ độ chưa. Ngoài
ra còn tùy thuộc vào bọn “tàu
kê”. Bọn chuyên viên nầy
phân loại trầm độc địa lắm.
Chúng nó thông đồng với các
công ty dược hoặc các địa điểm
thu mua đánh rớt hạng loại
hàng của mình, ép giá để ăn
chia. Chúng nó có kể gì
đến mồ hôi, xương máu của kẻ
tìm trầm.
Đại loại trầm chia làm sáu hạng:
- Sau kỳ nam là trầm búp còn gọi
là dách. Loại trầm nầy khi vừa
đẽo phần gỗ bên ngoài là xuất
hiện trầm màu nâu sậm. Gặp
loại nầy, có điệu cho là kỳ nam.
Nhưng thực ra làm sao sánh
được với độ đen của tinh dầu
đậm đặc óng ánh của kỳ nam.
Trầm kỳ nam gỗ nặng và nhuyễn có
đủ vị cay, chua, đắng, ngọt, thơm. Khi cháy, ngọn
khói màu xanh, lên thẳng và cao, bay lờ
lững rất lâu. Bầu điệụ
nào mà gặp được Dách cũng coi
như trúng độc đắc rồi.
- Loại 1 và 2 , trầm
được tỉa lấy ra từ thân cây
đủ loại hình dáng khác nhau nhưng phải
có màu nâu
đen, miếng trầm có độ dày,
phát mùi thơm nhẹ và có vị cay lẫn
đắng.
- Loại 3 giống tiêu chuẩn loại 1và
2 nhưng miếng trầm mỏng và nhỏ hơn,
nom không được đẹp mắt.
- Loại 4 và 5 là trầm bình thường
có chen nhiều màu vàng của
gỗ dó.
-Loại trầm bể vụn được cho
vào loại “xô”.
Các tay điệu còn
phân biệt trầm ăn ở nơi nào trên
thân cây để đặt tên. Chẳng hạn,
trầm ăn theo mắt cây gẫy gọi là
“Mắt đẫu”, ăn theo miệng lỗ kiến
đục thì gọi là “Kiến”, ăn
trong thân gần cháng hai, cháng ba cây giống
hình con bướm thì gọi là “Điệp”.
* * *
Sau buổi họp mặt, ông bầu
Lương phân công cho từng người phụ
trách. Mỗi
người phải lo sắm sửa đầy đủ
vật dụng. Cơ bản là phải có
chiếc ba-lô của bộ đội hay của
lính Miền Nam
càng tốt. Mang theo 15 ngày Mễ (gạo),
Diêm (lương khô), thuốc hút, thuốc chống
muỗi, chống vắt, một cái đèn pin,
áo mưa và dụng cụ khai thác trầm
như rựa, búa, rìu, bộ đục vũm
để tỉa trầm ... Riêng phần Đông
thì mang theo xoong nồi và chén đũa. Rừng
Khánh Hòa thì nổi tiếng về trầm từ
xưa. Nhưng rừng Ba Tơ thuộc
tỉnh Quảng Ngãi là tụ điểm mới
nhất của “trận chiến khai thác trầm”
thời bây giờ. Chính quyền
địa phương chỉ cấp giấy phép khai
thác trầm cho người chủ bầu có hộ
khẩu ở huyện Ba Tơ nhưng được quyền
mướn điệu chuyên nghiệp ở các
nơi khác tháp tùng. Thời gian đi về
giới hạn mười lăm ngày. Trầm
khai thác được bắt buộc bán cho
công ty dược của nhà nước với
giá chỉ bằng nửa giá thị trường.
Những toán điệu người kinh
từ các nơi đổ xô về đây
đều bị chận lại. Tuy
nhiên, họ cũng còn nhiều hướng
khác để đi chui, chỉ xa đường
hơn và phải trốn tránh lực lượng
kiểm lâm và đoàn quân truy bắt
người khai thác trầm lậu.
Trước ngày “ra quân” nhóm bốn
người gồm có Lương, Thí,
Đông và Phận giữ lòng thanh sạch,
làm lễ ăn thề. Họ thay
nhau uống hết ly “ Bạch kê huyết”
(máu con gà trắng) hòa với rượu cắt
ngay trên bàn thờ khói hương nghi
ngút. Vị chủ lễ là một pháp
sư người Ra-Đê lần lượt rảy
rượu lên đầu bốn thành viên sau
khi đọc lời thề : “ Nếu
có lòng dạ tráo trở, xin Thần Núi
tru diệt”. Sau giờ phút đó họ trở
thành anh em kết nghĩa, sống chết có nhau,
gặp may cùng hưởng, gặp nạn cùng
chia.
Ngày khởi hành nhằm tiết
Nguyên tiêu, trời trong, gió mát. Toán điệu theo hướng khu rừng
Bồ Nâm thuộc huyện Komplong tỉnh Kontum. Nơi đây rừng núi trùng điệp,
nổi tiếng là chốn thâm sơn cùng cốc,
nằm giữa biên giới hai tỉnh Quảng
Ngãi - Kontum.
Đường đi càng lúc càng
khó khăn, phải cắt rừng vượt thác,
trèo lên những con dốc đứng đến
nỗi mũi chạm đất, người đi sau
hôn gót chân người đi trước. Quả là nơi “sơn cùng thủy
tận”. Đi suốt ba ngày mới xuất
hiện rải rác những cây dó bầu trong
khu vực nầy. Ban đêm ngủ trong đon (căn
lều) đóng tạm bằng cây rừng che bằng
những tấm áo mưa. Đông
và Phận thay nhau giữ vai “anh nuôi”.
Họ tìm rau tàu bay, măng le cung cấp
thêm cho bữa ăn. Ngoài ra còn phụ
giúp ông Lương và Thí hạ cây
dó, cưa từng đoạn , bửa
ra làm đôi, xẻ từng mảnh để tỉa phần trầm
ăn trong thân cây. Qua hai ngày
“đóng quân” ở khu vực nầy, việc
tìm trầm chưa có kết quả gì.
Vào trưa ngày thứ ba, bỗng, tiếng
súng, tiếng mìn nổ vang rền cùng những
đám khói bốc lên ngùn ngụt từ
phía xã Hiếu. Sau nầy mới hay
toán điệu và dân thượng Sơn
Hà đốt nhà để trả thù trai
làng của họ bị toán võ trang dân tộc
làng Ngọc Têm bên Kontum giết. Sự việc
xảy ra vào hai tháng trước đây,
như sau:
Toán điệu ở Sơn Hà
đến khai thác trầm vùng giáp ranh huyện
Ba Tơ thuộc tỉnh Quảng Ngãi và Komplong
thuộc tỉnh Kon Tum. Một toán võ trang địa
phương Bồ Nâm (Kontum) đột nhập bất
thần vào lều bắn chết anh điệu
đang vo gạo thổi cơm chiều trên bờ suối.
Họ cướp hết vật dụng,
lương thực và số trầm đã khai
thác được trong mấy ngày qua.
Toán điệu đi tìm trầm trở về
“đon” thấy bạn mình đầu bị
đạn bắn vỡ ra, não sọ văng tung tóe gục chết trên soong gạo.
Máu tuôn đầy, biến nồi gạo
thành nồi máu. Họ chỉ
biết ôm xác bạn mà khóc rồi mang nạn
nhân về cho gia đình chôn cất. Hai
tháng sau, thân nhân của người chết
cùng dân bản làng và các toán
điệu hợp lại tràn qua biên giới
vào làng Ngọc Têm đốt phá
tiêu hủy hầu hết ngôi làng.
Trước tình hình rối loạn nầy,
dân làng bên kia có thể tràn qua ranh giới giết điệu để
trả thù. Ông Lương quyết
định rời khỏi khu vực hiện tại tiến
về hướng khu rừng Ba Xa. Lại
phải mất hai ngày sau mới đến nơi.
Phần mễ chỉ còn lại tám ngày ăn mà trong ba lô chưa có một
miếng trầm nào đắt giá. Vừa đến
nơi dự định, Phận phát giác
được hang đá, tuy không rộng lắm
nhưng đủ chứa được bốn người
ngủ tạm hàng đêm. Ông Lương
và Thí bủa đi tìm cây dó,
còn Đông quét dọn hang đá, sắp
xếp vật dụng đâu vào đấy. Phận xuống suối lấy nước nấu
cơm cho buổi chiều.
Suốt hai ngày vất vả hạ cây
dó đồ sộ có dấu hiệu có trầm
ăn bên trong. Cả ba người vừa cưa vừa
chẻ, còn Thí với tay nghề tỉa trầm
thành thạo cũng lấy được một
ít trầm thuộc loại 3 “mắt đẩu”,
“kiến” và “điệp” còn lại
là trầm “xô”. Chừng đó trầm,
bọn tàu kê có mua cao tay
khoảng vài cây vàng thì làm sao đủ
vốn sắm sửa lo cho chuyến đi tới, mọi
người buồn não nuột.
Ngày hôm sau, ba người lại bủa
đi tìm cây dó, Đông ở lại trại
lo nấu ăn cho buổi chiều. Hắn
đi dọc theo bờ suối, tìm
rau tàu bay và định bắt ít ốc
đá đem về nấu canh. Chợt, Đông
trông thấy bên kia bờ suối
nửa con heo rừng còn tươi rói. Hai đùi sau, và phần ruột gan
bên trong đều bị moi lấy mất.
Đông mừng quýnh vác heo về hang
đá cắt lấy hai đùi trước
làm món xào cho anh em thưởng thức,
còn lại cái đầu và phần bả
vai dành cho bữa ăn hôm sau.
Dù không có chút gia vị nào mà
hương thịt rừng thơm
ngào ngạt. Nồi thịt vừa chín tới
thì ba người kia về đến
hang. Phận trố mắt nhìn xoong thịt
vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ.
Ông Lương và Thí nhìn cái đầu
heo rừng treo lủng lẳng trên cành cây
trước hang đá, Thí vội hỏi:
- Thịt ở đâu vậy ?
Đông hớn hở trả lời :
- Của ai bỏ bên kia bờ
suối nửa con heo rừng.
Thí buột miệng :
- Trời ơi, cậu
cướp mồi của Ngài, làm sao tránh khỏi
báo thù !
Khuôn mặt Thí tái xanh
như gà bị cắt tiết. Anh yêu cầu đem trả
lại chỗ cũ cái đầu heo rừng và
xoong thịt đã chín. Phận
giúp Đông mang cả hai món thịt đổ
đúng nơi máu heo rừng còn đọng
vũng. Khi quay về họ ngạc nhiên thấy
ông Lương và Thí hạ cây rừng chung quanh chất ngoài miệng hang
đá thành một vòng cung như chuẩn bị
cho đêm lửa trại.
Khi cơm nước xong, trời bắt
đầu chập choạng tối, ông Lương cho
mồi lửa vào đống cây. Thí giải thích
:
- “Ăn của rừng rưng rưng nước
mắt”. Đó
là câu nói từ ngàn xưa để lại.
Bọn mình phải đánh đổi
mạng sống để cứu vớt cảnh
đói nghèo cho gia đình. Tôi biết
chắc chắn nửa con heo rừng ấy là mồi
thừa của cọp. Thế nào ổng
cũng trở lại tìm mồi. Khi
phát giác mồi bị mất là ngài biết
khu vực hoạt động của ngài đang
có đối thủ tranh giành. Đêm nay mình thay phiên nhau canh thức.
Nếu phát giác ngài đến
phải báo động hết cả tổ thức dậy
khua động và hò hét để ngài bỏ
đi. Qua được đêm nay, ngày mai
mình phải di chuyển đến khu vực khác
may ra thoát khỏi sự báo thù.
Đông cảm thấy mình
có lỗi đã gây ra sự phiền lụy
cho người khác nên tình nguyện thức
suốt đêm canh chừng để anh em ngủ lấy
lại sức. Nhưng
ông Lương bảo :
- Cậu là người đi rừng đầu
tiên, không biết những điều cấm kỵ.
Chúng ta đã coi là anh em kết nghĩa sống
chết có nhau, gặp nạn cùng chia, gặp may
cùng hưởng. Vì vậy, sau phiên cậu
đến Phận thức canh rồi kêu tôi dậy và sau
cùng là anh Thí.
Ngọn lửa
bùng cháy hừng hực vây kín miệng
hang đá. Đông ngồi ngoài miệng hang, tay thủ sẵn cây rựa. Hắn nghĩ
đến phản ứng của Thí khi nhìn thấy
đầu heo rừng lúc ban chiều có vẻ
quá đáng đã khiến cho Đông bất
bình. Nhưng khi nhìn thấy mặt
anh méo xệch, da tái xanh vì hoảng sợ
thì Đông chợt nhận thức được
một tai họa có thực đang chực chờ.
Nhìn qua ngọn lửa, bóng tối rừng
sâu vây quanh đen nghịt, cây cối phủ
kín cả bầu trời, Đông mới thấy
con người thật nhỏ nhoi trong cảnh u u minh minh
trùng điệp của thiên nhiên. Chàng
bây giờ có khác gì con sâu, cái kiến
bên bờ vực thẳm của sự bất trắc.
Vì cuộc sống quá cơ hàn mà con
người sẵn sàng đương đầu với
thú dữ, bệnh tật để giải thoát
cảnh tăm tối, lầm than, đớn hèn. Tiếng chim cú não nùng chợt vang
lên từ vòm cây trên đầu rồi vỗ
cánh bay, khiến ý nghĩ miên man của
Đông ngưng lại. Chàng phóng tầm
nhìn qua bức tường lửa, bỗng hai đốm
sáng như hai chiếc đèn pin màu xanh pha
đỏ từ ngoài rọi vào hang đá.
Thoạt nhìn, giống như mắt của loài
chó trong bóng đêm nhìn vào chiếc
đèn xe. Hai đốm sáng
đứng yên một chỗ khiến chàng
đâm nghi, lạnh cả xương sống bèn
vỗ nhẹ ông Lương dậy. Đông chỉ
hai đốm sáng trong lùm cây bên kia tường lửa cho ông xem. Ông
Lương giật mình bảo thầm: “ngài
đến rồi” bèn gọi mọi người
thức dậy vừa khua động xoong nồi vừa
la ó. Một hồi lâu sau đốm sáng vụt
biến mất. Từ lúc đó, cả bốn
người cầm rựa ở thế thủ ngồi chờ
sẵn sàng chống trả một khi hổ vượt
tường lửa tấn công vào hang đá.
Chờ cho ánh sáng ban mai xuyên thủng rừng
già, ba người mới xuống suối bảo vệ
cho Đông lấy nước về nấu cơm. Ăn uống xong, tổ điệu cắt
rừng đi qua ngả khác. Dù cao
tuổi nhất trong bọn nhưng ông Lương rất
tháo vát và tỏ ra thành thạo trong việc
tìm hướng đi. Không ai biết
quá khứ của ông, riêng Đông
thì rõ lắm nhưng giữ kín trong lòng : “Một thời mạo hiểm
nơi núi thẳm rừng sâu của lực lượng
Biệt kích”. Đường đi
vô cùng hiểm hóc lên dốc xuống
đèo. Đi được nửa ngày
đường, chẳng may Đông trượt
chân rơi xuống một cái hố sâu đầy
dây leo chằng chịt. Mọi người nhanh chân trèo xuống
hố phát quang bụi rậm cứu Đông.
Bất ngờ, Thí phát giác cây dó cụt
ngọn nằm trong đám dây leo
dày đặc như tấm lưới phủ
lên trên. Không chần chờ phút giây
nào, cả bốn người xông vào, kẻ
chặt người kéo đám dây leo lẫn gai mây. Thí
vào được bên trong lùm gai, đẽo
gọt một lúc khá lâu khiến cho ba người
đứng bên ngoài hồi hộp đợi chờ.
Chợt, từ trong bụi rậm tiếng Thí vang
lên ngắt quãng, tắc nghẹn trong cổ họng:
- Trầm ... dách .. .bà ... con ơi
!
Mọi người như nín thở,
ôm chầm lấy nhau nghẹn ngào. Nỗi vui mừng
không ngăn được dòng lệ. Nhìn vào bên trong, Thí cũng
đang ôm cây trầm mà khóc. Hương trầm như thần dược vực
lại sức mạnh cho mọi người trong những
ngày khổ cực vừa qua.
Sáng ngày hôm sau toán
điệu quyết định trổ (quay về) với
hai ba lô trầm loại dách. Số trầm nầy dấu
kín, chỉ bán các loại thường cho
công ty dược. Mỗi người
chia nhau đồng đều được bốn
cây vàng. Ông Lương từ chối nhận lại
tiền chi phí mua sắm ban đầu.
Suốt mười bốn ngày lên núi
tìm trầm, mẹ Đông ở nhà mất ăn mất ngủ. Ngày Đông trở
về bà
rưng rưng nước mắt than thở:
- Ba Me chỉ có
mình con. Lặn lội trong chốn rừng thiêng
núi thẳm có ngày bỏ mạng. Ăn của
rừng trả lại cho rừng. Con dùng số
vàng mồ hôi nước mắt đó lo
đút lót cho bọn quan lại nhà nó từ
địa phương cho đến huyện tỉnh bằng
mọi cách để được chuyển hộ
khẩu vào đại học.
* * *
Toán điệu của
ông Lương giờ chỉ còn có ba người.
Thí giới thiệu một người ở
cùng quê để thế chân Đông
nhưng ông Lương nhất định giữ
nguyên ba người , ông giải
thích:
- Anh em mình
đã ăn thề kết nghĩa, mừng cho
Đông nay đã vào được đại
học. Chúng ta
có ba người thì làm việc theo kiểu
ba người. Dù không được toại nguyện
nhưng Thí chẳng có phản ứng gì.
Họ lên
đường vào ngày đầu mùa Hạ
mà trời lại âm u, không khí ngột ngạt,
oi bức. Lần nầy họ tiến thẳng đến
khu rừng Ba xa, cách địa điểm trúng
trầm đợt trước khoảng một ngày
đường. Người ta đồn đãi khu rừng
nầy có con hổ ba chân dữ dằn lắm. Trước
kia nó thường hay xuống làng Thượng bắt
heo của người sắc tộc. Một hôm bị
mắc bẫy, hổ tự cắn đứt chân của
nó để thoát thân. Ông Lương chần
chừ nhưng Thí đốc thúc phải đến
đó mới hy vọng có cơ hội được
trầm. Những toán điệu khác vì sợ hổ
không dám vào. Quả vậy, khu rừng nầy
có rất nhiều cây dó đại thụ,
cao bốn năm chục mét. Chứng tỏ chưa
có chân điệu nào vào đây.
Mất mấy
ngày xẻ thịt cây dó già nhất
mà trầm chỉ ăn trên các cành
cây gãy còn trong giữa thân cây chỉ
mới xuất hiện những chuôi trầm mỏng
như những mảnh vải đen. Ông Lương
đề nghị chuyển qua vùng khác nhưng
Thí thấy tiếc rẻ khu vực nầy. Giác
quan nhạy bén của người tìm trầm
lâu năm cho anh cảm nhận được sự hiện
hữu của trầm quanh quẩn đâu đây. Có
điều gì đó cứ vấn vít
bên anh. Một mùi hương rất lạ thỉnh
thoảng thoáng qua mà anh bắt gặp chẳng những
bằng khứu giác mà cả linh cảm. Một
mùi hương quyến rũ lúc hiện ra,
lúc biến mất như một linh hồn mà suốt
mười năm tìm trầm anh chưa hề nhận
biết. Nó không nồng nặc mà chỉ
thoáng qua, thanh thoát, ngây ngất. Ông
Lương và Phận không cảm nhận
được điều Thí mô tả mà chỉ
nghe mùi cây dó tươi vừa mới bửa
ra. Suốt cả ngày hôm đó Thí cứ
thẫn thờ như người mất của quý.
Sáng hôm sau, anh
ra phía sau bụi rậm làm cái “công
việc vệ sinh” hàng ngày. Trước mặt
anh là một lùm dây mây rậm rạp,
nhìn sâu vào trong anh thấy một đoạn
cây mục ló đầu ra. Dùng chân khợi
khợi cho phần gỗ mục rớt ra, anh giật
mình kêu lên: “Trầm”!
Ông Lương và Thí đang ở trong lều
nghe tiếng “Trầm” liền tốc áo
mưa chạy ra. Họ cấp tốc phát quang bụi
dây mây sợi to bằng cổ tay bao phủ cả
một vùng. Mấy giờ liền, ba người
làm việc cật lực mới khai phá
được một lối vào. Phủ lên
thân cây mục là một ụ mối như nấm
mộ. Họ cào sạch phần trên ụ mối,
chợt mọi người giật mình thất kinh. Hiện
ra trước mặt họ là bộ xương
người. Hai xương cánh tay ôm lấy gộc
trầm. Gỡ gộc trầm ra khỏi cánh
xương tay, Thí dựng đứng nó lên
lấy rựa
vạc sạch lớp
mối ăn bên ngoài. Bỗng, Thí thảng thốt
kêu lên: “Kỳ nam”. Ông Lương
có vẻ đăm chiêu, còn Phận thì
không kìm được đôi chân đang
run rẩy từ nãy đến giờ.
Họ đào hố
chôn bộ xương. Điều kỳ lạ
là bộ xương người chết tỏa ra
hương trầm thơm ngát. Ông Lương lấy
một mảnh vỡ kỳ nam đặt vào mộ. Trước
khi rời khu vực họ đốt trầm xông
trên ngôi mộ rồi
cắt rừng trở về. Chuyến đi trúng
được mẻ lớn nhưng ba người đều
có ba ý nghĩ khác nhau. Phần Thí suy
tính công của mình mà phải chia đều
thì uất thật. Ông Lương cho rằng
mình hưởng tài sản trên xác của
người chết chẳng vui sướng gì. Còn
Phận thì bộ xương người cứ
ám ảnh nên trông cho mau đến nhà.
Trên đường
về, trong lòng Thí cứ phân vân. Nửa
muốn đòi chia cho mình một phần hai số
trầm kỳ nam, nhưng sợ hai người kia phản
đối, nửa muốn
lén tách đi đường khác để
giữ phần mình một ba lô đầy. Sau nầy
có tranh chấp thì chẳng làm được
gì mình. Đường đi qua một cái
đèo cây cối um tùm, Thí bắt đầu
đi chậm lại tìm lối rẽ theo ý định
sau cùng. Ông Lương nhắc nhở hai người
đi sau cẩn thận, phải đi sát vào
nhau. Câu nói vừa dứt bỗng, một tiếng
ào phát ra rồi một bóng dài lướt
qua. Con cọp ba chân đang ngậm cổ kéo
xác một người về hướng chân
đèo. Ông quay đầu nhìn ra sau, Phận
như người chết đứng, gương mặt
không còn một giọt máu. Một quãng
cách khá xa phía sau là chiếc ba lô trầm
của Thí rớt lại trên lối đi. Ông
Lương đứng nhìn theo hướng con hổ
lòng đau như cắt. Lần đầu tiên Phận
thấy người đàn ông cứng cỏi
và dày dạn nầy đã để rơi
những giọt nước mắt.
Số trầm mang về
bán được ba mươi sáu cây
vàng. Vì là công của Thí nên ông Lương quyết
định chia cho Phụng, vợ Trần Văn Thí một
nửa là mười tám cây làm vốn,
lấy thêm hai cây bỏ vào ngân hàng
cho đứa con gái ba tuổi của Thí. Số
còn lại là mười sáu cây, ông
Lương và Phận chia đều. Phận rất
thán phục sự ngay thẳng, công minh và tấm
lòng nhân hậu của ông Lương. Hai
người cùng vào tận Tuy Hòa để
thông báo tin buồn cho vợ Thí. Nàng
đã vật vã khóc than đau đớn tận
cùng. Với số vàng mười tám
cây đó ông
Lương hứa sẽ giúp nàng xây dựng
một tiệm buôn bán tạp hóa để
nuôi con.
* * *
Thời gian thấm
thoát trôi qua, Đông miệt mài trên
ghế đại học suốt bốn năm. Sau khi
làm lễ tốt nghiệp mãn khóa,
Đông đón xe về quê thăm gia
đình. Chiếc xe liên tỉnh đến bến
Tuy Hòa bị hỏng máy. Hành khách phải
đợi chờ khá lâu để thay hộp số
xe bị bể. Nhân dịp nầy Đông tìm
đến nhà Thí. Căn nhà mà ngày
trước chàng và ông Lương
đã tìm đến đây mời Thí
tham gia vào tổ tìm trầm nay đã là
một cửa hiệu bán tạp hóa khá khang
trang. Đông qua lại, nhìn vào nhà
vài ba lượt, rồi bỏ đi. Chợt có
tiếng gọi “Đông”, chàng quay lại,
thấy một người đàn ông trên tay
bồng một đứa bé đứng sau quày
hàng.
- Chú Lương
! chú vào đây bao giờ ? Đông mừng
rỡ kêu lên.
Ông Lương
đưa bàn tay chắc nịch bắt tay
Đông rồi mời chàng ngồi xuống chiếc
ghế đẩu . Ông vừa ru
đứa bé vác trên vai vừa nhìn
chàng trả lời:
- Tôi vào ở
luôn trong nầy đã hơn một năm nay.
- Thế anh Thí đâu ?
- Thí đã mất
cách đây bốn năm, bị cọp vồ
trong chuyến đi trầm ba người, sau khi cậu
vào đại học.
Rồi ông
Lương kể tóm lược chuyến đi trầm
cuối cùng như đã ghi lại ở phần
trên. Bỗng thằng bé cựa mình thức
giấc, ông vỗ vỗ vào lưng nó ru: “ Mây mưa mấy giọt chung
tình. Đỉnh trầm hương khóa một
cành mẫu đơn.” Hai câu thơ trong
Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều,
ông Lương vừa ru nghe thật xót xa và
cũng đầy ý nghĩa. Thằng bé nằm
yên trên vai, ông Lương ngỏ lời:
- Hôm nay là
ngày kỵ của Thí, vợ chồng tôi mời
cậu ở lại dùng cơm để có dịp
chú cháu mình tâm sự. Cậu độ
nầy trông chững chạc và rắn rỏi lắm.
Chị Phụng từ
nhà trong bước ra thấy Đông, đứng
khựng lại. Ông Lương liền giới thiệu:
- Đây là
Đông, cậu ấy đi trầm chuyến đầu
tiên với ba con Thúy, nhưng sau đó cậu
được vào đại học ở Sài
Gòn. Trên đường về quê cậu
ghé thăm em. Phụng cúi đầu chào rồi
rót nước mời Đông.
- Nhân tiện xin
phép chị cho em thắp cúng anh Thí nén
hương, Đông ngỏ lời.
Phụng vồn
vã đưa Đông lên căn gác lỡ.
Bàn thờ của anh Thí đặt giữa
phòng vừa đường bệ vừa trang
nghiêm. Khói trầm màu xám xanh mong manh
như sợi tơ quyện lấy tấm ảnh bán
thân của anh Thí đặt sau bộ tam sự. Hương
trầm xông lên thơm ngát, một mùi
thơm thanh khiết, dịu nhẹ khiến cho con người
lâng lâng rơi vào trạng thái thâm
nghiêm, trầm mặc. Bên di ảnh của anh
Thí là tượng con hổ ba chân được
khắc rất nghệ thuật bằng lõi trầm kỳ
nam.
Chị phụng cầm
ba cây nhang từ tay Đông cắm vào
bình, Chị nói :
- Tượng con hổ
đó là do anh Lương mướn thợ
điêu khắc tận Sài Gòn bằng
chính gộc trầm do anh Thí tìm thấy
để chị nhớ mãi ngày anh Thí bị
nó vồ. Sau khi anh Thí mất, nếu không nhờ
sự giúp đỡ của anh Lương, không
biết đời chị và cháu Thúy sẽ
trôi nổi ra sao. Trên đời nầy rất
khó kiếm được người như anh
Lương, tháo vát trong cuộc sống lại
hiền hòa và bao dung. Chị thương anh ấy,
dù tuổi đời có chênh lệch
đôi chút. Anh sống như người tu
hành từ sau ngày Bảy lăm. Chị nghĩ
có lẽ hồn thiêng của anh Thí
đã khiến chị lấy anh Lương để
ngày nay có được mụn con trai mà thuở
sinh tiền cha mẹ chị ước ao.
Sợ chiếc xe
khách bỏ lại, Đông vội vàng từ
biệt ra bến xe mặc dù vợ chồng ông
Lương cố nài chàng ở lại. Ngồi
trên xe, chợt lòng Đông bùi ngùi nhớ
lại lời anh Thí như còn văng vẳng
bên tai: “Ăn của rừng rưng rưng
nước mắt”.
Xe chạy bon bon
trên quốc lộ I. Tiếng máy xe nổ đều
đều đưa Đông vào cơn mê thiếp.
Chàng mơ thấy anh Thí gương mặt
tái xanh đăm đăm nhìn Đông rồi
thốt lên: “ rời ơi, cậu cướp mồi
của Ngài, làm sao tránh khỏi báo thù !” Bất chợt hương trầm
kỳ nam tỏa thơm nồng. Mùi hương ma
quái phủ ngập cả giấc mơ khiến
Đông choàng tỉnh. Lồng ngực chàng
nghe nặng trĩu và hương trầm còn
thoang thoảng đâu đây .
Hạo
Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Email
: tan_ich@yahoo.com