TÁC GIA? & TÁC PHÂ?M

Home | BÙI BA?O TRÚC | BÙI BA?O TRÚC [tt] | BÙI BA?O TRÚC 1 | BÙI BA?O TRÚC 2 | BÙI BA?O TRÚC 3 | BÙI BA?O TRÚC 4 | BÙI BA?O TRÚC 5 | BÙI BA?O TRÚC 6 | CHU TÂ'T TIÊ'N | CHU TÂ'T TIÊ'N [tt] | CHU TÂ'T TIÊ'N 1 | CHU TÂ'T TIÊ'N 2 | CHU TÂ'T TIÊ'N 3 | CHU TÂ'T TIÊ'N 4 | CHU TÂ'T TIÊ'N 5 | CHU TÂ'T TIÊ'N 6 | CHU TÂ'T TIÊ'N 7 | CHU TÂ'T TIÊ'N 8 | CHU TÂ'T TIÊ'N 9 | HÀ HUYÊ`N CHI | HÀ HUYÊ`N CHI [tt] | HÀ HUYÊ`N CHI 1 | HÀ HUYÊ`N CHI 2 | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH [tt] | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH 1 | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH 2 | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH 3 | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH 4 | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH 5 | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH 6 | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH 7 | Ha.o Nhiên NGUYÊN~ TÂ'N ÍCH 8 | MINH THÙY | SONG THAO | SONG THAO [tt] | SONG THAO 1 | SONG THAO 2 | SONG THAO 3 | SONG THAO 4 | SONG THAO 5 | SONG THAO 6 | SONG THAO 7 | SONG THAO 8

CHU TÂ'T TIÊ'N 4

Thư ngỏ của một giáo dân

 

 

Thư ngỏ của một giáo dân

kính gửi Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn.

 

 

Trọng kính Đức Hồng Y,

 

Lời đầu tiên mà con muốn gửi đến Đức Hồng Y là lời chân thành xin lỗi về sự đường đột của lá thư này. Thật sự, con không đủ tư cách để viết thư đến Đức Hồng Y, nhất là để góp ý với Ngài về môt lá thư đã được phổ biến trên nước Mỹ cách đây vài tuần lễ. Tuy nhiên, vì nhớ lời Chúa dậy: "Ta là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống", Chúa đến thế gian để đem lại Sự Thật và lẽ Công Bằng, nên con xin dựa theo những Sự Thật mà kiến thức thấp kém của con thu thập được mà mạn phép trình bầy với Đức Hồng Y vài sự kiện quan trọng liên quan đến sinh hoạt Giáo Hội Việt Nam. Một lý do nữa khiến con phải viết lá thư này là sự thúc đẩy bởi bổn phận của một con chiên phải bảo vệ đạo giáo khỏi bị tấn công một cách vô lý, chỉ vì một tư tưởng lạ lẫm mà Đức Hồng Y viết trong lá thư của Ngài. Như Đức Hồng Y đã biết, sau khi thư Ngài được phổ biến trên toàn thế giới, lập tức có rất nhiều kẻ lợi dụng vài sơ hở trong lá thư ấy mà dùng mọi phương tiện tấn công Công Giáo một cách khốc liệt. Nhiều thơ rơi, nhiều bài báo được phóng trên mạng lưới toàn cầu với các lời lẽ thô bạo nhắm vào Đức Hồng Y. Một số kẻ ác ý lại đưa tín lý Công Giáo ra để giễu cợt. Lời của Đấng Tối Cao bị đem ra làm trò hề. Nếu người Công Giáo mà không bình tâm trước mọi sự tấn công đó, có thể một cuộc chiến tranh Tôn Giáo lại nổ ra, như ngày xưa ở Việt Nam vào thập niên 60. Máu đã đổ trên nhiều đường phố Thủ Đô, vài làng mạc và còn ám ảnh cho mãi đến bây giờ. Tuy ngày nay, mức độ chiến tranh như thế không thể nào xẩy ra tại Hoa Kỳ, nhưng nhất định sẽ làm cho cộng đồng hải ngoại phân hóa, vỡ ra thành năm bẩy mảnh. Những người Công Giáo chân chính, sẽ phải lên tiếng biện hộ cho tôn giáo của mình. Nhiều người sẽ tạo ra các cuộc tranh luận không cần thiết. Kẻ nóng nẩy thì lại xử dụng loại ngôn ngữ chiến đấu để tặng cho người khác tôn giáo. Hai ba bên sẽ lời qua tiếng lại, dần dần đi đến chỗ tuyệt giao với nhau. Như thế, công cuộc đòi Tự Do và Dân Chủ cho những con người Việt Nam, trong số đó có những người Công giáo như Đức Hồng Y, sẽ chỉ còn là một giấc mơ không bao giờ thành hiện thực. Vì thế, con mạo muội viết lá thư này, kính mong Đức Hồng Y rộng lượng mà tha thứ cho những điều thô thiển mà con sắp trình bầy sau đây.

 

1-Về vụ lá cờ vàng: Theo Đức Hồng Y, các con cái Việt Nam lúc thì tôn trọng cờ vàng, lúc lại treo cờ đỏ. Thưa Ngài, thực tế lịch sử cho thấy, chỉ có lá cờ vàng là được chính thức ban hành từ vị nguyên thủ chính thống của quốc gia Việt Nam mà thôi. Ngay từ cuộc khởi nghĩa đầu tiên của Việt Nam, và có lẽ là cuộc cách mạng đầu tiên trên thế giới, do Hai Bà Trưng lãnh đạo, cờ của dân tộc là một lá cờ mầu vàng. Sau nhiều thế kỷ thăng trầm, với nhiều mầu cờ khác nhau, đến thời Vua Gia Long thống nhất sơn hà vào đầu thế kỷ 19, cờ của Việt Nam vẫn là cờ vàng. Rồi chính vua Thành Thái đã công bố lá cờ có Ba (3) sọc đỏ, tượng trưng cho Ba (3) miền Bắc-Trung-Nam. Đến năm 1954, khi người Việt Tự Do chọn miền Nam làm quê hương chính thức, thì lá cờ vàng lúc ấy bắt đầu rực rỡ trên khắp thế giới. Cho đến hôm nay, tuy không thể treo trên đất nước mình, nhưng vẫn lộng lẫy trên đất Mỹ một cách chính thức qua các văn bản quyết nghị của các Tiểu Bang, và các Thành phố, nơi nào có người Việt Quốc Gia cư ngụ. Còn lá cờ đỏ ? Từ trên nửa thế kỷ nay, chưa có một thể chế chính trị chính thống nào công bố lá cờ này là của dân Việt. Khi lá cờ vàng ba sọc đỏ chính thức ngạo nghễ trên thành nội Huế những thập niên 40-50, lá cờ đỏ vẫn chỉ là cờ hiệu của một Đảng phái, có gốc rễ ngoại lai từ phương Bắc. Sau 1975, Đảng kỳ ấy, cho dù đã bỏ đi cái búa, cái liềm sắt máu, mà đổi bằng ngôi sao, thì cũng chỉ là cờ của một chi nhánh của một cái Đảng quốc tế đã tan nát, rơi rớt nhiều ngôi sao khắp nơị Những ngôi sao vàng Nam Tư, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hung gia Lợi ... đã chìm trong đống rác của lịch sử. Ngay đến ngôi sao Cam Bốt cũng đã sẹt xuống bãi bùn nào đó bên cửa ngõ phía Tây của Việt Nam mình. Còn lại một ngôi sao vàng của đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đang lung lay, và nhất định sẽ rớt xuống theo quy luật tiến hóa của lịch sử. Tự Do và Dân Chủ nhất định sẽ trở về với quê hương. Thế kỷ 21 sẽ nhất định không khoan dung cho các nền cai trị độc tài, đảng trị, tham nhũng, thối nát, làm băng hoại cả nhiều thế hệ.

 

Vì vậy, thưa Đức Hồng Y, không nhất thiết phải đề cập đến việc "con cái Việt Nam lúc mặc áo đỏ, lúc mặc áo vàng", vì không phải là Sự Thật. Chỉ có lá cờ vàng mới là Cờ Quốc Gia, mới là Quốc Kỳ. Còn lá cờ đỏ kia chỉ là Đảng Kỳ mà thôi, chưa hề được vị nguyên thủ quốc gia chính thống nào công bố, và chưa hề được dân chúng bỏ phiếu bầu trong một cuộc trưng cầu dân ý nào. Điều quan trọng hơn là ngày nào còn nhìn thấy cái Đảng Kỳ ấy, người dân Việt Nam còn chẩy nước mắt, ngào nghẹn nhớ lại hơn hai triệu sinh mạng đã đổ máu dọc theo chiều dài quê hương trong hơn 50 năm chiến tranh oan nghiệt, còn nhớ cả nửa triệu người bỏ thây trên rừng hay trong biển cả khi chạy trốn cái mầu đỏ rực máu lửa ấy, còn nhớ đến Lý Bá Sơ, Đầm Đùn, nhớ đến những câu gào thét vang trời "giết, giết mãi, bàn tay không phút nghỉ", những ngày mà cả nửa triệu người bị đóng gông Địa Chủ, Tư Sản, bị chôn sống, đầu thò lên cho lưỡi cầy kéo qua, bị mã tấu chặt làm hai đoạn .. Chắc Đức Hồng Y cũng còn nhớ, cũng mầu máu đỏ ấy đã phủ trùm lên bao nhiêu nóc nhà thờ, nhà nguyện, nhà tu; đã đưa bao vị tu sĩ, chăn chiên, hay bà Sơ rời bỏ trần thế; đã tước đoạt đi bao nhiêu địa phận, biến nhà chung thành ngục tù; biến bệnh viện thành nơi tra tấn ... Mầu đỏ ấy, ngày trước tượng trưng cho căm thù, giết chóc, nay biểu tượng cho những tâm hồn trẻ thơ bị bán đi làm nô lệ tình dục khắp năm châu, cho các công nhân bị đầy đọa xứ người, cho nguyên một thế hệ đàng điếm, sa đọa, chụp giật, mánh mung, và một thứ văn hóa quái đản, không còn hồn thiêng dân tộc. Kính thưa Đức Hồng Y, lá cờ đỏ ấy tượng trưng cho Quỷ Satăng, người Việt chân chính dứt khoát không bao giờ mặc.

 

2-Về việc lá cờ vàng làm cản đường Hiệp Thông: Chúng con thành thực không hiểu từ nguyên lý nào mà lá cờ vàng lại trở thành một chướng ngại như thế ? Thiết nghĩ việc Hiệp Thông là việc các nguồn tư tưởng khác nhau tuôn đổ về một giòng chính duy nhất là Thiên Chúa. Con nguòi được Chúa Ngôi Hai cho phép được hiệp thông với Ngài để dâng lời cầu nguyện lên Chúa Trời. Con người lại hiệp thông với nhau, từ châu này đến lục địa kia, từ dân tộc này đến dân tộc khác. Trong khi thi hành nghi thức hiệp thông, các biểu tượng của các sắc dân được trưng ra, nhằm tạo thành một thứ cầu vồng muôn sắc để ca tụng kỳ công của Thiên Chúa. Và, các biểu tượng ấy, chính là lá cờ của mỗi quốc gia. Lá cờ vàng của người Việt Nam chân chính đã được trương ra trong các cuộc lễ cũng chỉ vì mục đích như thế đó. Vậy, thì tại sao lại có thể làm trở ngại cho việc hiệp thông ?

 

Con trộm nghĩ, có lẽ Đức Hồng Y muốn ám chỉ đến việc thương thảo của Giáo Hội Việt Nam tại quê nhà với nhà cầm quyền thì đúng hơn. Gần đây, chúng con được biết Giáo Hội đang có những dấu chỉ có sự nhường nhịn nhà cầm quyền để đổi lấy vài đặc ân từ kẻ có vũ khí, có nhà tù, cùm gông, và bạo lực. Giáo Hội đã không nhắc nhở đến sự việc Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng, mặc dù đã nổi tiếng trên hoàn vũ, và lý luận rằng "Linh Mục Lý làm chính trị", nên không can thiệp ! Giáo Hội cũng không nhìn thấy dân oan đứng đầy đường, khóc la thảm thiết. Giáo Hội cũng chưa lần lên tiếng về những vụ hiếp đáp nhân dân, lợi dụng bạo quyền để giam giữ quyền sống của con người, ngoài việc tịch thu đất đai nhà xứ, còn chiếm đoạt chùa chiền, bắt giam trụ trì, tra tấn Mục sư. Chưa thấy vị đại diện Giáo Hội nào lên tiếng đòi công bằng cho các vị lãnh đạo đáng tôn kính như Đức Tăng Thống Thích Huyền Quang, Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ khi các Ngài bị quản chế, bị tước đoạt quyền đi lại. Trên hết là Giáo Hội chưa lần lên tiếng về một con chiên ghẻ là Linh Mục Phan Khắc Từ vi phạm luật tu trì, xúc phạm thiên chức linh mục, chỉ vì linh mục này là thành phần chủ đạo của Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng Sản. Ngoài vị này, còn một số "cha quốc doanh" vẫn hung hăng tấn công Giáo Hội qua nhiều phương diện, mà Giáo hội vẫn để yên. Có lẽ Giáo Hội muốn tạo sự hiệp thông không điều kiện với nhà cầm quyền ?

 

Kính thưa Đức Hồng Y,

 

Viết đến đây, con vô cùng xúc động khi nghĩ đến lời dậy của Đức Hồng Y khi nhắc nhớ đến niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Như thế thì, nếu đã tin vào Chúa, "dù trần truồng, đói khát, dù khổ đau, con vẫn ngợi khen Người", thì giáo hữu sẽ không bao giờ biết sợ đao, thương, chém giết, tù ngục, hay tra tấn. Nếu đã tin vào Chúa, thì không sợ nhà cầm quyền, nếu nhà cầm quyền ấy chỉ là một nhóm cai trị vũ trang, không đại diện cho dân chúng. Như Thánh Kinh đã khẳng định: "Dù một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng là do thánh ý Chúa định". Vậy thì, tại sao lại phải hiệp thương, hay thỏa hiệp với nhà cầm quyền Cộng Sản ?

 

Nếu Người Cộng Sản có lòng muốn hòa giải, thì tự họ phải biết cách giải quyết. Người tín hữu can đảm không phải đóng kịch và không phải cầu hòa với kẻ giết mình. Vì đã có Chúa ! Nếu Chúa muốn, thì dù cho có ở trong nhà thép, có bảo vệ trùng trùng điệp điệp, vẫn đột nhiên ngã ra mà chết. Nếu Chúa không muốn, dù cho có súng nhằm thẳng vào ngực, cũng không thể bị bắn. Vậy, tại sao lại chúng con lại phải thỏa hiệp với nhà cầm quyền Cộng Sản, Kính thưa Đức Hồng Y ?

 

Người xưa nói: "Biết việc phải mà không làm, thì là làm trái. Biết việc trái mà không cản, cũng là làm trái." Hiện nay, quê hương Việt Nam, bề ngoài thì hào nhoáng, xa xỉ, nhưng bề trong là cả một biển trời phân chia giai cấp. Người nghèo thì khốn khó kinh khủng, người giầu lại ăn chơi hơn cả người nước ngoài. Những ai lên tiếng cho Dân Chủ đều bị chà đạp dã man, điển hình là Luật Sư Bùi Kim Thành, cứ bị nhốt đi nhốt lại trong nhà thương điên, một biện pháp mà chỉ có ở thời Trung Cổ của những kẻ cầm quyền không có con tim mà chỉ có sức mạnh. Có lẽ Đức Hồng Y không quên được điều đó, khi mà vài năm trước đây, trong một dịp hân hạnh được phỏng vấn Đức Hồng Y, con đã được nghe Ngài nói chuyện về các điều kiện sinh sống của các cha già trong viện hưu dưỡng rất tệ. Nhà cầm quyền, dĩ nhiên, là bỏ mặc các vị linh mục già cho chết dần chết mòn, chết trong đau khổ, bệnh hoạn. Việc trợ giúp các cha già là một việc phải, cần làm. Nhưng ngoài ra, còn biết bao việc phải mà chưa thấy Giáo Hội Việt Nam làm. Để rồi, bất ngờ, lá thư của Đức Hồng Y gây nên một sự xáo trộn mãnh liệt không những trong đời sống tín hữu mà còn trong sinh hoạt cộng đồng, nói chung, nữa.

 

Chỉ với tư cách một giáo hữu, con không biết phải viết những lời nào mà không làm mất lòng Vị Chủ Chăn Đáng Kính của chúng con, niềm hãnh diện của toàn thể Giáo Hội Công giáo Việt Nam. Con chỉ biết cầu xin Thiên Chúa, Người Cha Nhân Từ của tất cả chúng ta giúp cho những tấm chân tình của các người tín hữu hải ngoại được Đức Hồng Y rộng lượng dung thứ mà chấp nhận. Để cho một ngày nào đó, tất cả giáo hữu và các vị chủ chăn cùng gặp nhau trong Nước Trời, nơi không có chiến tranh, không có mầu đỏ của sắt máu, chỉ có Bình An và Hạnh Phúc vĩnh cửu.

 

Một giáo hữu.

 

Chu tất Tiến.

 

(Thuan Do chuyển)


Con Cào Cào Cô Đơn

 

Con Cào Cào Cô Đơn

(CHU TẤT TIẾN)

 

 

Buổi sáng thứ Bẩy, ra vườn hít thở chút không khí ban mai, thuởng thức một khoảng thời gian êm ả, không tiếng xe, không khói bụi, và nhìn ngắm khu vườn yên tĩnh còn ngái ngủ. Nhiều cánh lá còn xếp, nhiều cánh hoa còn rung dưới giọt sương đêm, cỏ dưới chân còn ướt. Người và cảnh cùng trong trạng thái buông mềm. Tay chân, cành lá chưa vươn hết sức, vẫn chờ mặt trời lên để hoạt động trong một ngày thật đẹp. Bất chợt, đang lặng ngắm những cánh mong manh của một đóa quỳnh vàng, một chú cào cào xanh từ trong bụi nhẩy ra, mở to cặp mắt tròn như hòn bi nhỏ xíu, nhìn con người đứng trước mặt một cách ngờ vực.

 

Chiếc đầu nhọn hoắt nghiêng qua nghiêng lại như đánh giá đối phương, còn hai chân có những chiếc răng sắc như dao, nhúc nhích như sẵn sàng đập xuống cỏ, lấy đà rồi bay vù đi vào một chỗ nào khuất khúc. Hai cặp cánh xanh ép bên sườn nhưng cũng như đôi chân, chỉ một chớp mắt là giang rộng ra, vút lên, mất hút !

 

Ơi ! Đã bao nhiêu năm rồi, chưa được nhìn thấy một chú cào cào xanh ! Có lẽ từ khi qua đất nước người, có lẽ lâu lắm rồi thì phải ... Những chú cào cào xanh, biểu tượng cho một thời thơ ấu quê nhà, thời chạy theo những cánh chuồn lơ lửng; chuồn ngô với đôi mắt thật to và hàm răng thật sắc, đủ làm cho đứa bé lì lợm phải hét lên; chuồn lửa với thân dài đỏ rực; chuồn bà già, chuồn chuồn kim xanh biếc. Nhưng giữa những cánh chuồn, cánh bướm, thì chú cào cào xanh oai hùng nhất, đáng mơ nhất của tuổi thơ, vì chú bay rất khỏe, nếu buộc chỉ vào chân, để chú bay vòng trong nhà, thì thật ác liệt. Tiếng đập cánh của chú "vù vù" nghe như tiếng còi chiến thắng, vì không có thằng nào trong xóm có con cào cào khổng lồ như thế. Tiếng đập cánh của chú cũng gợi lên sự bình an của một thời mà con người yêu thương nhau. Hàng xóm gọi nhau í ới. Bạn bè quấn quít lại qua. Ít thù hận, nhiều thương yêu. Gặp nhau, tay bắt mặt mừng, nói chuyện đâu đâu. Thằng Lượm, con Mót, ông thầy Tầu "ai lồng hồ, dàng dụn, bạc dụn báng hông ...", anh bán kẹo kéo "má ơi, con muốn lấy chồng; lấy anh kẹo kéo, vừa bồng, vừa nhai".. Không có những trận chiến giữa hàng xóm với nhau, nếu có, chẳng qua như một sự xô đũa, xô bát, ồn ào chút xíu rồi lại thôi, đâu vào đấy. Những cãi cọ, cũng sẽ là chiếc đập cánh của con cào cào, ào một cái rồi lại trở về bình yên như lũy tre làng.

 

Nhưng, bây giờ, ở xứ người, sao lâu lắm không được nhìn thấy cào cào, sao lâu lắm không thấy tình hàng xóm.. Còn cộng đồng thì sao ? Chỉ khi nào thấy có sự xuất hiện của Cộng Sản, có những khiêu khích đến từ Hà Nội, "thủ đô của phẩm giá con người", hay "cái nôi của văn minh nhân loại" như lời quảng cáo ì xèo cho một nơi chốn mà nhân phẩm của phụ nữ nghèo bị chà đạp thê thảm, lúc ấy, mới thấy sự đoàn kết, vai kề vai, tay nắm tay, cùng hô lên chung một tiếng "Tự Do cho Việt Nam". Ngoài ra, sau khi hình bóng Cộng Sản qua rồi, thì cũng như con cào cào xanh kia, ít thấy xuất hiện tình đồng hương, đồng chủng. Chỉ thấy người mình đánh người mình, người Sàigon chụp mũ, tấn công người Biên Hòa, người lính áo xanh tấn công người lính áo sọc. Đâu đâu cũng thấy nón cối bay tung. Kèm theo nón cối là những văn chương bình dân "mất gà, mất vịt". Những danh từ, tĩnh từ, trạng từ vốn được xử dụng thường xuyên nơi chợ "búa", nay được đem ra phân phối trên các tờ lá cải, trong hệ thống truyền thanh, và đặc biệt là trong hệ thống thư điện tử miễn phí. Người ta muốn cho nhau thân tàn, ma dại, chết dở sống dở ..

 

Sau khi bỏ quê hương để sống ở xứ lạ, người mình hình như không mang theo hương vị của lúa, ngô, khoai, sắn; không giữ được hình ảnh của nhũng cánh chuồn, cánh bướm; không nhớ đến những chú cào cào xanh; không còn thích nghe những câu ca dao "hỡi anh đi đường cái quan, dừng chân đứng lại em than đôi lời", hay "Nhà Bè nước chẩy chia hai, ai dìa Gia Định, Đồng Nai thì dìa"Câu thơ "gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương" không còn vẳng trong không gian nữa. Có lẽ vì không còn cảnh "học trò xứ Quảng ra thi, thấy cô gái Huệ, chân đi không rời"... Hay có lẽ vì không còn những níu kéo "người ơi, người ở, đừng về", nên người ở Cali cứ lẳng lặng bỏ qua Texas, người ở miền Bắc Seattle thiên di về xứ nóng Arizona, mà chẳng mang theo kỷ niệm gì ..

 

Đất nước người, dù sang, dù đẹp, dù cũng có đồng quê, nhưng không gọi được tiếng võng đưa kẽo kẹt ban trưa, tiếng mẹ ru con ời ợi. Cho nên, không ai thương ai. Nhìn chung quanh, cứ thấy đầy dẫy kẻ thù. Khuôn mặt nào cũng là Cộng Sản. Kể cả các nhà văn, nhà thơ đã từng chiến đấu gần hết một đời, còn vài năm nữa là lẳng lặng ra đi, mà vẫn bị tiếng không lành. Dĩ nhiên cũng có một vài khuôn mặt hiếm hoi từng là chiến sĩ, lúc đi xuống gần chân đồi, mới đổi giọng tay sai. Họ là những kẻ bất cố liêm sỉ, tham tiền, mê sắc, mà bán cả thân phận, "mua danh ba vạn, bán danh ba đồng"; những kẻ đó, không đuợc ví với con cào cào anh dũng, bay "vù vù" kia, mà chỉ xứng đáng làm thân cuốn chiếu. Gặp ai đụng tới, thì co giúm lại, mặc cho trẻ dùng que, vất qua vất lại, cũng không được ngang tàng như giun, có quẫy có đạp.

 

Vì thế, nhìn con cào cào cô đơn kia, đứng hiên ngang, ngẩng cổ nhìn con người to hơn ngàn lần mà không tỏ ra chút nào sợ hãi, con người có chút nào kính trọng. Người xưa đã từng nói "Ngược đời, châu chấu đá xe, tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng". Con cào cào xanh kia, với đôi mắt long lanh, với cái đầu liếc qua liếc lại, mi là biểu tượng của cô đơn, nhưng cũng là hình bóng của quê hương yêu dấu. Sao mi không kéo bầy, kéo lũ về đây, để cho chúng ta thương yêu nhau hơn, bớt tiếng bấc tiếng chì, bớt gây gây gổ gổ, và triệt tiêu đi những hình ảnh không đẹp của đồng hương đánh đồng hương, người Việt Bẩy Lăm chống người Việt Chín Mươi, cựu chiến sĩ tấn công cựu quân nhân ... Buồn quá, cào cào ơi !

 

Con cào cào cô đơn, hình như hiểu tiếng người, lúc lắc đầu thêm vài lần, dáng điệu như suy nghĩ mông lung, rồi chợt đập cánh bay "vù"...

 

 

CHU TẤT TIẾN

 

(Mỹ Loan sưu tầm, Việt Hải Trần chuyển)

 

 

website counter