Xem "Lá
Thư Từ Chiến Trường" Của Ban Nhạc
Asia,
Nghĩ Về Sự Bức Tử Của
Một Quân Đội Anh Hùng
(CHU TẤT TIẾN)
Việt
Báo Thứ Tư, 4/9/2008, 12:02:00 AM
Vừa
bước vào trong rạp hát Convention Center của
Long Beach, khán giả có cảm giác
như bị choáng ngợp bởi một khung cảnh
hoàn toàn khác lạ với thế giới
bên ngoài. Nhất là những người
lính thuộc chế độ Cộng Hòa, phục
vụ tại các văn phòng chuyên môn hay
các chiến sĩ đã từng xông pha trong lửa
đạn, Bộ Binh, các đơn vị chuyên
môn, Thủy quân Lục chiến, Biệt Động
Quân, Nhẩy Dù, Hải Quân hay Không
Quân, hay những chiến sĩ Địa Phương
Quân .. đều cảm thấy
như đã trở về ngày tháng cũ.
Các vọng gác, kẽm gai, hàng rào bao
cát, xe díp và ánh đèn pha.. đang hiện diện
ràng ràng rỡ rỡ, gợi nhớ bao nhiêu
kỷ niệm, mồ hôi và máu. Hình ảnh
bạn bè quanh quẩn đâu đây. Doanh trại
biên phòng hay hậu cứ. Tiếng
thanh nhọn của M- 16 lẫn với tiếng đại
liên M- 60. Hỏa châu bùng
lên cho những sợi lân tinh rơi xuống.
Bóng dáng những người lính gác giặc
vững tay súng cho một đất
nước bình yên, lại bàng hoàng trong
tim người dân miền Nam, những tâm hồn
bình dị, gửi gấm trọn niềm tin vào
những chiến sĩ Cộng Hòa. Ở đâu có lính, ở
đó có dân. Lính đi đâu,
dân theo đến đó. Hình ảnh những người
gác súng một bên để đỡ cho
người mẹ già ngồi xuống nghỉ
chân, và băng bó cho đứa em nhỏ
máu lệ chan hòa, lại sáng bừng lên
trong chương trình ca nhạc chủ đề
"Lá Thư Từ chiến Trường" của
Trung Tâm Asia.
Đã
bao nhiêu năm rồi, người lính cũ
không có dịp cầm lại cây súng
thân yêu ngày xưa, cây súng có nạp
đạn thật, nằm lăn dưới gốc
cây hay trên bờ đá lổn nhổn, cởi
cái nón sắt ra, gác đầu lên
đó, tìm sự bình yên trong giây
phút rồi lại lên đường, hành
quân tiễu giặc. Đã bao nhiêu năm rồi,
người lính cũ chỉ còn biết chiến
đấu cô đơn, không quân phục,
không súng đạn, không hậu cứ,
không tiền tuyến. Cuộc chiến bây giờ không có tiếng
nổ vang của đạn pháo, mà chỉ
có những tiếng gọi thiết tha của dân
tộc đang bị đàn áp, thống trị bởi
một chủ nghĩa độc tài, nhũng loạn,
sắt máu, vô nhân và vô đạo.Vì thế, khi nhìn thấy những
hình ảnh mà Asia mang lại, khi nghe những bản
hùng ca cùng các khúc hát quân
dân cá nước, khán giả lại bùi
ngùi rơi lệ. Các tiếng hát một thời
của lính, các khuôn mặt diễm lệ,
thân yêu của những ca sĩ đã từng
lăn xuống chiến hào với lính,
đã từng cất tiếng lên, vượt từ
giao thông hào này đến đồn canh kia,
đem lại hơi ấm cho người lính trận
đang ngồi gác một mình, giờ đây
lại vang lên, ngọt ngào như thuở
nào. Nhưng, trên hết tất cả
các lời ca ấy, hình bóng ấy, điều
đáng viết ở đây, là những uất hận
của những người lính bị chính trị
bức tử. Nhìn vào những nghệ
sĩ mặc áo lính kia, biết họ chỉ
là nghệ sĩ, nhưng họ chính là
hình ảnh của các người lính
hiên ngang của một quân đội, mà theo
lời một danh tướng Hoa Kỳ, chỉ huy Binh Chủng
Nhẩy Dù Mỹ, là "quân đội Việt
Nam Cộng Hòa là một đội quân anh dũng
không thua bất cứ một đạo quân
nào trên thế giới". Cũng theo
lời ông, họ chính là những chiến sĩ
"đánh giặc như Sư Tử". Vậy
mà, năm 1975, họ đành phải bỏ
quân phục, mang lấy áo tù, hay bộ quần
áo dân sự, lưu vong khắp các miền
trên thế giới. Tại sao lại đau đớn
như vậy ?
Có
người cho rằng đó là do yêu cầu
của quyền lợi Hoa Kỳ. Bỏ một địa
bàn kinh tế chỉ có vài chục triệu
người để lấy gần một tỉ dân
số của Trung Cộng làm thị trường
tiêu thụ hàng hóa Hoa Kỳ thì là một
điều nên làm cho một cường quốc
lúc nào cũng muốn phát triển tối
đa. Có người cho rằng vì áp lực
của dân chúng Mỹ đã chán nản
chiến tranh mà trói tay Tổng Thống. Cũng
có thể vì thời gian đó, báo
chí thiên tả tràn ngập, trên tờ
báo nào cũng có mùi thuốc súng
làm dân chúng sợ. Con số 58,000 tử sĩ
không phải là con số nhỏ. Thực tế, với
sự quan sát giới hạn của
người viết, đã được huấn luyện
tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Hoa Kỳ
(O.C.S. Fort Benning), cuộc chiến Việt Nam chỉ
là một trường thí nghiệm vũ
khí và tinh thần chiến đấu của
quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cũng
như để thử thách và tìm hiểu vũ
khí của Trung Cộng và Liên Xô. Người
Mỹ chỉ trang bị cho miền Nam những thứ vũ
khí cần thiết để tự vệ sau khi
các vũ khí tối tân của Trung Cộng
và Liên Xô đã muốn đè bẹp
miền Nam, mặc dầu những thứ vũ khí ấy,
chất đầy trong kho đạn của Mỹ. Chỉ
SAU KHI miền Nam bị động
vì một thứ vũ khí nào
đó của Cộng Quân, người Mỹ mới
thả ra những vũ khí có tính cách
khắc chế. Không thấy người
Mỹ trang bị cho miền Nam những vũ khí
Tối Tân TRƯỚC KHI binh sĩ Cộng Sản
được cung cấp những loại ác hiểm.
Năm 1968, khi trận Mậu Thân nổ ra, bộ binh
miền Nam còn trang bị súng trường M.1
được xử dụng từ thế chiến
trước, bắn phát một, và mỗi lần
thay gắp đạn có 8 viên, thì mất thời
gian và có nguy cơ bị cơ bẩm dập
ngón tay cái. Sĩ quan nào ưu
tiên, có thể có Carbin M.1, ít khi có
M.2. Tiểu liên Thompson cũng chỉ
giới hạn. Đại liên 30
thì lỗi thời, hay kẹt đạn. Trung liên BAR cũng thế, nặng nề,
và không phải tiểu đội nào cũng
có. Trong khi đó, Cộng Quân
đã được Trung Cộng và Liên
Xô trang bị bằng tiểu liên AK- 47 cực
nhanh, một băng đạn có cả 20 viên, dễ
thay và chịu nước, không bị kẹt
đạn. Trung liên "nồi" của cộng
quân lắp được 71 viên, bắn như
điên, không kể thượng liên, súng
phòng không, hỏa tiễn... Trước sức mạnh
áp đảo về vũ khí cá nhân
như thế, Cộng Quân tưởng có thể
nuốt sống miền Nam, tuy nhiên, sự thật lại
không diễn ra theo như chúng dự tính. Suốt
thời gian đầu Tết Mậu
Thân, dù súng chỉ bắn viên một,
quân đội anh hùng miền Nam vẫn giữ vững
được hầu hết mọi thành trì, chỉ
có Huế là tang thương.
Sau khi
quân đội miền Nam vất vả chiến
đấu hết sức mình bằng cây M.1 lỗi
thời, Mỹ mới gửi sang AR-15 hay M16A1
để địch lại với AK-47 của Cộng
Quân. Điều cần nói ở đây,
là trước thời gian ấy, tại quân
trường Mỹ, người viết đã
được bắn M-16A2 tưng bừng.
Loại súng dành cho cơ bản thao diễn cũng
là một thứ vũ khí mạnh, M-14, bắn
liên thanh hoặc phát một, kẹp đạn 20
viên, chỉ xài trong quân trường,
không thấy phát cho lính miền Nam. Giả sử những năm 1966-67, quân đội
miền Nam
có tối thiểu M.14 thay vì M.1 thì chắc
chắn lịch sử cũng phải tường thuật
một cách hoàn toàn khác. Về
đại liên, các sinh viên sĩ quan Mỹ
đã được bắn M - 60 nóng cả tay, bắn nằm hay bắn đứng
như cao bồi, tựa báng súng vào
đùi mà bắn, không nhớ số lượng
đạn. Còn miền Nam, mãi đến
năm nào mới có M-60 ?
Súng cối cũng thế, loại 60 ly ở Mỹ chỉ
dùng như súng cổ tích, sinh viên
thích bắn kiểu cao bồi, tức là một
tay chĩa nòng súng lên đâu đó,
một tay thả quả đạn vào, nghe nổ
cái "chóc" vui tai. Súng cối 81 ly cũng
là loại xưa với quân đội Mỹ, loại
chính mà Sinh viên mỗi người phải bắn
một số quả theo tiêu chuẩn
là súng cối 4.2., rất chính xác
và dễ điều chỉnh. Súng cối
4.2 có thể để dưới đất, hay gắn
vào thiết vận xa M.113, bắn dữ dội.
Khi ấy, nhiều đơn vị miền Nam vẫn còn
dùng súng cối 60 để bảo vệ trận
địa ?
Về
hỏa tiễn cầm tay, Mỹ có M.72 và
các loại hỏa tiễn đất đối
không (ground to air), và diện địa (surface to
surface) rất hữu hiệu. Nhưng những loại
này chỉ được tung ra
trên mặt trận miền Nam, SAU KHI hỏa tiễn
B.40 và B.41 của Cộng quân đã tung
hoành ngang dọc, hí lộng sa tràng. Mùa hè đỏ lửa, để chống
lại M.72, Cộng Quân dùng thiết giáp T.54.
Lúc ấy, M. 72 chỉ có tác dụng
khi bắn thẳng vào thùng xăng. Bắn
vào xích cũng không làm cho xe
địch không tác xạ được. Sự yếu kém đó làm cho T.54 của
Cộng Quân ào ào tiến vào miền Nam.
Mãi sau, Mỹ mới gửi sang loại M. 202 có bốn
nòng 66mm. Loại hỏa tiễn cầm tay này
có thể bắn bốn loại đạn khác
nhau, chống biển người, đạn Napalm, đạn
lõm là khắc tinh của T.54. Loại
này đã được quân đội Mỹ
chế tạo ngay từ sau thế chiến thứ 2.
Sinh viên Sĩ Quan Mỹ đã được bắn
mỏi vai trước khi gửi sang miền Nam. Những sinh viên sĩ quan Mỹ không thể
nào quên được những buổi biểu diễn
hỏa lực kinh hồn, hỏa lực mà ít thấy
trao cho quân đội miền Nam, hoặc giao khi trận
chiến gần tàn. Thí dụ như xe
tăng bắn 400 quả lựu đạn M.79 một
phút, nghe y hệt như tiếng bò rống của
đại liên gắn trên C 130. Mỗi quả lựu
đạn có tầm sát thương trên 10
mét vuông, giả sử mà làm một loạt
vào rừng cao su, nơi một tiểu đoàn Cộng
Quân đóng chốt, thì chỉ trong
vài phút có thể tiêu tan vài trăm
mạng, vì không giống như đại
bác, quả đạn to có thể bị vướng
chướng ngại nên nổ linh tinh, trong khi quả
M.79 gọn nhẹ, mà 400 quả trong một phút,
5 phút có 2000 quả lựu đạn được
tung ra theo hướng vòng cầu, rớt từng
lỗ, như thẩy bi ...
Còn
những loại thiết giáp trang bị 4 nòng
đại bác, thiết giáp phun lửa (M 67 Zippo),
thiết giáp M2HB gắn đại liên 50 ly, xe
tăng M 42 trang bị hai khẩu 40 ly có thể
gây kinh hoàng cho cả tiểu đoàn địch
quân. Những loại này, nếu đuợc
tăng cường đều tới các đơn vị
chiến đấu của miền Nam,
liệu Cộng Quân có đứng vững nổi
tại miền Nam
không ?
Nói về hỏa lực tầm xa,
lại càng đau lòng. Sinh viên sĩ quan Mỹ đã
được học bắn 105mm di động đặt
sau xe díp, tầm xa 7600 mét,
có ống nhìn ban đêm. Học bắn trực
xạ chỗ này, rồi kéo xe
chạy chỗ khác, cơ động rất nhanh.
Nhưng rất tiếc, là loại này, nếu
để tại chiến trường miền Nam thì
không thể đối phó với hỏa tiễn
122mm của Liên Xô có tầm bắn 20400 mét,
nghĩa là xa gần gấp 3 lần, mà sức
phá hủy lại mạnh hơn. Cộng quân
còn những hỏa tiễn cầm tay, bắn xa cả
hai chục cây số (?), dù bắn không
chính xác, nhưng cũng đủ phá hủy
thành trì của mình, mà mình chịu
trận, vì bắn trả không tới địch.
Ngay cả đến 155mm cũng chỉ bắn được
có 14600 mét. Hãy tưởng tượng hai
đối thủ đứng cách xa nhau, một
người A có thể bắn xa 20 mét, lính
B chỉ bắn được có hơn 10 mét,
thì nếu lính A đứng cách B 20 mét
mà nã đạn thì lính B chỉ có
giơ tay lên trời, chờ chết, vì đạn
mình bắn chỉ tới nửa đường rồi
rớt xuống đất, không mong gãi ngứa
được địch thủ. Mãi sau, quân Mỹ
mới mang sang loại 175 mm Self Propelled Howitzer, có tầm
bắn 33 cây số, có thể bao giàn một
vùng, nhưng súng lại quá nặng nề,
di chuyển bằng xe tăng hạng nặng trên các
chiếc cầu miền Tây là cầu gục hết.
Một viên đạn lại quá nặng, phải
vài người đẩy lên một cái
máy kéo lên cao... Loại súng này
như một anh chàng khổng lồ bị gẫy
chân, cứ đứng một chỗ, hù dọa
con nít, mà chạy đuổi theo
kẻ trộm không được. Mà mỗi lần
muốn bắn một quả, phải ... xin phép
!
Sau khi hiệp định Paris được ký kết,
hình như mỗi lần một chiếc máy bay
muốn cất cánh để yểm trợ quân bạn,
cũng phải ... xin phép DAO. Xe
tăng không có xăng, súng không có
đạn, quân lực Cộng Hòa chỉ còn
là những dũng sĩ mình đồng da sắt,
đánh tay không với kẻ
địch trang bị tận răng. Một anh bạn của người
viết, từng là Chiến Đoàn Trưởng
một chiến đoàn đặc nhiệm
đã khóc khi kể về lúc anh nhìn thấy
từng đoàn bộ đội kéo pháo
đi gần chỗ đóng quân của anh,
mà anh không được phép nổ
súng, vì theo lời của Trên, sau khi anh bắn
hết 100 quả đạn trong kho, chúng sẽ dội
vào đầu anh 1000 quả. Lúc đó
thì sao ? Như thế, bỏ qua yếu
tố chính trị và những thủ đoạn
kinh tởm của thế lực quốc tế, chỉ
nhìn vào vài con số sơ lược do một
người không chuyên môn về đạn
pháo cũng đủ thấy rằng số phận
Miền Nam
đã được định đoạt từ
lâu. Chỉ
có tinh thần dũng cảm của quân dân miền
Nam
mới chịu trận được vài chục
năm như thế. Nếu trường hợp này mà rơi
vào một dân tộc khác, chắc đã
tan hàng từ những thập niên 60 rồi.
Vì vậy, cho dù là một người
không tim, không óc, cũng phải nghiêng
mình trước ý chí cương quyết,
lòng can đảm, tài trí lãnh đạo,
khả năng chiến đấu tuyệt trần của
quân đội Cộng Hòa, cùng với sự
hy sinh không bờ bến của cả Quân và
Dân Miền Nam. Quân Đội Việt Nam
là một Quân Đội Anh Hùng bị bức
tử oan uổng !
Cám
ơn Asia đã cho chiêm
ngưỡng lại một giai đoạn kiêu
hùng của dân tộc. Cám ơn các nghệ
sĩ, diễn viên đã làm sống lại
những hình ảnh anh hùng và tình
quân dân bền chặt của những thập
niên ấy, cho thế hệ sau này cùng ngưỡng
mộ.
Chu Tất Tiến.
(Việt Hải Trần chuyển)