Phan Văn Hưng và
Bi Phẫn Ca
(Trịnh Thanh Thủy)
Người nghệ sĩ cúi xuống trên
mười ngón tay nhả những thanh âm phừng
phừng rực lửa.
Khuôn mặt anh chứa chan cảm xúc, rập
rờn âm điệu. Thính giác khán giả
căng, dãn, đàn hồi, nhảy múa theo hấp
lực của từng làn điệu, lời ca. Những
ca từ hiện thực, tả chân cuộc sống
con người đang ở đáy địa ngục.
Những truyện ca có thật tạo năng lực
cấu nhoi nhói tim đỏ người nghe. Nếu mỗi
người là một cá nhân khác biệt
có nhiều điểm khó hoà hợp,
thì phút giây hiện tại này, mức
đồng cảm giữa người và người
ở khán giả đang lên cao nhất. Mọi vật
rơi vào thể tĩnh của bất động ngoại
trừ anh. Những đôi mắt không kịp
nháy, tụ hội về vóc hình người
đàn ông có dáng dấp thư sinh. Thế
rồi bất chợt họ hiểu ra bài hát
đã đến hồi dứt. Tiếng chuyển
động rào rào của những bàn tay vỗ
nhất loạt oà lên bao vây lấy hội
trường, phủ lấp hình hài nhỏ
bé của người đàn ông đang ngồi
ôm đàn ấy.
Anh cúi chào khán giả với một
phong thái nho nhã, điềm đạm. Anh, Phan
Văn Hưng, đến từ Úc, đem tiếng
hát, dòng nhạc trải dài khắp vòng
quay trái đất. Nơi nào mời anh, anh đến,
nơi nào đón anh, anh lại. Anh giản dị,
chân tình, nhẹ nhàng, thư thái,
nhưng khi cây đàn được đặt
vào vòng tay bồng bế, nó biến anh
thành một con người khác.
Nhắc đến Phan Văn Hưng người ta
không nhắc đến một giọng hát
điêu luyện, trầm ấm hay đằm thắm
mà người ta tưởng tượng ra được
một giọng hát thấm đẫm chân thật,
xoáy sâu chọc thủng bức tường
trái tim con người. Chúng ta cảm được
cái hay của nó nhưng không phân
tích được tại sao. Bởi anh hát từ
tim nên tim ta và tim người giao cảm. Giọng
anh không thể lẫn với bất cứ giọng
hát nào khác vì anh có một phong
cách rất riêng trong lối nhả chữ. Kỹ
thuật luyến láy chữ của anh phải
nói là “được tinh luyện và rất
khác biệt’. Một phong cách rất
“Phan Văn Hưng”. Vả lại khi anh hay bất
cứ ai hát loại nhạc của anh sáng
tác, người ấy không cần một giọng
hát thiên phú thật hay mà chỉ cần
hát thật có hồn, hát bằng tất cả
trái tim của người ấy.
Phan văn Hưng không những mang giọng
hát của mình đến với khán
thính giả khắp nơi ở hải ngoại
mà anh còn đem dòng nhạc rất đặc
biệt của mình gieo rải bất cứ nơi
nào người nghe muốn nghe. Nhạc của anh phần
lớn là phổ thơ nhưng anh nổi tiếng
đầu tiên ở những ca khúc chính anh
viết như “Bạn bè của tôi”, sau
này là “Bài ca tuổi trẻ”,
“Dìu nhau”, “Nhớ những dòng
sông” ..... Thơ anh phổ nhiều nhất của
Nam Dao, “người bạn đời” của anh
từ những ngày hoạt động trong các
phong trào sinh viên ở Paris. Người bạn
đời sát cánh bên anh còn chung lưng
cùng anh trong việc sáng tác. Có khi anh phổ
thơ Nam Dao, có khi anh viết dựa trên lời
thơ ND, rồi từ đó viết cả ca từ
và nhạc. Có lúc anh viết cả hai
nhưng ND sửa lời và góp ý. Cũng
có một vài bài ND viết cả nhạc lẫn
lời, anh sửa nhạc.
Ngoài ra anh phổ thơ của nhiều thi sĩ
khác trong cũng như ngoài nước. Mối
giao cảm giữa thi sĩ và nhạc sĩ trong một
bài thơ phổ nhạc như một hôn ước
nhịp nhàng, du dương và hoà điệu.
Nhưng không phải cuộc hôn phối nào cũng
đẹp đẽ và hạnh phúc. Có những
bài thơ hay bị giết chết thê thảm khi
được phổ nhạc nhưng cũng có những
bài thơ khi được phổ nhạc bỗng trở
thành vang danh và bất tử. Theo ý riêng
của tôi những bài thơ được anh
Hưng phổ nhạc là những đứa con may mắn
được đặc biệt ưu ái chạm
vào van tim của những người nghe biết mở
lòng.
Phan Văn Hưng biết chọn cho mình một
phong cách riêng trong âm sắc cũng như lối
soạn nhạc và chơi đàn của
mình. Âm Sắc là thứ màu sắc của
âm thanh. Màu Sắc đóng vai trò tối
quan trọng trong một tác phẩm nghệ thuật của
người hoạ sĩ thì đối với nhạc
sĩ, Âm Sắc cũng đóng vai trò
tương tự. Nó là chữ ký, ngôn
ngữ, âm thanh, tính khác biệt, nét
độc đáo, tất cả đúc kết
thành phong cách của một nhạc sĩ.
Anh kể cho tôi nghe một thói quen đặc
thù khác người. Người chơi guitar
classic thường bằng bốn ngón trong khi anh
chơi chỉ bằng hai ngón, ngón trỏ và
ngón cái.
Thế hệ ngày mới lớn của anh
là những thập niên 60, 70, được
nuôi dưỡng bằng dòng nhạc của The
Beatles, Simon & Garfunkel, Peter,Paul & Mary và Cat Stevens
nên một điều không thể phủ nhận
là nhạc anh có mang âm hưởng nhạc Mỹ
và dân ca Mỹ (Folk Music).
Sau này khi ra ngoại quốc anh lại chỉ
chơi nhạc Việt Nam, tuy nhiên, vì sống
trong một môi trường đa dạng và phong
phú ở hải ngoại nên anh biết cách
pha chế rồi tổng hợp nên một dòng nhạc
riêng cho mình bằng một tinh thần bạo dạn
khai phá của người làm nhạc. Tỷ
như trong bài “Những đứa bé”
có nhiều gam chõi, lạ, và mang âm
hưởng jazz và blues.
“Những đứa bé
không chiếu chăn/ Nằm lây lất giữa
hè phố
Nằm chui rúc nơi những
xó tối tăm, rác rưởi.
Những đứa bé trong quán
bia/ Em đón khách nơi phồn hoa
...........................................................
Những đứa bé không
cánh tay/ Những đôi mắt không còn thấy
Đời em giam trong ngõ tối/ Hắt
hiu, lụt lội
Những đứa bé đi
bán rong/ Đạp xe mướn hay lượm
rác
.............................................................
Một ngày về trên quê
hương
Tôi muốn nấc lên đau
thương
Tôi muốn khóc cho tủi hờn
Tôi muốn
ôm em vào lòng
(Những đứa
bẻ/Phan văn Hưng-Nam Dao)
Nói đến PVH
người ta nhớ ngay đến bài hát
“Bạn bè của tôi”. “Bạn
bè của Tôi” không những là
nhân chứng của một thế hệ, hai thế hệ
mà có lẽ của các thế hệ tiếp
nối. Nó không đơn thuần là một
bài hát mà là cuốn nhật ký ghi lại
sự thật xảy ra ở Việt Nam, không chỉ
của một cá nhân mà cả một dân
tộc. Nó gắn chặt tên tuổi anh vào
nó hay nói ngược lại nó đã
khai sáng một PVH, một dòng nhạc mới ở
hải ngoại.
Bạn bè
của tôi,
Từng chiếc
lá trong trận bão dân tộc
Tuổi trẻ
đôi mươi bị lãng phí như cỏ
rác thôi
.......................................................................
Bạn bè
của tôi
đi lây lất
trong cuộc sống vô vọng
................................................
Ai thấu cho
oan khiên này
Người
có lắng nghe ....
Tiếng ai than
dài
(Bạn
bè của tôi/Phan Văn Hưng)
Trong một bài phỏng
vấn anh Hưng tâm sự:
“Tôi sẽ
hát những bài hát đầu tay của Nam
Dao và tôi, những bài hát mộc mạc
không tham vọng, nhưng cũng là những
bài hát đã đánh dấu cuộc
đời chúng tôi cũng như của các bạn
của tôi. Thời đó chúng tôi
đã khóc cho quê hương, cho đồng
bào mình, thì ngày hôm nay tiếng
khóc đó vẫn chưa dứt. Ngày hôm
nay chúng tôi vẫn viết ca khúc, có thể
kỹ thuật làm nhạc đã già dặn
hơn, đề tài cũng có thể đã
thay đổi theo những biến đổi của đất
nước, nhưng trong tiếng uất nghẹn chưa
nguôi đó, tôi vẫn cảm thấy
lòng mình rực lửa vì con đường
dân tộc mình đi nhất định sẽ
có ngày rực sáng.”
Anh khóc cho quê
hương trong ca khúc “Hai mươi năm”
“Hai
mươi năm, nhiều kẻ gian trong làng xóm
Người hiền
khô mang gông cùm
Kẻ mộng
du lên bạo chúa
Người ngồi
khóc trên sân chùa
.....................................................................
Hai mươi
năm, những nụ hoa cho người hái
Những thể
xác cho ai đầy
Một thầy
cô trong nhà chứa
Gặp
trò xưa bỗng khóc òa”
(Hai mươi
năm/ Phan Văn Hưng-Nam Dao)
Anh cũng đã
khóc cho quê hương khi khúc đầu,
khúc trán, khúc tai, hình chữ S bị xẻo
ngang ngày đó, bây giờ lần lượt
tới Trường Sa, Hoàng Sa:
“PVH: Làm sao
mà không nói cho được về chuyện
mất Ải Nam Quan sau hàng chục thế kỷ tổ
tiên ta đã giữ vững bờ cõi ở
phương Bắc ? Đau mất đất chỉ
là một, nhưng đau và tủi nhục đối
với tổ tiên là mười. Đã
hát về đất nước VN ngày hôm nay
thì đương nhiên ta phải hát về
Nam Quan chứ.”
“Ải Nam
Quan ơi ta đã mất tên em/ Như một phần
hồn tự nghìn năm.
Lòng ta
đau như ai đem dao/ Xé nát da non cứa
trên thịt gan.
..................................................................
Ai đem
hình hài/ Giang sơn đọa đày/ Cho
thân lìa cành/ Cho cây lìa đất
Cho ta lìa cội/
Như sông bỏ nguồn/ Ta nghe tủi nhục/
Dâng vào lòng”
(Vọng Nam Quan/ Phan Văn
Hưng-Nam Dao)
Ba mươi ba năm lưu vong, dòng nhạc
Phan Văn Hưng để lại cho kho tàng âm nhạc
hải ngoại một dòng nhạc tranh vẽ những
thao thức, khắc khoải tâm tư: “Trái
tim tôi là bến” phổ thơ Bắc Phong,
“Giết một ước mơ” phổ thơ Chế
Lan Viên, “Nơi phía bình nguyên”
Ý văn Dương Thu Hương, “Kiểm
tra” phổ thơ Hà Sĩ Phu, “Khát”
ý thơ Thanh Thảo, “Ai trở về xứ Việt”
thơ Minh Đức Hoài Trinh. Dòng nhạc truyện
kể những mảnh đời bi thảm của
“Bài ca cho bé Thảo” phổ thơ Nam
Dao, “Em bé và viên sỏi” phổ
thơ Trần Trung Đạo, “Em bé lên 6 tuổi”
phổ thơ Hoàng Cầm, “Bậu”, “Con
bé nhà quê” phổ thơ Thái Sơn,
“Tiễn em rời K18”.... và còn nhiều
nữa. Anh bắt đầu sáng tác từ
năm 1970 cho tới nay, 38 năm anh có tất cả là 121 ca
khúc. Bấy nhiêu
tâm huyết làm nên dòng nhạc Phan Văn
Hưng.
Có người gọi dòng nhạc này
là nhạc Tranh Đấu. Nghe kỹ lại những
CD anh đã phát hành, từ “Sinh ra
là người Việt Nam”, “Khát”,
“Có phải em chờ mùa Xuân”,
“Hai mươi năm”, cho đến “Nơi
phía bình nguyên” .... người ta
không thấy một dấu hiệu nào anh gào
thét tranh đấu, đòi cái này,
cái nọ. Anh không kêu gọi, ủng hộ,
hay tuyên dương cho một chủ nghĩa nào.
Người bảo nhạc anh là Hưng Ca. Tôi
không thấy anh có ý phục quốc, xây
dựng một chính thể khác, đòi
làm mới hay ẩn dấu trong dòng nhạc một
tư tưởng vùng dậy nào cả. Nhưng
có lẽ tác động tranh đấu và phục
hưng của nó nảy sinh từ trong tâm thức
thính giả sau khi nghe các bài nhạc vạch
rõ những áp bức, bất công, lầm
than, nên người ta đặt tên cho dòng nhạc
này như thế chăng ? Kẻ góp ý nhạc
anh là Dân Ca. Tuy những dòng nhạc anh viết
hầu hết cho người dân lầm than nhưng
không thể ghép nó vào dòng nhạc
dân gian.
Theo giáo sư Trần Quang Hải, Dân Ca nghĩa
là:
“Định nghĩa danh từ dân ca, theo
tôi, là những bài ca không biết ai
là tác giả, được truyền miệng từ
đời này sang đời khác, dính liền
với đời sống hàng ngày của người
dân quê, từ bài hát ru con, sang các
bài hát trẻ em lúc vui chơi, đến
các loại hát lúc làm việc, hát
đối đáp lúc lễ hội thường
niên.
Dân ca lại mang một màu sắc địa
phương đặc biệt, tùy theo phong tục,
ngôn ngữ, giọng nói, và âm nhạc
tính từng vùng mà khác đi đôi
chút. Nhưng nhìn chung, vẫn là bài hát
thoát thai từ lòng dân quê với
tính chất mộc mạc, giản dị của
nó.
(Trích Dân Ca Việt Nam-Giáo sư Trần
Quang Hải)
Nét bi ca và phẫn uất rực lên
trong dòng nhạc. Riêng tôi, tôi nghĩ
chúng ta nên gọi dòng nhạc này là
“Bi phẫn ca” thì đúng hơn. Chữ
“Bi” ở đây có thể hiểu
là buồn vì cái buồn của người
khác và khổ vì cái khổ của
người khác.
Bàng bạc trong những ca khúc của anh
điều nguời ta phát hiện nhiều nhất,
rõ nhất là tính nhân bản của con người. Nghệ sĩ
thì nhạy cảm. Họ nhìn thấy trước
cái thiên hạ thấy, cảm trước
cái thiên hạ cảm. Nên anh cảm và thấy
cái khổ đau, thống thiết, bất công,
tàn nhẫn, ngược đãi, nghèo
đói, bạo lực, lầm than, áp bức,
tù tội ... nhan nhản trên đất nước
Việt Nam
từ thời điểm 1975 cho đến nay. Sự nhạy
cảm cấu mềm sự tích cực, lúc ấy
người ta chỉ thấy toàn tiêu cực. Khi
nước mắt người nghệ sĩ nhỏ xuống,
cung bậc sẽ lên ngôi. Dòng nhạc hát
cho người dân, hát cho đồng bào
tôi ra đời. Hầu hết các ca khúc của
anh viết cho quần chúng, đối tượng của
anh phần lớn là trẻ thơ, người
nghèo, anh bạn tù, những thân phận bị
vùi dập, những cay đắng, thống khổ
triền miên mà những kẻ yếu không thể
nói hay không có cơ hội nói lên
được. Anh không bao giờ nghĩ rằng
chính mình mang sứ mạng của một người
đánh chuông, nhưng dòng nhạc thay anh
gióng tiếng chuông tỉnh thức tới mọi
nơi, mọi nhà, viết
dùm, nói dùm nỗi uất ức của những
người không nói được. Những nét chấm phá bi thảm
cuộc sống ấy pha màu cho những bức tranh
màu xám, đầy gai, bấu rách màng
tim người nghe. Dòng nhạc vô tình
chuyên chở được nhu cầu được
nói của kẻ yếu trong cái hữu tình
của người soạn nên ca khúc.
Tất cả sự việc vô tình và hữu
tình ấy tình cờ kết duyên tao ngộ
làm nên dòng nhạc “Bi Phẫn Ca” của
Phan văn Hưng.
Để nghe và biết thêm về dòng
nhạc “Bi Phẫn Ca” này các bạn
có thể bấm vào các link sau:
- Em bé và viên sỏi/ Phan văn Hưng
https://www.youtube.com/watch?v=VltsSNsY4Kc
- Sinh ra là người Việt Nam/ Phan
văn Hưng
https://www.youtube.com/watch?v=pKxIJJedUdo&feature=related
- Hai mươi năm
https://www.youtube.com/watch?v=yDYIPnPn8s0&feature=related
Trịnh
Thanh Thủy
(Sưu Tầm
Liên Mạng chuyển)