Tán Gẫu Về Một
Người Làm Thơ
(Lâm Chương)
Có một thời, vào khoảng
thập niên 60, tạp chí Bách Khoa ưu
tiên dành đất cho các nhà thơ trẻ
miền Trung, nhất là những ‘chàng’
được sinh từ xứ Quảng. Số Bách Khoa
nào cũng thấy người của ‘ê
kíp’ này thay phiên nhau chiếm lĩnh đất
thơ. Thái Tú Hạp, Phan Nhự Thức,
Hoàng Lộc, Đynh Hoàng Sa, Hà Nguyên Thạch,
Hoàng Quy, Chu Tân, Lê Đình Phạm
Phú, Tần Hoài Dạ Vũ, Thành Tôn,
Hoàng Thị Bích Ni, Phương Tấn, Nguyễn
Nho Sa Mạc, Đông Trình, Luân Hoán …
Còn nhiều tên tuổi lừng danh khác nữa,
trong một lúc tôi không thể nào nhớ
hết. Một ‘tập đoàn’ thơ
đông đảo như thế mà giành
dân chiếm đất Bách Khoa thì còn chỗ
đâu cho thiên hạ cắm dùi
?
Tôi lúc đó chỉ đứng bên
lề quan sát những nhà thơ xứ Quảng
làm mưa làm gió trên một tạp
chí xuất bản tại Sài Gòn (từ miền
Trung mà vươn cái vòi bạch tuộc
khuynh loát tới miền Nam, hơi dài đấy !).
Trong ‘tập đoàn’
làm mưa làm gió này, tôi đặc
biệt chú ý một chàng có chiêu thức
… thơ là lạ.
Đó là Luân
Hoán. Làm thơ như
nói đùa. Làm thơ
như chuyện giỡn chơi. Nhưng đã
đọc vài câu thì tò mò phải
đọc hết bài để coi Luân Hoán giỡn
… chơi tới cỡ nào: hằng ngày qua
chợ Cây Me/ hình như tôi vẫn được
nghe em cười/ khúc kha khúc khích thật
vui/ em cười lừng lựng hay cười diễu ai
?/ cặp chân tôi có hơi dài/ nhưng sao
quắn quíu bước hoài chẳng xa/ không
chừng nhà nọ có ma/ có hương kỳ
ảo khiến ta khác thường/ mặt mày
ngây dại dễ thương/ mà trong lòng
đã bất lương đâm cành/ cây
me Hoàng Diệu quá xanh/ mỗi ngày
đành phải loanh quanh mấy vòng/ tinh ranh
lá hỏi viễn vông:/ này anh bạn trẻ
phải lòng ai chăng ?/ giật mình ta hỏi ta
rằng/ đã mê con bé khểnh răng hay
cười ?/ từ thơ bén đến văn
xuôi/ thất tình từ thuở mô rồi chẳng
hay/ lá me bay lá me bay/ cái chợ chồm hổm
vẫn lầy lội mưa/ nghĩ hoài không nhớ
chuyện xưa/ cái hồi kết thúc đẩy
đưa thế nào/ hình như chỉ tội
dòng thơ/ còn chàng và ả lẳng
lơ kia thì …
Thì sao ? Luân
Hoán chấm ba dấu (…) một cách rất ỡm
ờ. Ai muốn hiểu sao cũng được. Mấy mươi năm làm thơ vẫn vậy.
Không khác chút nào. Nói rằng yêu, rằng thất tình
nhưng lại diễn tả bằng thái độ bỡn
cợt. Tất cả đều như
thế, đều bình thường không có
gì quan trọng lớn lối. Nhiều khi sự
việc được nhìn dưới con mắt
khôi hài, nhưng vô cùng sống động:
đêm nào tôi cũng nằm mơ/ không
mơ, chắc chắn xác xơ, bất thường/
mơ em nằm ngủ ở truồng/ hai bàn chân
nhốt phấn hương mượt mà/ còn
tôi, ngồi ngắm cuống hoa …
Chẳng biết theo quan niệm của Luân
Hoán, cái cuống hoa nằm ở chỗ nào
trên thân thể của người đàn bà ? Chứ riêng
tôi, chưa chi đã nghĩ bậy rồi. Kể
cả khi nói về quê hương, bè bạn,
cuộc đời, Luân Hoán cũng không giấu
được nụ cười ở phía sau
lưng. Tôi tưởng tượng một
hình ảnh Luân Hoán vui nhộn, đầy
tính tiếu lâm, hiếu động.
Năm 1966, lần đầu tiên tôi gặp
Luân Hoán trong quân trường Thủ Đức.
Cao Thoại Châu giới thiệu một anh chàng rụt
rè như con gái, bảo đấy là
nhà thơ Luân Hoán. Tôi
hơi ngỡ ngàng trước một Luân
Hoán hoàn toàn khác với tưởng
tượng của tôi. Thời gian đã xa
lắm rồi, tôi không nhớ chúng tôi
đã nói những gì trong lần gặp
đó. Vài lần sau, tôi đến
chơi với người bạn cùng đại
đội với Luân Hoán. Thấy
tôi, anh mỉm cười thay thế một lời
chào. Chỉ vậy thôi, không quấn
quít ba hoa chích choè. Cuối tuần,
anh em văn nghệ hay lên phòng chiến tranh
chính trị họp bàn về tờ nguyệt san
Bộ Binh Thủ Đức. Luân Hoán ít khi xuất
hiện ở đây. Tôi ham vui,
cũng léng phéng tới chơi nhưng không
biết nói gì, nên ra đứng ngoài
hiên hút thuốc. Có lẽ
thấy cái mặt têu tếu của tôi
phù hợp với giọng thơ Luân Hoán
nên có người lầm tưởng.
Nhà thơ Nguyên Sa theo ra ngoài vỗ vai tôi
(một cử chỉ thân mật của bậc
đàn anh ưu ái dành cho bọn đàn
em) và hỏi, cậu là Luân Hoán đấy
à ? Thơ cậu
có sắc thái đặc biệt lắm đấy.
Người ta chỉ biết danh Luân
Hoán, không ai biết đến tên tôi.
Trong một lúc bốc đồng,
tôi cũng muốn mạo nhận mình là
Luân Hoán cho thiên hạ nể. Nhưng ở quân trường tới lui qua lại
hoài, có ngày cũng bị lật tẩy
thì chỉ còn có nước độn thổ.
Tôi đành nói thật, tôi
không phải Luân Hoán. Tôi là
Lâm Chương. Nghe tên tôi, Nguyên Sa có
vẻ thất vọng nói, à… thế à ? Rồi mỉm cười
bỏ đi. À … thế à là thế
nào ? Rõ ràng là
nói cho có nói vậy thôi, chứ không
muốn bắt chuyện. Tôi đứng hụt hẫng
và … buồn 5 phút ! Cái danh lợi hại
thật. Người ta có cảm tình
hay không cũng vì cái danh. Vô
danh mà muốn chơi trội, khó lắm. Mạo nhận lại càng nguy hiểm.
Suốt 9 tháng quân trường,
chúng tôi không có nhiều kỷ niệm với
nhau. Luân Hoán
luôn luôn khép kín. Ngày ra trường,
anh em văn nghệ ngồi lại uống cà phê
trong hội quán sinh viên ở khu dân sinh trước
khi chia tay. Thiếu Luân Hoán. Có người chạy đi tìm nhưng
không gặp. Không biết
nhà thơ đi ta bà thế giới ở
đâu. Bữa đó thật
vui. Ngoài đề tài văn nghệ,
chúng tôi còn lan man tán gẫu
về người lính mang cái lon chuẩn úy
mới ra lò. Có người bảo, lũ chúng ta ngồi đây sớm
muộn gì cũng có vài thằng gục
ngã ngoài trận địa. Vậy hãy thử
nghĩ ra cách tống táng theo
ý muốn của mình. Người muốn địa táng theo kiểu thường
tình. Người muốn hỏa táng cho
xong một đời vô nghĩa. Người muốn
thủy táng theo kiểu Hải
Quân, quăng xác xuống nước làm mồi
cho cá. Người muốn điểu táng theo kiểu Tây Tạng, bằm xác
cho kên kên ăn. Tống táng theo
kiểu nào cũng rùng rợn. Tôi
bảo tôi muốn ướp xác. Anh em bảo
ướp xác vừa khó, lại vừa tốn
kém quá nhiều. Tôi nói, vậy
hãy đem tôi bỏ trên miền giá
băng bắc cực coi như ướp lạnh,
ngàn năm sau tim gan phèo phổi
vẫn còn tươi rói. Dù
là nói chơi với nhau, nhưng tử trận
là có thật. Sáu
tháng sau ngày ra trường, được tin
Thiên Trường (chuyên viết khảo luận)
là người đầu tiên trong số có mặt
hôm đó, bỏ mình trong trận chiến Tết
Mậu Thân.
Phần lớn những người không là
con ông cháu cha, không có cổ thụ
làm bóng mát che đầu, khi rời quân
trường thường vác ba lô đi thẳng
ra chiến trường. Nghe anh em văn nghệ
nói Luân Hoán về Sư Đoàn 2
làm trung đội trưởng tác chiến.
Nhà thơ mà vác súng đi lơ ngơ
vào vùng sấm sét, e rằng không
khá được. Tham dự vào guồng
máy chiến tranh ác liệt với tâm hồn
mơ mộng viễn vông, đầu óc mãi
tìm thi hứng thì dễ bị trò chơi
súng đạn làm tổn thương. Luân
Hoán, Chu Tân và Phan Xuân Sinh ở trong
trường hợp này (lại cũng dân xứ
Quảng nữa. Sao chỗ nào cũng thấy các
anh hết vậy ?). Khả
năng các anh thuộc về lãnh vực
khác. Đã có một chỗ ngon
lành trên chiếc chiếu văn nghệ rồi,
làm người hùng chiến trường
không được đâu.
Tôi cũng có một thời mon
men muốn ngồi vào chiếc chiếu dành cho
các nhà thơ. Hằng đêm mất
ngủ, bóp trán làm thơ. Có lúc gần đạt được
danh hiệu thi sĩ, nhưng cuối cùng đành
bỏ cuộc. Làm thơ thật
vô cùng vất vả, phải kiên trì lắm
mới được bài thơ cho ra hồn.
Tôi vốn ù lì cục mịch, thiếu
tính kiên nhẫn, lại không có năng
khiếu đặc biệt về thơ thì làm
sao có thể ngồi chung chiếu với những bậc
thầy của chữ nghĩa mà tác phẩm của
họ là tinh túy của ngôn ngữ
? Biết mình không thể làm thi sĩ,
tôi chọn làm chiến sĩ . Danh phận nào có chữ sĩ (viết
dấu ngã) đi kèm cũng tốt. Mười
năm lăn lóc chiến trường,
đạn không bén đến da tôi. Có thể tôi gặp thằng xạ thủ
bắn tồi, cũng có thể tôi né đạn
giỏi. Nhiều người bảo phần số
tôi may mắn. Tôi bảo không phải vậy,
và đọc thơ Nguyễn Du: xưa nay nhân
định thắng thiên cũng nhiều. Bởi không làm thi sĩ nên khi qua những
làng mạc, tôi biết đề phòng du
kích bắn sẻ. Bởi không làm thi sĩ
nên khi vào những khu rừng hắc ám,
tôi biết đặt mình trong tư thế sẵn
sàng nổ súng vào bất cứ con gì
nhúc nhích trước mặt (bắn chậm
thì chết). Bởi không làm thi sĩ nên
khi đi trên những con đường mòn,
tôi biết quan sát mìn bẩy và coi chừng
bị phục kích. Bởi không làm thi sĩ
nên khi vượt qua một chiếc cầu, tôi biết
phải làm sao để tránh bị làm bia bắn. Tóm lại, bởi
không làm thi sĩ nên khi đi giữa làn
tên mũi đạn, tôi không hề mơ mộng
viễn vông. Còn Luân Hoán thì sao ? Hỏi tức là trả
lời. Khó mà kiêm luôn
một lúc hai cái danh hiệu có chữ sĩ
đi kèm mà bản chất hoàn toàn
đối nghịch nhau. Thi sĩ là người
làm đẹp cuộc đời bằng thơ. Chiến sĩ là kẻ
xung sát hủy diệt sự sống làm cuộc
đời vốn đã đau khổ càng
thêm đẫm máu.
Luân Hoán thuộc dạng thứ nhất.
Tôi thuộc dạng thứ hai.
Tôi quen nhiều người làm
thơ. Xem ra
phần đông là dân xứ Quảng. Hình như khí thiêng sông núi
hội tụ lại ở khúc giữa của dải
đất Việt Nam
nên sản sinh ra lắm người làm thơ.
Và đặc biệt khi nói về
quê hương, anh nào cũng hết lời ca tụng.
Ca tụng bằng miệng chưa đủ.
Ca tụng luôn trên báo chí
sách vở. Ca tụng đến nỗi
không còn chỗ ký tên. Bởi
vậy, những địa danh của Quảng Nam
đã đi vào văn học. Có nhiều
tỉnh bắt đầu bằng chữ Quảng như:
Quảng Ninh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng
Ngãi. Nhưng hễ nói xứ Quảng
là người ta nghĩ ngay đến Quảng Nam, chứ
không phải Quảng nào khác.
Đó là do người Quảng Nam đi
đâu cũng xưng mình là dân xứ Quảng.
Một tiếng duy nhất chỉ quê
hương. Trong sâu xa, ý muốn
độc chiếm chữ Quảng cho riêng mình
mà thôi. Thảo nào nơi đây,
và thời nào cũng có người làm
cách mạng. Một điều lạ nữa, chơi
với Quảng Nam
lâu ngày, đến một
lúc nào đó ta bất chợt thấy
mình bị biến thành người Quảng hồi
nào không hay. Một lối đồng hoá
âm thầm tiệm tiến, nhưng chắc chắn. Một lối ‘cải tạo’ êm
đềm nhưng từ từ sẽ biến chất.
Tôi bây giờ là Quảng lai
căng.
Người Quảng ca tụng quê
hương mình bằng nhiều cách. Chẳng hạn, với Hoàng Lộc
thì qua bài ‘Câu cá sông
Hàn’, cho rằng con cá ở sông Hàn
ngon hơn cùng một loại cá bắt lên ở
nơi khác. Và qua bài ‘Mì Quảng’,
sợi mì phải pha chế bằng
thứ nghệ trồng ở địa phương
mình thì màu sắc mới đẹp, thơm
ngon mới đúng điệu. Với Phan Xuân
Sinh, mì Quảng hương vị đậm
đà hơn bất cứ thứ mì gì
trên thế giới. Phan Xuân Sinh
còn khoe cả bánh bèo, bánh tráng rất
đặc biệt ở quê mình, không ở
đâu làm giống được như thế.
Với Trần Trung Đạo, hột muối
Quảng Nam
cũng có cái vị mặn mà thanh tao hơn
muối của bất cứ tỉnh nào (tôi gọi
anh ta là ông thần nước mặn). Nổ dữ tới cỡ đó thì
người sinh giữa kho đạn là Lê Mai Lĩnh
(Quảng Trị) cũng chào thua. Tôi ít
tiếp cận với Luân Hoán, không được
nghe ‘nhà thơ ta’ ca tụng miếng ăn.
Nhưng thử giở bất cứ tập thơ nào
của Luân Hoán ra coi, đầy những địa
danh xứ Quảng ! Đã sinh
trên mảnh đất được mệnh danh
là ngũ phụng tề
phi (chẳng biết có thiệt hay không), chắc
hẳn anh nào truyền thống cũng giống nhau. Nam đã thế, nữ cũng chẳng vừa
gì. Trước kia, tôi
có quen với một cô bạn người Quảng.
Cô hay nói về những danh nhân, sông
núi, đất đai, cây
trái, đặc sản quê cô. Đề
tài nào quanh co một hồi rồi cũng dẫn
tới Quảng Nam
(làm như đường nào cũng dẫn về
La Mã vậy). Cô rất
sính thơ, khoe mãi về các nhà thơ
đương thời xứ Quảng, dĩ nhiên
không thiếu Luân Hoán. Cô
thuộc nhiều thơ của ‘chàng’,
và nhận xét Luân Hoán làm thơ tự
nhiên mà yêu chết bỏ, đơn giản
mà thấm đẫm tình tự quê
hương. Nghe cô ca tụng Luân Hoán,
tôi ngẫu hứng cũng làm thơ tặng
cô:
bởi thương cái giọng miền
Trung
tôi cũng liều theo em về xứ Quảng
ăn thử
cá mòi muối mặn quê em
uống hết
nước Thu Bồn chưa đã khát
buổi trưa
trưa em đội nón lá Kim Bồng
dẫn tôi
đi dạo vòng quanh phố Hội
nắng như nung
rát bỏng da người
mà em bảo
quê em vùng nắng ấm
gió Hạ
Lào mở mắt không ra
em lại bảo
gió Trường Sơn về thơm phố biển
…
Bài thơ tôi viết
chưa xong, cô bạn trừng mắt bảo phải
ngừng ngay, bởi câu nào cũng có
tính cách châm biếm. Hơn nữa, thơ
không có niêm luật vần điệu chi cả.
Vậy mà cũng bày đặt làm thơ.
Ghê chưa ? Đùa một chút cũng
không được. Đối với cô, Quảng
Nam là số 1, là đất linh thiêng. Khi
nói đến Quảng Nam phải đàng
hoàng nghiêm túc.
Hơn ba mươi
năm sau ngày ra trường Thủ Đức,
tôi gặp lại Luân Hoán ở Canada. Mừng
thấy anh vẫn khỏe, vẫn làm thơ đều
đều. Mừng hơn nữa, anh còn làm
được bài thơ ‘Cỡi Ngựa’ vững
vàng đầy phong độ: dẫu mòn mỏi
qua trăm đường lối cũ/ vó ngựa ta
còn thở vẫn còn phi/ mông em nở và
cặp chân rất điệu/ khép càn
khôn vào giữa nhụy xuân thì/ nhịp
móng sắt từ ngàn xưa lóc cóc/ lối
đi quen không phải lối đi buồn/ vẫn
đường cũ mà mỗi lần qua lại/
hương trong lòng vẫn đổi mới luôn
luôn/ em kiều diễm dẫu không ngừng
sáng tạo/ thế trên yên giông bão
tuyệt như nhau/ tay cương chùng theo vận tốc
chậm mau/ và ta nữa, khi thong dong nước kiệu/
lắng sâu lòng hôn ngọn cỏ nhậm
sương/ khi tung vó điên cuồng phi bán
mạng/ hồng thủy trào dập tắt lửa kim
cương. Tôi không có ý bình
thơ Luân Hoán, nhưng qua đó tôi thấy
bạn tôi, một chàng kỵ mã phi như bay
trong thơ và thời gian.
Luân Hoán ơi,
Chiến trường tha
tội chết cho bạn, nhưng phải cúng lại
một bàn chân ngoài trận mạc. Trong vận
rủi vẫn còn có cái may. Chẳng phải
ngày nào khi mới từ giã KBC 4100, bạn tự
nói với chính mình: hãy nắm chặt
giây cương này, Luân Hoán, ra khỏi
nơi này sẽ gặp nghĩa trang hay sao ? Chúng
ta đã đi qua một thời kỳ khủng khiếp,
nhìn lại mới biết ớn lạnh. Một
đoạn đường gai lửa, tử thần
rình rập theo mỗi bước chân. Vậy
mà ta xách súng đi lơ ngơ như đi
bắn chim. Hành quân vào rừng như đi
picnic. Nhởn nhơ trên chiến trường như
chốn rong chơi. Tàn cuộc, ta vẫn còn sống.
Lạ thật ! Tuổi đời càng cao, đời
người càng lún xuống. Đất
đã lên tới ngực rồi, nhưng với nền
y khoa tân tiến bây giờ, bọn mình
còn lâu mới bắt đầu xây kim tĩnh.
Và ông Bùi Gioáng cũng còn lâu mới
gặp bọn mình. Hãy làm thơ, làm
thơ và … làm thơ nữa đi.
Lâm
Chương
(Bai Chuyen)