HAI CẦN CẮT CỎ
(Tác giả: Ngô Văn Thu)
Với bài viết "Tháng Tư, Tro Tàn Bay
Trắng Đầu", tác giả đă nhận giải
Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Ông sinh
năm 1939. Trước 1975, là sĩ quan QLVNCH. Bị bắt
làm tù binh ngày 16/04/1975 tại mặt trận Phan-rang. Ra tù
1984. Vượt biên 1986. Bị bắt giam ở nông trường
dừa 30/04, tỉnh Trà-vinh. Năm 1987 trốn trại về
Saigon. 1989 tái vượt biên đến Malaysia tháng 07/1989.
Tháng 05/1993 định cư tại Houston, Texas. Sau đây là
bài viết mới nhất.
* * *
Hai Cần có tên họ đầy đủ
là: Ngô Cần. Theo sau mấy đứa em có tên là: Ngô Kiệm,
Ngô Liêm, và Ngô Chính. Tên của bốn anh em Hai Cần mang hoài
băo của gia đ́nh; mong họ sống đúng phuơng
châm: Cần, Kiệm, Liêm, Chính để làm đẹp gia tộc
và giữ ǵn khuôn phép nề nếp của tổ tiên.
Khi đến Mỹ theo diện HO, tên của
Hai Cần bỗng bị gọi đảo ngược lại
là: Cần Ngô, và theo cách viết của người Mỹ
không dấu nên biến thành Can Ngo, rồi cũng từ
đó là cách phát âm lơ lớ giọng Mỹ sẽ là;
"Caa n Ngo o", không xa lắm với cụm từ
"Cán Ngố" - một cụm từ mà sau 75 người
dân Miền Nam thường gọi mấy tên cán bộ Việt
cộng như vậy. Bởi v́, với cái "đài"
(Radio) mang trên vai mở hết âm lượng đi nghênh
ngang ngoài đường phố để tự đắc
rằng ta đây là kẻ "chiến thắng" (kiêu
binh) và cũng khoe mẽ rằng ta đây giàu có hơn
"bọn địch" Miền-Nam. Rất tiếc, sự
thể nếu không "bị ngố" phải hiểu
ngược lại mới đúng.
Thật t́nh Hai Cần bị oan nghiệt với
cái tên gọi ngược đó, và chỉ bị trên đất
Mỹ mà thôi chứ trước 75, ở Việt-nam, Hai Cần
đường đường là một biên tập viên cảnh
sát, xuất thân từ Học Viện Cảnh Sát Quốc
Gia ra trường, và được bổ nhiệm về
làm chủ sự Cảnh Sát tư pháp của một quận
miền xa trên vùng 2 Cao nguyên- Pleiku.
Thế rồi, chiến cuộc bùng nổ
mạnh. Buôn Mê Thuột mất. Pleiku di tản, mọi
người đều t́m đường chạy loạn.
Hai Cần cũng không ngoại lệ, phải chạy theo
đoàn người t́m về miền xuôi trên tỉnh lộ
7. Không ngờ họ lại chạy vào "tử lộ",
chả khác nào "đại lộ kinh hoàng" ở Quảng
Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972.
VC pháo kích vào đường 7 tàn sát tất
cả. Hai Cần bị trọng thương nơi vai và một
mảnh đạn pháo ghim vào ngực. Hai Cần đau
đớn ôm chặt vết thương ở ngực lần
ṃ t́m đến khe suối để lẩn trốn và tự
cứu bằng cách xé mảnh áo rách nén chặt vào vết
thương để chận máu cho khỏi thoát ra. Sau mấy
ngày nghe ngóng động tĩnh bên ngoài, khi biết chắc
cảnh vật chỉ c̣n là sự chết chóc hoang tàn, và hy
vọng rằng VC không c̣n lục soát nữa nên Hai Cần
men theo con suối t́m ra buôn làng để mong vượt
thoát, v́ vết thương đă mưng mủ nhiễm
trùng nhức nhối, cần được chữa trị.
Một buổi sáng, tai Hai Cần bỗng
nghe tiếng chó tru từ xa vọng lại, như báo hiệu
có làng mạc quanh đây. Suốt một ngày, Hai Cần lần
ṃ theo hướng đó và quả nhiên Hai Cần gặp một
buôn Thượng. Kinh nghiệm phải cảnh giác; có thể
là một buôn Thượng Cộng, nên Hai Cần không dám vào
đành phải nằm ngoài rừng chờ .. Hai Cần
không biết phải chờ đợi ǵ? Một toán cứu
nạn t́m đến cứu ḿnh chăng? Điều đó
chỉ là ảo tưởng trong lúc nầy, v́ mọi
người đều biến khỏi nơi đây từ
lâu, giờ quanh Hai Cần chỉ c̣n tiếng gió hú của rừng
núi thâm u, cùng với bao nỗi nguy nan vây quanh mà thôi, nghĩ
đến đây Hai Cần cảm thấy tê dại cả
người nên mê thiếp đi lúc nào không hay ..
Khi chập chờn tỉnh dậy, Hai Cần
chợt thấy bên ḿnh có ông già nước da ngăm
đen, là người vùng sơn cước ngồi bên cạnh,
tay đang cầm một tô nhựa đă ngả màu thẫm
nâu. Thấy Hai Cần tỉnh, Ông già bèn lên tiếng trước:
"Ông Quốc gia, ông bị thương nặng lắm,
ông nằm ngoài rừng, tôi sợ cọp về tha đi hoặc
bị cách mạng bắt nên đưa ông vào đây với
tôi. Tôi có miếng cháo cho ông ăn để khoẻ. Tôi có
miếng thuốc để bó vết thương cho ông.
Tôi "che" cho ông để ông không bị bắt. Ông
ăn miếng cháo nầy đi, c̣n đây là miếng thuốc
tôi bó cho ông". Miệng nói tay ông làm như lo cho người
nhà của ḿnh vậy.
Thế là Hai Cần trở thành "khách
không mời" của ông già người thiểu số
Kurt Dak tốt bụng, độ lượng, có ḷng nhân cứu
người trong cơn hoạn nạn, khó mà t́m thấy
nơi đâu trong t́nh huống ngặt nghèo hiểm nguy nầy,
chỉ cần một chút sơ hở, tai vách mạch rừng
là cả hai sẽ chuốc lấy thảm họa.
Rồi một đêm, đất bằng bỗng
sóng dậy.Tự dưng chiêng trống, phèng la, cồng, tù
và, đồng loạt gióng lên vang dội khắp núi rừng.
Hai Cần run bật ngựi, v́ nghĩ rằng ai đó
đă phác giác nơi ẩn nấp của ḿnh nên họ báo
động cho Việt Cộng t́m đến vây bắt.
Trong nhà, ông già Kurt Dak người ơn cũng chạy biến
theo tiếng gọi của âm vang đó. Trong tâm trạng
hoang mang cùng cực. Hai Cần chỉ c̣n chờ đợi
đưa tay vào c̣ng để bị dẫn đi mà thôi.
Nhưng chờ măi gần sáng vẫn không
thấy động tĩnh ǵ th́ ông già xuất hiện, miệng
lẩm bẩm chửi thề. "Mẹ kiếp, chuyện
không có ǵ mà gây náo loạn. Con trâu sanh khó, sanh ngược.
Trưởng làng sợ trâu mẹ chết nên gióng trống
báo động để mọi người đến cứu".
Hai Cần nghe xong hú vía. Thoát được một cơn
hiểm nghèo!
May thay! Hai tuần trôi qua trong sự đùm
bọc, nuôi dưỡng của ông già Kurt Dak đều
suông sẻ. Sau đó ông lại c̣n hoá trang cho Hai Cần giống
như người sắc dân của ḿnh và, hai cha con lại
khiêng Hai Cần trên vơng mây (như cách đưa người
bệnh đi cấp cứu mới thoát sự ḍm ngó của
VC) về một bến đ̣, rồi ông già lại "hộ
tống" tiếp Hai Cần đến tận sông Đà
Rằng thuộc tỉnh Phú Yên để trả Hai Cần
về với gia đ́nh theo ước nguyện, y như một
cuộc phóng sinh, thả chim về với trời xanh vậy.
Cảnh biệt ly thật cảm động
giữa Hai Cần với ông già Kurt Dak, không có ngôn từ nào
tả xiết trước nghĩa t́nh đầy ḷng từ-bi,
bác-ái của một người Thượng đối với
một người Kinh, dù khác màu da, không cùng ḍng tộc,
không cùng huyết thống, mà lại đùm bọc tận
t́nh cho Hai Cần trong cơn hoạn nạn như vậy.
Phải chăng ông già người Thượng Kurt Dak là
hoá thân của Trời-Phật hiện ra để cứu
độ cho Hai Cần. Chân bước đi mà ḷng Hai Cần
như nhỏ lệ.
Sau đó, với hai ngày đi đường
khó khăn sau loạn lạc chiến tranh. Hai Cần xiêu vẹo
về đến nhà ở Quảng-Trị lúc trời chập
choạng tối. Bước vào nhà, mọi người
trong nhà hốt hoảng rú lên kinh hoàng v́ tưởng rằng
bóng ma của Hai Cần hiện về. Quả t́nh thân xác của
Hai Cần tiều tụy tả tơi do thương tích
gây ra, nên chẳng khác nào ma vậy. Hai Cần phải buộc
miệng gọi: Má ơi! Em ơi! Con là Hai Cần bằng
xương,bằng thịt c̣n sống về đây, đừng
sợ! đừng sợ!
Nói xong, để lấy ḷng tin. Hai Cần
đi thẳng đến bàn thờ Phật thắp nhang
cúng vái như lúc Hai Cần c̣n sinh hoạt ở nhà hằng
đêm, để tạ ơn Phật tổ đă phù hộ
cho Hai Cần được trở về đoàn tụ
cùng gia đ́nh. Nhờ cử chỉ quen thuộc ấy, gia
đ́nh mới tin đây là Hai Cần thật chứ không phải
là "ma".
Không kể xiết nỗi vui mừng của
gia đ́nh. Cả nhà; Mẹ, vợ con, ôm Hai Cần khóc
như chưa bao giờ được khóc v́ biết rằng
người thân của ḿnh đă trở về từ cơi chết
.. chứ không phải ma như họ tưởng. Bàn thờ,
thờ Hai Cần từ đó được lấy xuống,
v́ trong đau xót tuyệt vọng gia đ́nh đă lập
nên.
Chưa hết cơn vui hội ngộ. Một
tuần sau, Hai Cần có lệnh tập trung "cải tạo"
dù vết thương của Hai Cần chưa lành hẳn.
Hai Cần lại băng ḿnh vào cơi chết khác của những
năm tháng tù đày nghiệt ngă ở trại tù B́nh-Điền,
v́ Hai Cần là cảnh sát, nên bị Việt cộng kết
tội vô số "nợ máu".
Sau hơn bảy năm tù "cải tạo"
trở về, hồn xác Hai Cần như ĺa nhau, cuộc sống
vô vị trong cơi tạm bợ của thế gian XHCN Việt
Nam. May thay, trong tận cùng của tuyệt vọng,
chương tŕnh HO ra đời, gia đ́nh Hai Cần
được ra đi theo diện HO. 3, định cư
tại Hoa-Kỳ. Thoát một cảnh đời tăm tối
từ tháng 3/1975 (Pleiku rút) đến tháng 3/1993 (đến
Mỹ) 18 năm giông băo cuộc đời!
Tại Mỹ, Hai Cần có người bạn
cùng đơn vị ngày trước đứng ra bảo
trợ đưa về tiểu Bang Texas sống "cho vui
với nhau". Vui ở đây là cùng hành nghề cắt cỏ
với ông bạn. Mới qua chập chững vào nghề,
được "tắm nắng hè" của Texas trên
trăm độ hằng ngày quả là "ấm ḿnh".
Tuy nhiên chiều về được "chủ" phát
50 đô tiền công (lương nâng đỡ t́nh chiến
hữu với nhau, lương Mễ chỉ 40 đô) th́ cũng
khấp khởi mừng. Đồng tiền đầu
tiên làm ra trên đất Mỹ do sức lao động của
ḿnh bỏ ra thật giá trị, chẳng bù lao động
trong tù, làm nhiều, bị vắt kiệt sức mà đói
dài dài.
Thế rồi ngày tháng thoi đưa, Hai Cần
theo "nghề cắt cỏ" luôn, và có danh xưng
"Hai Cần Cắt Cỏ" từ đó. Nói theo kiểu
Mỹ sẽ là "Can n Ngo o Lawn service" chứ không phẳi
"Can n Ngo o ga am co o no on (Cần Ngô gặm cỏ non)
như lời chế riễu của bạn bè.
Có lần Hai Cần cũng mơ ước
được đến trường theo học nghề
luật cho có vị thế hơn, v́ trong quá khứ khi vào Học
Viện Cảnh Sát Quốc Gia, Hai Cần cũng học
được phần nào luật tổng quát các ngành rồi,
nhưng mộng ước không thành v́ gánh nặng gia
đ́nh, vợ hai con, cần phải có tiền để
đáp ứng cuộc sống trước mắt - "Bắt
con chim trong tay, hơn bắt con chim ngoài trời", thế
nên Hai Cần đành để cơ hội ra đi ..
Bốn năm sau, Hai Cần mua được
một job cỏ của người khác bán lại, v́ họ
cần di chuyển khỏi tiểu bang. Hai Cần làm chủ
từ đó, và phát triển thêm lên. Gặp lúc cơn sốt
nhà dâng cao, các khu đất trống được phủ
kín bằng nhà mới, Hai Cần lại có thêm sân cỏ
để dụng vơ. Nước lên, thuyền lên. Khách hàng
tăng dần trên cả trăm, Hai Cần phải mướn
thêm nhân công Mễ, từ hai lên bốn người rồi
lên tám người chia làm hai toán, một tuần làm việc
sáu ngày, bận rộn mà lợi tức cũng tăng theo
đáng kể.
Theo luật bất thành văn của
nước Mỹ, ai ra nghề sau bốn năm mà không lên
được th́ xem như ch́m xuồng. May thay! Hai Cần
không bị ch́m xuồng mà c̣n sống vững vàng với
"gánh cỏ" của ḿnh để nuôi con ăn học,
đứa học luật thay Hai Cần, đứa học
Y-tá thay mẹ. Cuộc sống ấm êm nhờ việc làm ổn
định kéo dài suốt 15 năm.
Cho đến một ngày, tấm bảng
hiệu hành nghề luật sư của con Hai Cần
"C&C Law Firm" (Cần Con Law Firm) được dựng
lên trên khu phố chính Bellaire thuộc thành phố Houston TX,
chen vai sát cánh cùng với người dân bản xứ, Hai Cần
mới thở phào nhẹ nhơm. Thế là cây xanh (con Hai Cần)
mọc lên tươi tốt nhờ bón phân (ư chí của cha
mẹ) và được tưới thắm mồ hôi của
Hai Cần đổ xuống, qua nghề cắt cỏ kiếm
tiền cho con ăn học thành tài mà không qua một vay
mượn tiền bạc tài trợ của ai cả.
Đó chính là phần thưởng tốt đẹp và hănh
diện nhất cho Hai Cần lẫn cho con ḿnh.
Tuy nhiên trong thuận lợi đó, đôi
khi Hai Cần cũng gặp lắm điều trắc trở
thử thách mà điển h́nh có lần Hai Cần đang
làm th́ bỗng thấy xe cảnh sát quây đèn tiến lại,
một xe của sở vệ sinh và cầu đường,
cùng một người Mỹ trắng đi theo.
Khi đến nơi, cảnh sát chào theo thủ
tục, rồi hỏi ID và giấy phép hành nghề của
Hai Cần. Xong cảnh sát bảo; có người nầy (chỉ
người Mỹ trắng) báo cáo ông thổi cỏ xuống
cống, và thổi rác qua nhà ông ta. Tại sao ông làm vậy?
Để tránh bị đánh phủ đầu
trước. Hai Cần tự xác định ḿnh với cảnh
sát và cũng để câu giờ t́m cách đối phó; Hai Cần
chậm răi nói: "Thưa cảnh sát, tôi là người Việt
nam tỵ nạn CS qua đây theo diện nhân đạo hợp
pháp của chính phủ Mỹ, tôi không phải là dân lậu
(Illegal). Tôi có Quốc tịch Mỹ nên được luật
pháp Mỹ bảo vệ và che chở b́nh đẳng như
bao công dân khác, trừ khi tôi phạm pháp th́ có luật pháp trừng
trị. Và tiếp:
- Xin xác nhận lại ai là người tố
giác tôi điều nầy? Hai Cần hỏi.
Chỉ người Mỹ trắng, cảnh
sát nói; ông nầy.
- Ông tin người nầy là người
tốt. Hai Cần hỏi lại.
- Cảnh sát không trả lời Hai Cần
mà bảo người của sở vệ sinh cạy nắp
cống lên xem.
Mọi người trố mắt nh́n xuống.
May cho Hai Cần. Không có cỏ mới, chỉ có rác mục
lâu ngày mà thôi. (Nếu có cỏ mới sẽ bị tội
làm bít cống rănh gây ngập lụt cho địa
phương.)
- Đây là lời tố cáo không đúng sự
thật. Hai Cần nh́n mọi nguời và nói.
- Xin cảnh sát làm chứng cho tôi. Hai Cần
bồi thêm.
- C̣n bảo tôi thổi rác qua nhà của
người nầy th́ xin hăy nh́n.
Hai Cần vốc một nắm rác từ
nhà người Mỹ trắng đưa cho cảnh sát xem
và bảo:
- Nhờ hai ông xem dùm, có cọng rác nào mang số
nhà 9226 từ nhà nầy, bay qua nhà 9222 của ông đi tố
giác tôi không. Hơn nữa, giữa đường trống,
gió thổi 15 mp/h làm sao ngăn chận được mà bảo
tôi thổi rác theo ư muốn qua nhà ông ta. Hai Cần phân trần.
Người cảnh sát nh́n nắm rác từ
tay Hai Cần có vẻ suy nghĩ, rồi nh́n người Mỹ
trắng để tỏ dấu không đồng t́nh với
lời tố giác của ông ta, mà trước đây khi
chưa cạy nắp cống lên, người cảnh sát vẻ
mặt cũng hầm hầm v́ yên chí Hai Cần sẽ làm
điều sai trái đó, nhưng nay ông ta đổi thái
độ, nheo mắt nh́n Hai Cần như đồng cảm
trước sự việc không đúng và cách giải bày có
lư của Hai Cần.
Luật pháp Mỹ cho phép mọi người
được quyền thưa kiện. Nhưng phải có
bằng chứng cụ thể kèm theo mới có sức thuyết
phục buộc tội người khác. Đằng nầy,
nắm rác trong tay Hai Cần không có số nhà để chứng
minh là rác từ nhà 926 qua nhà 922 th́ làm sao bảo rằng Hai Cần
thổi từ bên A qua bên B là nhà của ông đi tố giác
được. Họ đành im lặng chịu đuối
lư.
Sau cùng Hai Cần xin người cảnh
sát cho ḿnh một biên bản về việc nầy để
làm bằng chứng người tố giác mang tội vu khống,
cản trở việc làm của người khác hầu kiện
ông ta ra ṭa.
Cảnh sát nói lại với người Mỹ
trắng. Ông ta hiện rơ nét mặt bối rối sợ
hăi v́ nghe chuyện ra ṭa.
- Thôi đừng làm lớn chuyện. Tôi có
giải pháp nói ông ta xin lỗi v́ sự đáng tiếc nầy.
Người cảnh sát nói.
- Như cảnh sát đă thấy, người
nầy cố t́nh hại người vô tội, tôi và thợ
Mễ phải nghỉ việc, thiệt hại tài chánh cho
tôi. Hai Cần nói.
Do sự sắp xếp, giải hoà của
cảnh sát, cuối cùng người Mỹ trắng phải
nhượng bộ xin lỗi.
Hai Cần tự biết nghề nghiệp
của ḿnh thường rong ruổi đó đây trong xă hội
Mỹ, nên không muốn dẫn đến việc va chạm
lớn với luật pháp, chấp nhận cho ông Mỹ xin
lỗi và nói:
- Mong ông giữ lấy danh dự của
ḿnh. Ông được free. Hai Cần nói câu ngắn gọn
như vậy.
Thế là vụ "tố giác" xem
như qua cầu. Mọi người giải tán.
Không gian lại vang tiếng máy cắt cỏ
của Hai Cần gầm rú mừng "chiến thắng"
v́ lời biện hộ theo phản xạ tự nhiên
nhưng có "chất luật ranh mănh" của ḿnh. Làm
sao cỏ mang số nhà được (mạnh dùng sức,
yếu dùng thế). Nếu không làm vậy sẽ bị xử
hiếp, v́ là Mỹ với nhau ai bảo đảm họ
công bằng.
Sau nầy Hai Cần được biết,
sở dĩ người Mỹ trắng phải mượn
tay cảnh sát để đuổi xéo Hai Cần đi khỏi
vùng của ông ở, v́ ông muốn dành việc nầy cho
cơ sở từ thiện của ông thầu trọn. (làm
từ thiện mà tâm chưa thiện cố t́nh hại
người khác). Việc cảnh sát hỏi giấy tờ
của Hai Cần quả là nguy hiểm, nếu Hai Cần
là kẻ sống "chui" th́ xem như bị bắt
ngay. May thay Hai Cần là người hợp pháp nên người
đi tố giác bi "hố to".
Do ư tưởng lệch lạc không biết
tự bao giờ, nên nghề cắt cỏ thường bị
xếp vào thứ bậc thấp nhất trong xă hội Mỹ,
bị người đời gọi với cái tên dè bỉu
rẻ rúng: "Thằng Mễ cắt cỏ" hoặc
"thằng Việt cắt cỏ".
Mấy ai hiểu; khi người Việt
mới hội nhập vào Mỹ năm 75, rất nhiều
giới phải tạm thời bước qua nghề nầy
để kiếm tiền xoay xở tức thời rồi
từ đó; mắt trước mắt sau mới t́m
đường ổn định lâu dài. (Nay chỉ c̣n một
nhà thơ lấy bút hiệu "thằng cắt cỏ"
để đăng thơ của ḿnh trên Đặc San Hội
cố Đô Huế 06 /2015 Houston TX, với niềm tự
hào ngày tháng đó của ḿnh đă sống).
Phải nói rằng: muốn có được
một thảm cỏ xanh, có được một bồn
hoa xinh đẹp trước sân nhà, hoặc để cứu
được một gia đ́nh tránh bị khu phố (home
assosiation) phạt nặng v́ vườn tược bẩn
thỉu không chăm sóc tốt. Lúc đó phải có bàn tay của
những "thằng cắt cỏ" như Hai Cần
làm gấp, gia chủ mới tránh được một giấy
phạt gắn trước cửa. Vậy mà "thằng
cắt cỏ" vẫn bị xem nhẹ trong xă hội Mỹ,
mặc dù nghề cắt cỏ cũng có mặt trong số
32 ngàn ngành nghề khác nhau trong nước Mỹ.
Quả t́nh, khi bỏ nước ra đi,
nghề cắt cỏ không có trong hành trang lên đường
của Hai Cần. Nhưng v́ qua Mỹ quá trễ 1993, (trâu
chậm uống nước đục), "gặp thời
thế thế thời phải thế", không c̣n sự lựa
chọn nào hơn trước tương lai của con cái,
nên đành sống vậy.
Người xấu chứ có nghề nào xấu
đâu.
Mấy ai hiểu rằng: nghề cắt
cỏ không gây căng thẳng (Stress) cho ḿnh v́ thương
vụ, không lo nghĩ tiền thuê mặt bằng hằng
tháng, không tốn tiền điện nước, không có ca
hai, ca ba. Trời tối là gác máy ngủ kḥ. Không sợ ế
khách, hàng bị thiu mốc hư hao xào đi nấu lại,
không tốn tiền quảng cáo quanh năm, không lệ thuộc
vào không gian hay thời gian, nếu gặp lúc đang làm mà trời
mưa bất ngờ th́ xem như tổ đăi, được
nghỉ, thích thú tựa như thuở c̣n đi học mà thầy
giáo bị bịnh, học tṛ được cho về, c̣n
ǵ hạnh phúc bằng.
Việc làm, th́ muốn làm hay nghỉ, muốn
đi hay về tùy ḿnh quyết định, không có chủ lớn
(big boss), chủ nhỏ (supper visor) nào kèm thúc bên hông ḍm ngó trợn
mắt, trề môi, đe doạ cho nghỉ việc v .. v..
Thú hơn nữa, "thằng cắt cỏ"
c̣n được sống gần với thiên nhiên, nên những
trưa hè, giờ cơm thường diễn ra picnic dưới
gốc cây sồi (oaks) râm bóng mát,được nghe tiếng
chim hót líu lo trên cành, được thấy sóc vờn
đuổi nhau ở một góc vườn rất ngoạn
mục, tai c̣n được nghe tiếng ve sầu kêu nỉ
non vang vọng một góc trời để thoảng chốc,
đưa hồn ḿnh sống dậy với thuở học
tṛ tràn đầy mộng mơ của ngày tháng cũ. Thử
hỏi, những ai sống "cao cấp" trong pḥng lạnh
mà có được những giây phút thư thái êm ả
như "thằng cắt cỏ" Hai Cần?
Chưa hết, nhờ sống gần với
thiên nhiên nên thể lực (sức khoẻ) của "thằng
cắt cỏ" cũng vượt trội hơn, để
xông pha vào cơi nắng cháy cuồng bạo của TX mà không hề
hấn ǵ. Chưa có "thằng cắt cỏ" nào chết
trong lúc đang "tại chức" như ông Steve Jobs tổng
giám đốc (CEO) công ty điện thoại Ipaid và Iphone.
Theo luật bù trừ, được điều nầy
th́ mất điều khác. Ông Steve Jobs có tiền bạc tỷ
(ba ḅ, chín trâu - chuyện thằng Bờm) muốn đổi
cái quạt mo của thằng Bờm - tức sức khoẻ
của Hai Cần cũng không được, đành phải
ra đi sớm. Trong khi "thằng cắt cỏ"
nghèo như Hai Cần th́ vẫn "khoẻ v́ nước"
như thường. Ông bà ḿnh bảo sức khoẻ là vàng
th́ "thằng cắt cỏ" mang vàng đi đó
đây mà không sợ bị cướp, v́ toàn thân hắn
đều giát bằng vàng ṛng 24 k - tức là sức khoẻ.
Nhờ vậy, "thằng cắt cỏ"
lăn lóc cùng khắp trong mọi địa bàn của
Houston, rồi "lăn" sâu vào các khu dinh thự quyền
quư vùng "thượng uyển" Memorial Houston TX. Khu vực
VIP lớn ở (vào đây làm phải thông qua điều-chuẩn
an ninh tốt mới được. Hai Cần nhờ có
"mác" tù chính trị nên được pass dễ
dàng).
Khu biệt thự nầy có đồi, có
suối, nước chảy róc rách thơ mộng nên giá
"mềm" cũng năm mười triệu đô một
căn. Chính nơi đây Hai Cần có vinh hạnh được
cắt cỏ cho biệt thự của Phi Hành Gia Appolo 11
Neil Armstrong, người từng bay lên không gian và đặt
dấu chân đầu tiên lên mặt trăng ngày 20 tháng 7,
1969.
Gặp ông, những tưởng rằng
ông sẽ kênh kiệu v́ hào quang sáng chói của ḿnh trong quá khứ.
Nhưng không, ông tỏ dấu hiền đức, chào hỏi
lịch thiệp, có lần ông c̣n hỏi về đời
sống người lao động và của gia đ́nh Hai
Cần nữa, dù ông biết Hai Cần chỉ là "thằng
cắt cỏ" nhỏ nhoi trong xă hội, nhưng không v́
thế mà ông có ư cách biệt xem thường. Tâm hồn ông
rộng mở với mọi người. Ông là người
duy nhất của hành tinh được bay lên, đáp xuống
mặt trăng để chinh phục không gian từ đó
đến nay chưa có ai thay thế.
Một lần khác, Hai Cần gặp ông
trong tư thế của người trầm tư (tay cầm
viết, tay cầm giấy - ông thường lang thang ở
khu hồ bơi, vừa tắm nắng vừa hưởng
làn hơi nước mát dịu từ hồ toả lên.
Không muốn khuấy động sự yên tĩnh của
ông, Hai Cần tắt máy thổi, lặng lẽ tránh ra xa,
trả lại không gian im ắng cần thiết cho ông, th́
bất ngờ được ông gọi lại và từ
tay ông đưa cho Hai Cần cây viết và nói: "Give this
to your boy" (Cái nầy cho thằng nhóc của anh)
Nhận một món quà ngoài sức tưởng
tượng và cảm động trước nghĩa cử
nhân ái cao cả đó, Hai Cần cúi đầu cảm tạ
ông và ôm kỷ vật về nhà "khoe" với vợ
con và người thân. Chính nhờ cây viết khích lệ
đó, như một động lực thúc đẩy thằng
con Hai Cần thành đạt sau nầy.
Trong đời Hai Cần, không có món quà nào
làm anh xúc đông bằng vinh dự nầy.
Phi Hành Gia Appolo 11 Neil Armstrong nay đă không
c̣n nữa, ông mất ngày 25/8/2012 ở độ tuổi
82. Xin tỏ ḷng thương kính ông nơi đây của một
"thằng cắt cỏ" thường viếng và làm
đẹp khu vườn nhà ông hàng tuần năm nào.
Do nghề nghiệp đưa đẩy
"Hai Cần Cắt Cỏ" được vinh dự
gặp Phi Hành Gia Neil Armstrong trong khu "Thượng Uyển"
đó. Cũng chính nơi nầy, một người bạn
của Hai Cần c̣n có lần được "triệu
vời vào dinh" cựu Tông Tông để làm nghề
"tẩm quất" cho "vua con G.W.B". Chuyện
này kể ra chắc cũng hấp dẫn, nhưng tiếc
thay nó bị liệt kê vào loại "mật" không
được phổ biến tổng quát (ABCDEF), sống
để bụng, chết mang theo v́ là chuyện húy kỵ
của "vua"
Do đó mỗi lần gặp nhau, mầy
chuyện nầy, tau chuyện kia, kể lại những kỷ
niệm hiếm quí một thời cho nhau nghe. Tiếng
cười vang cả góc quán cà phê "Ngọ" (nơi bọn
già hàng tuần, thứ bảy, chủ nhật, thường
tụ tập hàn huyên chuyện tṛ) mà tưởng chừng
hai mươi năm trước, khi mới qua Mỹ, không
ngờ có được giây phút ấm ḷng nầy. Âu đó
cũng là những mẩu vui vui cuối đời của
những mảnh hồn tị nạn vụn vỡ trên
đất Mỹ.
Nay Hai Cần đă về chiều. Hai Cần
muốn "buông xả" những hệ lụy sinh tử
đă qua, để nghỉ ngơi và cũng từ đó
muốn t́m lại ḿnh, t́m lại tên gọi chính trực của
ḿnh là: Ngô Cần (tên mẹ cho đầu đời) chứ
không phải Can Ngo rồi Caa n Ngo o (Cán Ngố) nghịch nhĩ
lôi thôi, miền xa thật xa, nghe gọi thế chắc mẹ
buồn !
V́ vậy, thay v́ Hai Cần sang Job cỏ (kể
cả khách hàng) của ḿnh để thu về một số
tiền đáng kể. Nhưng Hai Cần không làm vậy, mà
gọi mấy thợ Mễ (hai trưởng toán) lại
giao cho họ tiếp tục điều hành như khi c̣n
Hai Cần trong cuộc. Họ thật sự xứng
đáng được thọ hưởng quyền lợi
nầy, v́ nhờ có họ làm việc cật lực với
Hai Cần trong quá khứ nên Hai Cần mới có cơ nghiệp,
có cơm ăn áo mặc, có tiền lo cho con ăn học
thành đạt như ngày nay. Trả ơn lại họ là
trả ơn đời, là việc làm phải đạo.
Cho họ một hạnh phúc, một "gia tài" mà tự
dưng họ không ngờ có được trong đời
quả là niềm sung sướng vô biên với họ.
Làm được diều nầy, Hai Cần
thấy thanh thản ḷng ḿnh, và nghĩ tới công ơn thâm
sâu của ông già người Thiểu số Kurt Dak đă cứu
sống Hai Cần trên đường 7 chạy loạn
năm xưa. Nếu không có ông ngày đó, đâu c̣n Hai Cần
ngày nay.
Do đó, đă có lần Hai Cần về
t́m lại ông nơi núi rừng năm xưa, nhưng tiếc
thay, người thiểu số họ có đời sống
du canh, du cư nên đă mấy chục năm qua mọi vật,
núi đồi đă đổi thay, không thể nào t́m lại.
Hai Cần đành ngậm ngùi nhớ ông qua thác đổ từ
đỉnh núi cao Chu- Pleye để h́nh dung bóng ông trong
đó. Chắc rằng ông sẽ về với tổ tiên của
ḿnh nơi thác ngàn réo gọi đời đời ở
đó. Xin gởi lời thương tiếc ông theo núi rừng,
nẻo về của ông.
Hai Cần đă thực sự buông xả
để t́m đến Giảng đường nơi mà
một vị "đại thí chủ" thiết lập
nên ở đường E. Ave Murphy để thí Pháp cho bá
tánh t́m về an trú. Vị thí chủ đó thường cung
thỉnh những vị cao tăng nổi tiếng khắp
nơi về giảng Pháp và tu Thiền. Mọi chi phí
đưa đón, ăn uống chung cho đại chúng cũng
như thỉnh mời tăng đoàn đều được
họ đài thọ. Không có sự đóng góp nào được
yêu cầu, quả là việc làm cao cả hiếm thấy
đáng trân trọng trên đất Mỹ. Phải chăng
họ đă ngộ được hạnh "bố
thí"của nhà Phật.
Cơ duyên đến, cửa Thiền
đă rộng mở, hăy bước vào thọ hưởng
công đức mà vị thí chủ đă dành cho mọi
người có tâm cầu đạo. Ngẫm chuyện
đời cũng lắm điều hạnh ngộ bất
chợt. Hai Cần buông Job của ḿnh cho ngựi ơn vô
điều kiện, th́ ngược lại nhận
được phước báu khác từ Giảng
Đường để an phận ḿnh, thanh thản tuổi
già, không chút bận tâm suy nghĩ cơm áo sự sống hằng
ngày nữa. Quả là ṿng quay đền bù do nhân duyên
đưa đẩy đến. (Theo triết lư: "Nếu
hai tay ḿnh đều nắm chặt lại hết th́, không
c̣n tay để nắm bắt điều khác").
Hai Cần tâm niệm, cốt sống xứng
đáng với châm ngôn: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Ước
vọng từ đầu của ông bà tổ tiên, và sau cùng
chỉ mong khi "lá ĺa cành", thân nằm xuống, không
gây khổ lụy cho ḿnh và cho gia đ́nh, được
"ra đi" nhẹ nhàng như câu thơ: "Ngoài thềm
rơi chiếc lá đa. Tiếng rơi rất khẽ
như là rơi nghiêng" (TĐK).
NGÔ VĂN THU
(Xíu Muội Rạch Giá sưu tầm và chuyển)