SƯƠNG XUÂN và HOA ĐÀO
(Vũ Thư Hiên)
* Gửi riêng các bạn chưa từng đọc nó (một
tuỳ bút xuân viết đă lâu) nhân ngày đầu Năm Mới
2016.
Sương
xuân và hoa đào
Tôi bao giờ cũng h́nh dung Tết gắn
liền với đất Bắc, nơi đi trước
mùa xuân phải có một mùa đông. Mùa đông ở nơi
này mỗi năm mỗi khác, nó có thể lạnh nhiều
hay lạnh ít, độ ẩm có thể cao hay thấp,
nhưng nhất thiết không thể không có gió bấc và
mưa phùn. Không khí se lạnh làm cho con người phải
co ro một chút, rùng ḿnh một chút, chính là sự chuẩn bị
không thể thiếu để cho ta bước vào cái mốc
thời gian mới đối với mỗi người mỗi
nhà. Thành thử ở Sài G̣n trùng vào những dịp xuân sang
tôi vẫn không thấy ḷng ḿnh rung động cảm giác về
cái Tết ruột rà, cái Tết đích thực. Xin các bạn
Sài G̣n tha lỗi cho tôi nếu trong những lời của
tôi có ǵ làm các bạn phật ư, nhưng măi tới nay, sau nhiều
Tết Sài G̣n, tôi vẫn chưa quen được với
một ngày đầu năm phải phơi đầu
dưới cái nắng chói chang và trầm ḿnh trong cái nóng hầm
hập, làm cho con người phải t́m đến với
trái dưa hấu mọng nước trước khi ngồi
vào mâm cỗ Tết có đủ thịt mỡ và dưa
hành, bánh chưng và gị thủ. Ở mỗi nhà vẫn nghi
ngút trầm hương thật đấy, ngoài đường
xác pháo toàn hồng vẫn tràn ngập lối đi thật
đấy, nhưng cái Tết dường như vẫn
c̣n lạc bước nẻo nào, nó chưa hẳn là Tết,
chưa đủ là Tết. Đành phải viện hai câu
thơ mà nhiều người vốn không yêu thơ cũng
thuộc, để giải thích nỗi nhớ về đất
Bắc, để biện hộ cho cái cảm xúc không phải
đạo của ḿnh trước đất Sài G̣n cũng
đă trở thành không kém thân thương:
Tự thuở mang gươm đi mở
cơi,
Ngàn năm thương nhớ đất
Thăng Long.
(Huỳnh
Văn Nghệ)
Thực ra, chuyện chẳng có ǵ lạ.
Người Việt phương Nam nào mà chẳng có một
cái quê c̣n nhớ hay đă quên, có biết hay không biết, nằm
ở phía ngoài kia.
Người xông nhà chúng tôi rất sớm,
khi c̣n tối đất, sáng mồng Một năm Đinh
Tỵ (1977), là nhà văn Nguyễn Tuân.
Người xông nhà, theo sự mê tín từ
xưa, là một nhân vật đặc biệt quan trọng
đối với vận mệnh gia chủ. Tùy theo người
xông nhà là ai, năm đó ngôi nhà sẽ có nhiều may mắn
hoặc xui xẻo. Những người cẩn thận
thường phải tính chuyện mời ai đến xông
nhà ḿnh từ lâu trước khi Tết đến. Người
xông nhà nhất thiết phải là người đang làm
ăn phát đạt, con cháu đầy đàn mà ḥa thuận,
hoặc một bậc lăo niên tài cao đức trọng -
chuyện này c̣n tùy thuộc ở kỳ vọng của gia
chủ mong muốn điều ǵ.
Bác Nguyễn, chọn nhà tôi để đến
xông đất đầu năm v́ biết chắc chúng tôi
không kiêng kỵ, nếu năm đó có chuyện ǵ không hay xảy
đến cho chúng tôi th́ ông cũng không bị trách.
Kể ra được (hay bị) một
nhà văn đến xông nhà th́, theo lệ thường, chẳng
hay ho ǵ. Xét về truyền thống hiếu học và trọng
kẻ sĩ của đất Bắc, nhà văn hẳn là
bậc đáng trọng rồi. Nhưng xét về tài lộc
th́ bất kỳ nhà văn nào cũng nằm ở hạng
bét trong thứ bậc giàu nghèo. Tất nhiên, không kể những
quan chức bổng nhiều lộc lắm, lại rảnh
việc, cũng rửng mỡ xông vào làng văn mà viết
sách in thơ.
Cha tôi rất quư Nguyễn Tuân. Ông coi Nguyễn
Tuân hơn là một người bạn thời thanh niên.
Trong cái nh́n của ông, Nguyễn Tuân là một trong những
đại diện cuối cùng cho lớp văn sĩ Bắc
hà mỗi ngày một hiếm, những người cho tới
lúc ấy c̣n biết coi tiền bạc như của phù
vân, không cúi đầu vâng dạ trước quyền lực.
Riêng đặc điểm sau Nguyễn Tuân phủ nhận.
Ông luôn phô rằng ḿnh biết sợ, hơn thế, chẳng
những ông sợ vừa mà c̣n sợ lắm lắm. Cái sự
phô ấy làm cho người ta lầm tưởng rằng
ông không sợ.
Ông đến xông nhà chúng tôi trong chiếc
áo choàng màu cứt ngựa. Bỏ nó ra, bên trong vẫn là bộ
áo cánh đen thường nhật. Trời rét ngọt, ông mặc
thêm áo len và quàng khăn, đội mũ bê-rê. Bộ áo cánh
đen là cách diện của ông, của Nguyễn Tuân. Ông bao
giờ cũng thích ḿnh phải khác người, cho dù chỉ
một chút. Tôi mở cửa đón ông, hơi ngỡ ngàng.
Tôi không chờ đợi một người ngoài gia tộc
đến xông nhà. Những năm ấy người ngoài
ít dám tới nhà chúng tôi lắm. Lại càng không chờ đợi
Nguyễn Tuân với sự sợ hăi được khoe
khoang của ông. Nhưng không ai đi hỏi người
đến xông nhà rằng tại sao ông đến. Với
bất cứ người xông nhà nào ta chỉ có thể vồn
vă chào đón và đem bánh pháo đầu tiên của ngày mồng
Một ra đốt. Nguyễn Tuân đoán ra câu hỏi câm lặng
của tôi. Ông ư nhị nói:
- Nói thực, ḿnh đến đây sớm
v́ chẳng biết đi đâu. Mà lại rất thèm đi
dạo một lúc trước khi b́nh minh ló rạng trong cái
ngày đầu năm này. Lang thang măi rồi ḿnh thấy ḿnh
đến đây. Không sao chứ ?
Cha tôi nghe léo xéo bước ra, tươi
cười ôm lấy bạn d́u vào nhà. Ông sai tôi rót rượu,
châm hỏa ḷ than để nướng mấy con mực.
Cha tôi biết Nguyễn Tuân không ưa đồ ngọt,
khay mứt trên bàn chắc chắn sẽ không được
ông đụng đến. Ông ngồi xuống chiếu, xếp
bằng tṛn, giơ đôi tay cóng sưởi trên hỏa ḷ.
Lửa than làm vầng trán hói của ông bóng lên trong căn
pḥng nhỏ. Cha tôi thường tiếp bạn thân trong
căn pḥng riêng của ông chứ không phải ngoài pḥng
khách. Hai người bạn già thân t́nh nh́n vào mắt nhau, chạm
ly trong im lặng. Cả Nguyễn Tuân, cả cha tôi, đều
không thích những lời ồn ào.
- Ngon tuyệt - NguyễnTuân nhắp vài nhắp
rượu trong vắt với vẻ thích thú rồi ngửa
cổ cạn ly.
- Làng Vân chính hiệu đấy!
Cha tôi nói, nét hài ḷng hiện lên mặt. Ông
thích được chiều bạn và khi bạn vui, ông c̣n
sướng hơn chính ông được vui.
- Tuyệt!
- Ḿnh phải đặt loại đặc
biệt cho cái Tết đoàn viên này.
Đúng vậy, đây là cái Tết đầu
tiên gia đ́nh tôi đủ mặt. Không thiếu ai. Những
Tết trước gia đ́nh tôi tan tác. Tôi ở trong tù. Cha
tôi bị lưu đầy ở Nam Định.
- Hơn hẳn anh Trương Xá. Vào đến
cổ họng là biết ngay! - Nguyễn Tuân xác nhận.
Phận con cháu, tôi được phép ngồi
bên cạnh các cụ làm chân điếu đóm. Tôi thích nghe
bác Nguyễn nói chuyện. Trong câu chuyện của ông bao giờ
cũng có một cái ǵ mới, một cái ǵ ngồ ngộ,
độc đáo mà không phải ai cũng có thể có. Về
đời sống cũng như trong văn chương,
ông là người uyên bác.
Tính về họ hàng theo đàng mẹ, tôi
phải gọi ông bằng bác. Nhưng ông rỉ tai tôi, một
lần ở chỗ đông người: "Họ xa rồi,
cùng cánh văn chương với nhau, gọi thế nó mất
đi cái sự b́nh đẳng, gia trưởng lắm".
Tuy miệng vâng dạ, tôi vẫn kính cẩn gọi bác
xưng cháu với ông. Mẹ tôi là người nghiêm khắc
trong chuyện xưng hô lắm.
Chuyện văn một lát, lại chuyện
làng văn làng họa, ai mới viết cái ǵ hay, bức hoạ
cuối cùng của ai độc đáo, là đề tài yêu
thích của ông, Nguyễn Tuân hỉ hả ra về. Ông nói
ông c̣n phải đến chơi với Văn Cao ("bà
Băng bà ấy kiêng. Ḿnh phải đến muộn muộn
một tư!"), đến Nguyễn Sáng ("Tết nhất
mà nó có một ḿnh, buồn chết đi được!
")
Ra khỏi cổng, Nguyễn Tuân dừng lại
hồi lâu trên hè, nh́n phố Hai Bà Trưng thưa thớt
người đi lại vào sáng sớm tinh sương, ông
nghiêng đầu nói khẽ với tôi:
- Anh có thấy Hà Nội buổi sáng mồng
Một này thiếu cái ǵ không?
Tôi không cần động năo để t́m
câu trả lời. Câu hỏi được đặt ra
chỉ là cái cớ cho câu trả lời đă có sẵn, chắc
chắn là sẽ rất Nguyễn Tuân. Tôi im lặng, chờ
câu ông sẽ nói.
- Thiếu sương! - Nguyễn Tuân, mắt
vẫn nh́n chung quanh, thở dài.- Anh không nhận ra cái sự
thiếu ấy, tôi biết, nhưng tôi không trách. Anh c̣n quá
trẻ. Ngày trước, sáng mồng Một bao giờ cũng
có sương nhè nhẹ, không nhiều, một chút gọi
là có, nhưng đích thực là sương. Nó bay là là, thoang
thoảng, như có mà như không. Rét ngọt. Chỉ có trên
các lá cây mới có sương hiển hiện, lâu lâu đọng
thành giọt, rơi xuống mặt ḿnh, có khi lọt cả
vào cổ áo ḿnh, rất là Tết. Đă mấy năm nay,
vào ngày Tết ḿnh cứ thấy thiếu thiếu cái ǵ
đó mà không biết là cái ǵ. Bây giờ mới hiểu ra:
đúng là thiếu nó, thiếu sương.
Tôi bàng hoàng trước nhận xét của
ông. Tôi nhớ đến những năm rất xa, khi tôi
c̣n nhỏ. Đúng là Hà Nội những ngày đầu
năm ấy sương la đà trên mặt đường,
lẩn khuất trong những băi cỏ, bụi cây.
- Thưa bác, có lẽ tại Hà Nội
đông dân thêm, nhiều nhà máy nhiều xe cộ, thành thử
cái tiểu khí hậu địa phương thay đổi,
nhiệt độ do đó mà cao hơn trước!
- Đốt anh đi! Các anh bây giờ,
đụng đến cái ǵ cũng vội vă chỉ ra nguyên
nhân rồi dài ḍng giải thích, cứ như chung quanh ḿnh
toàn một lũ thất học vậy. Các anh làm văn kia
mà - không nh́n tôi, ông nhăn mặt cằn nhằn - Tôi là tôi
đang nói cái có, tôi nói cái hiện hữu, nói cái cảm xúc
mà cái hiện hữu ấy gây ra. C̣n cái chuyện đi t́m cội
nguồn của hiện tượng là việc của
người khác. Cái bệnh dịch tuyên giáo thật
đáng sợ.
- Thế là mất đứt cái anh
sương xuân bảng lảng. Tiếc quá đi mất! -
Nguyễn Tuân lại thở dài. Ông buồn thật sự -
Thiếu nó,Tết Việt Nam nghèo đi, mà không chỉ nghèo
đi một chút đâu nhá, anh hiểu không? Đành vậy,
sang năm phải t́m cách đón giao thừa ở ngoại
thành, may chăng c̣n có thể gặp lại nó.
Rồi đột ngột ông quay sang chuyện
khác:
- Này, năm nay giáp Tết mưa thuận
gió ḥa, hoa đẹp lắm. Sao mấy hôm rồi không thấy
anh đi chợ hoa ?
Đă thành cái lệ, năm nào cha tôi và Nguyễn
Tuân cũng rủ nhau đi thưởng hoa ở Cống
Chéo Hàng Lược. Có những buổi hai ông la đà từ
trưa tới tối mịt mới về đến nhà.
- Thưa bác, mấy hôm rồi cháu lại mắc
bận.
Tôi nói dối. Thực ra tôi không đi v́ tôi
không thích chợ hoa. Cái mẩu phố hẹp có tên là Cống
Chéo Hàng Lược ngày thường đầy rác rưởi
trong những ngày giáp Tết bỗng trở nên nhộn nhịp
khác thường. Trên là trời, dưới là hoa. Và người
người chen chúc nhau đi xem hoa, mua hoa. Những cây quất
trĩu quả vàng chen lẫn với các cành đào cầm
trên tay, các sọt đan đựng đủ mọi loại
cúc, loại hồng, lay-ơn, thược dược .. Ở
đây ồn ào quá, nhiều trai thanh gái lịch quá, nhiều
quần áo mới quá, nhiều gương mặt hănh tiến
quá. Tôi c̣n sợ nh́n cái cảnh chợ chiều ba
mươi Tết, khi những người bán hoa co ro trong
manh áo mỏng, cành đào trong tay, mặt ngơ ngác, lo âu chờ
khách. Trong cái bầu không khí vui vẻ quá nhân tạo ấy,
bông hoa nào, cành hoa nào, chậu hoa nào cũng có vẻ tội
nghiệp bởi cái thân phận hàng hóa của chúng.
- Đào năm nay được mùa. Chợ
nhan nhản những đào là đào, giá lại hạ, nhà
nghèo nhất năm nay cũng có đào Tết. Thế mà
đố có t́m ở Cống Chéo Hàng Lược được
một cành nào như cành đào của bố anh. Tuyệt!
Không chê vào đâu được. Năm nào cành đào của
ông ấy cũng làm tôi mê man, cũng làm tôi sửng sốt:
"Thằng cha giỏi thật, sao mà nó khéo chọn đào
đến thế!" Thôi, tôi về. C̣n phải đến
mấy nhà nữa, mà ḿnh th́ thích cuốc bộ. Hôm nay tôi
đến là để chúc mừng gia đ́nh anh đoàn tụ.
Mai có khi tôi c̣n đến đây nữa. Để ngắm
cành đào của bố anh.
Ngày hôm sau ông lại đến thật. Và
đúng là chỉ để ngắm có một cành đào mà
thôi.
Cha tôi không phải nghệ sĩ. Ông, nói của
đáng tội, từng là nhà báo. Mặc dầu cũng
động tới chữ nghĩa, nhưng nhà báo vẫn có
cái ǵ nó khác với nhà văn (tất nhiên không kể những
người có hai nghề nhập một). Nhà báo không có tính
lập dị thường gặp ở các nhà văn và các
văn nghệ sĩ, hay là tính cách kỳ quặc nào đó ở
họ mà người đời quy cho là lập dị. Có
điều, mặc dầu có Tây học, ông thích cuộc sống
thanh đạm của người xưa và rất yêu hoa.
Trong nhà tôi, kể cả những lúc khó khăn nhất, bao
giờ cũng có hoa. Trước khi ông đi tù ở nhà tôi
là một vườn phong lan đủ loại, nổi tiếng
trong những vườn phong lan ở Hà Nội.
Tết nào ông cũng cầu kỳ chơi
hai thứ hoa: thuỷ tiên và và đào.
Thủy tiên là thứ hoa không b́nh dân. Nó không
thèm nở nếu chẳng may rơi vào tay người không
biết thưởng thức. Để cho thủy tiên nở,
phải biết nghệ thuật trổ thủy tiên. Con dao
dùng để trổ thủy tiên không phải là con dao bài bất
kỳ, mà là một con dao dùng riêng cho nó. Cha tôi mua củ thủy
tiên về, giá rất đắt, h́nh như là phải nhập
khẩu chứ nước ta thời ấy chưa có
cơ sở gây trồng. Thuỷ tiên có bề ngoài giống
một củ hành tây lớn, rất tầm thường,
chẳng hứa hẹn một hương sắc nào. Chuẩn
bị cho việc gọt thủy tiên, cha tôi h́ hục mài dao
cho tới khi nó bén đến mức đặt sợi tóc
lên lưỡi dao mà thổi phù một cái th́ sợi tóc lập
tức bị đứt đôi, và đầu nhọn của
nó th́ chỉ vô ư chạm ngón tay vào là máu ứa ra liền. Rồi
ông c̣n phải ngắm nghía hồi lâu cái củ hành nọ,
cho tới khi quyết định đặt nhát cắt
đầu tiên lên ḿnh nó. Những nhát cắt, nhát trổ
chính xác được ông cân nhắc từng tư, cho tới
khi hài ḷng đặt nó vào cái bát thủy tinh, cũng lại
thứ dành riêng cho nó.
Mẹ tôi chăm chú theo dơi bàn tay khéo léo của
cha tôi xoay quanh củ thủy tiên. Bà cũng là người
khéo tay, nhưng khéo tay ở những việc khác, chứ trổ
thủy tiên th́ bà chịu, không biết cách gọt như cha
tôi. Những Tết cha tôi vắng nhà, trên bàn thờ ông bà
ông vải chỉ có hoa huệ, thủy tiên th́ hoàn toàn vắng
bóng. Hoa thủy tiên bắt đầu trổ những cánh
xanh mập mạp cũng chẳng khác lá hành là mấy,
nhưng chúng nhỏ nhắn, ngắn và không vươn quá
thành bát đựng. Người gọt khéo có thể chỉ
định đúng ngày hoa nở, khéo hơn nữa có thể
đúng đến cả giờ.
Thuỷ tiên do cha tôi gọt bao giờ cũng
nở hết số hoa nó chứa trong ḿnh vào đúng giao thừa,
chính xác vào cái giờ khắc thiêng liêng nhất của sự
giao ḥa giữa người thuộc cơi âm và người thuộc
cơi dương, giữa tổ tiên và con cháu. Cha tôi đứng
lặng trước ban thờ ông bà, đầu hơi cúi.
Mẹ tôi đứng sau ông th́ thầm khấn vái.
Hương trầm ngát trong nhà. Rồi pháo của một
nhà nào đó nổ vang, kéo theo sau nó cả một đợt
sóng triều tiếng pháo râm ran.
Tôi không bao giờ thấy được
hương thủy tiên vào lúc thủy tiên nở hết hoa
của nó trong hương trầm và khói pháo. Sáng sớm mồng
Một, rất sớm, khi trời đất đă lặng
đi mọi tiếng động của sự đón Xuân,
lúc ấy mới thấy được hương thủy
tiên thoang thoảng. Đó là một hương thầm ẩn
náu, thoang thoảng mà kiêu sa. Nó không để lại trong tôi
một ấn tượng rơ rệt nào. Tôi cũng không cảm
nhận được cái đẹp của hoa thủy
tiên. Mà cũng có thể đó là do ảnh hưởng câu
chuyện chàng Narkisoss trong thần thoại Hy Lạp mải
mê ngắm sắc đẹp của chính ḿnh trong nước
suối, mải mê đến nỗi ngă xuống mà chết
đuối, trở thành loài hoa nọ. Tôi không thích những
người say mê chính ḿnh.
Sau khi cha tôi qua đời, chẳng bao giờ
trong nhà tôi c̣n có hoa thủy tiên nữa. Nhưng hoa đào th́
không bao giờ vắng bóng trong những ngày Tết gia
đ́nh, với cách thưởng thức truyền thống
mà những thế hệ đi trước để lại.
Trước Tết một tháng, cha tôi,
thường có tôi đi theo, đạp xe lên vùng Quảng
Bá, Nhật Tân, Nghi Tàm, nơi có những nhà trồng hoa cha
truyền con nối. Cùng với một chủ vườn
nào đó đă trở thành người quen, cha tôi đi
thăm vườn và xem xét kỹ từng gốc đào
để rồi cuối cùng chọn lấy một cành thấp,
ưng ư nhất. Tiền đặt mua cành đào được
trao ngay cho chủ vườn. Giá thường rất rẻ,
lúc ấy chưa có ai mua đào. Ông chủ vườn rút
con dao nhíp trong túi ra, đánh dấu cành đào dành cho cha tôi.
Chắc chắn nó sẽ không bị bán vào tay ai khác. Bố
con tôi hài ḷng ra về. Tôi biết, trong óc cha tôi đă hiện
lên cành đào trong tương lai sẽ được
đặt ở đâu, trong cái b́nh nào ở nhà ḿnh trong ngày
Tết.
Khoảng hai bảy, hai tám tháng Chạp, cha
tôi mới lên vườn nhận cành đào về. Ông chủ
vườn trao cành đào cho cha tôi với vẻ tiếc rẻ,
không ngớt lời khen cha tôi có con mắt tinh đời.
Nhưng đó là cách đánh giá của hai người biết
chơi hoa với nhau. Người thường sẽ không
mua cành đào này. Nó sù ś ở phần gốc, có mấy cành
đua dài và gân guốc, trên đó chỉ thấp thoáng một
số nụ.
Sau đó là phần sửa soạn cho cái
đẹp của cành đào. Cha tôi c̣n ngắm nó chán chê rồi
mới lấy dao cắt bỏ một số cành con,
đem thui phần gốc, rồi trịnh trọng đặt
cành đào vào trong lọ độc b́nh. Đó là một cái
lọ lớn, thường là lọ sành, nhưng phải
thấp, miệng rộng, rất b́nh dị, đến nỗi
khi cành đào đă ngự trong đó th́ không c̣n nh́n thấy
cái lọ đâu nữa. Cành đào được đặt
trong góc nhà. Những cành đua của nó hướng về
phía cửa, khách vào có thể nh́n thấy những cánh tay của
nó vươn ra chào đón.
Cũng như thủy tiên, cành đào sẽ
nở rộ vào đêm trừ tịch.
- Chơi hoa là cách con người t́m niềm
vui, t́m tâm trạng thư thái trong mối giao ḥa với thiên
nhiên
- cha tôi tâm sự trước cành đào -
Người ta chỉ có thể đón thiên nhiên vào nhà ḿnh,
chứ không thể mua sắm thiên nhiên, hoặc tệ
hơn, áp giải nó về nhà ḿnh. V́ vậy mà cái b́nh phải
khiêm tốn để tôn vẻ đẹp của cành
đào, của mùa xuân. Cành đào đẹp trước hết
là ở cái dáng, cái thế của nó: phần gốc sù ś cho ta cảm
giác về sự vững bền của nền tảng, những
cành đua không nên nhiều quá để tạo ra cảm
xúc thanh thoáng, khoáng đạt.
Cha tôi không thích đào rực rỡ quá, khoe
khoang quá, hợm hĩnh quá.
- Đào như thế này đẹp hơn
nhiều, cánh của nó chỉ phơn phớt một màu hồng
nhạt, vừa có duyên, vừa thầm kín. - cha tôi dạy -
Người Nhật thích màu hồng của hoa sakura - anh
đào, có dễ cũng v́ lẽ đó. Tín đồ của
Thần đạo không chịu nổi những
hương sắc quá thế tục. Thêm nữa: trên cành
đào Tết không nên có quá nhiều hoa. Lá xanh bên cạnh hoa
làm tăng vẻ đẹp của hoa lên. Tất nhiên, mỗi
người một ư, nhưng ông nội con và bố đều
không ưa những cành đào đầy ắp hoa, cành nào
cành ấy đều đặn, trông xa như một cái
nơm. Đă thế có người lại c̣n cắm cái
nơm đào ấy vào cái lọ độc b́nh cổ cao, bằng
sứ, với đủ mọi h́nh vẽ cầu kỳ sặc
sỡ, rồi đặt nó ngất nghểu trên bàn thờ
ông vải nữa chứ. Không, chỗ của đào không phải
ở đó. Bố thích đặt nó ở đây dưới
đất, ngang tầm với ḿnh.
Tôi kể cho Nguyễn Tuân nghe cách cha tôi nh́n
vẻ đẹp của cành đào. Ông tủm tỉm
cười:
- Về đại thể, bố anh
đúng. Nhưng ông ấy cũng có mắc một chút bệnh
giải thích. Cái đẹp, theo tôi, là cái không giải thích
được. Chỉ có thể cảm nhận nó mà thôi. Bố
anh cũng chẳng giải thích nổi tại sao ông đă
cắt đi một cành con này mà không phải một cành con
khác, tại sao ông giữ cành đua này mà lại bỏ cành
đua kia, cái cành được để lại ấy gợi
nên trong ḷng ông cảm xúc ǵ. C̣n về phần màu xanh của
lá trên cành đào th́ ông ấy đúng hoàn toàn. Hay ǵ một
cành đào chi chít hoa? Nó làm ta phát ngán. Mùa xuân th́ phải có màu
xanh của lá, của sự đâm chồi nảy lộc,
mới là xuân!
Bây giờ, cả bác Nguyễn Tuân, cả
cha tôi, đều đă khuất núi.
Chỉ c̣n lại cái đẹp của hoa
xuân mà hai ông tâm đắc ở trong tôi.
Và nỗi bùi ngùi mỗi lần Xuân đến.
VŨ THƯ HIÊN
- FB Vũ
Thư Hiên -
(Trịnh
Cuối Huôn sưu tầm và chuyển)