Ngàn năm thắp lửa bên lề
(NGUYỄN NGỌC TƯ)
Ngay từ
đầu tiệm đã không có bảng hiệu gì, sáu
mươi bốn năm sau cũng không một chữ,
nhưng người ta vẫn tìm được bánh mì cô Vẹn
ở góc ngã ba Cây Bàng, vì khách xúm đông. Lại có một
cách định vị khác, "thấy
tiệm nào có bà già tóc trắng như đội bông bắc
cái ghế ngồi đằng trước, cứ ghé là ngay
chóc". Nghe có vẻ đó là một tượng
đá dính cứng vào vỉa hè.
Nhưng
bà già đâu ngồi nín thinh như đá. Tay lúc nào cũng
nhúc nhắc cây quạt, ở cái tuổi tám mươi ba,
ánh mắt vẫn nhảy múa khi cười. Lá bàng chưa
rơi tới đất bà đã chực sẵn để
lượm rồi, khách vừa trờ tới, bà kêu luôn, "hai ổ xíu mại không bì nhiều ớt", rồi day qua hỏi anh chàng vừa tắt
máy xe, "má bây còn
đắp thuốc đầu gối không ?". Hai bên cũng không phải họ hàng gì, chỉ
là mua bánh mì tiệm bà miết rồi quen, thuộc cả nết
ăn, gia cảnh.
Những
người đứng coi tiệm thay cho bà già cảm thấy
việc giao lưu với thực khách mới khó, nhất
là khi làm không kịp thở, hơi đâu mà đưa chuyện.
Những thứ thuộc về "kỹ thuật" như
ướp tỏi qua đêm cho thịt ngon, khìa nước
dừa cứng cạy cho màu đẹp, nướng bánh mì
sao cho đừng quá lửa, làm dưa chua giòn mà không cậy
phụ gia độc hại cũng đâu phức tạp
mấy. Nhưng bà già bảo, coi khách như người nhà
cũng là một thứ hương vị đặc biệt
mà không phải tiệm bánh mì nào cũng có. Nói vậy thì nghe
vậy, ai dám cãi với người gần sáu mươi
năm bán bánh mì kẹp thịt, tiếng ngon đồn xa
đến tận quận Mười Ba.
Mà mấy
chữ "coi khách như
người nhà", bao gồm
cả việc làm sao cho món ăn sạch sẽ, bổ khỏe,
thơm ngon. "Đâu
phải họ ít tiền thì phải ăn những thứ
mạt hạng", bà già
thường nói (và làm) vậy. Giữ tiệm mấy chục
năm không điều tiếng, thực khách phần
đông là học trò, dân lao động, buôn gánh bán bưng. Họ
là người dưng, vẫn được trao cho ổ
bánh thơm hệt như ổ dành cho con cháu trong nhà.
Vách nhà vẫn
còn treo hình cô Vẹn hồi năm hai mươi sáu tuổi,
tay nách một đứa con, một đứa khác đứng
bên chân, tay níu ống quần mẹ. Ba má con mặt hơi căng
thẳng, chụp cho có để gửi vô khám cho anh chồng
lông bông coi. Nhập băng rải truyền đơn, chọi
gạch quân cảnh cho vui, chồng xộ khám nửa
năm, nhìn hình vợ con có chút bồi hồi. Ngoài ổ
bánh mì gởi kèm theo tấm hình, còn có lá thơ, vợ biên rằng,
"Tôi mở tiệm bánh mì được chừng
chục bữa nay. Bán đồ ăn được cái là
lỡ ế thì nhai trừ cơm, không sợ đói. Mình ở
trong đó khỏi lo". Thật
ra, anh chồng cũng đâu có lo, bởi anh ham chơi ít
để ý chuyện trong nhà. Ngồi tù chỉ nghĩ coi
làm gì cho vui, khi hết hạn. Anh càng yên chí hơn khi ngốn
hết ổ bánh mì kẹp thịt vợ gởi vô, lạnh
nguội rồi mà vẫn ngon lành, lúc còn nóng chắc hớp
hồn người ta phải biết.
Lúc chồng
được thả, đến ông xe kéo chở anh về
cũng biết tiệm cô Vẹn, dứt khoát không lấy
tiền bởi "bà nhà anh
đã từng cho tôi ăn thiếu hai cái bánh mì, giờ coi
như huề". Anh chồng về hỏi vợ,
cô Vẹn hơi lơ mơ chẳng nhớ, chừng
như từng cho nợ rất nhiều người, họ
trả cũng được, không thì chẳng sao.
Không biết
có phải vì bà chủ rộng lòng, mà tiệm bánh mì cô Vẹn
đứng vững bao nhiêu mùa bàng thay lá, bao biến cố
ngoài đời lẫn trong nhà, con trai đi du học mọc
rễ bên Tây, con gái thất tình tự tử may sao không chết,
cả khi ông chồng lén vét tiền vàng đi vượt
biên cùng nhân tình, biệt tích. Tiệm bánh đi qua bao chính biến,
chứng kiến cuộc đổi cờ tốn
xương máu, bên thất trận quăng súng ống bỏ
đi, bên thắng hớn hở tràn vào phố. Chính thể
thay đổi không làm bánh mì cô Vẹn mất ngon.
Tháng Hai
năm rồi, có ông già đeo túi bao tử sệ hông tìm tới
tiệm bánh mì, hỏi cô Vẹn còn nhớ đây không, "hồi bảy lăm đây từ Phước
Long chạy về, cởi đồ lính mà không có gì thay,
đó ngoắc vô cho đây bộ đồ tây, còn dúi thêm ổ
bánh mì qua cơn đói". Cô Vẹn
tám mươi ba vén tóc vành tai nói, "ờ, tình cảnh tới nông nỗi vậy
mà còn khen tui đẹp, chồng không thương uổng
quá". Ông già cười rung hàng răng giả,
thấy cuộc đời không đến nỗi tệ với
mình. Vượt biển tha hương mấy chục
năm, về như kẻ lạ, chỉ có bà chủ tiệm
bánh mì vẫn quen thuộc như thường, như mới
hôm qua, vẫn lấy tiền ổ bánh kẹp thịt
đúng giá, tuyệt không nhận thêm đồng nào, dù
năn nỉ mấy, "coi
như trả tiền bộ đồ hồi ấy".
Ông chủ
tiệm sách cũ kế bên thấy vậy, nói vói qua, "Thôi nài ép chi, cô Vẹn chảnh nào giờ". Sẵn vui miệng kể luôn, đận
bảy lăm ông đội tai bèo về tiếp quản
Sài Gòn, ghé qua lộn hết mấy túi vét tiền kêu dồn
nửa ký thịt khìa vô ổ bánh mì, ăn cho đã cơn
thèm. Cười ngất, cô Vẹn chiều ý anh lính vàng da
vì sốt rét, trao cái bánh mì đầy vun nhưng chỉ lấy
đúng hai xu, như ổ thường năm bảy lát thịt.
Hỏi cô chủ buổi loạn lạc vầy không sợ
cướp bóc sao mà buôn bán tỉnh trân, cô cười, "bánh mì mà bị cướp cũng là để
no bụng người ta, chớ mất đi đâu".
Nhiều
người vẫn nhớ ăn tuổi lớn của
mình trùng với thời kỳ đất nước khó
khăn. Sáng lót lòng không khoai luộc ở nhà thì chỉ có
chút tiền còm mua ổ bánh mì chan nước sốt, xịt
thêm ít xì dầu. Món ăn đơn giản, nhưng bánh ở
tiệm cô Vẹn vẫn ngon hơn chỗ khác. Sau này mới
biết cô cho vào nước sốt ít thịt băm nhỏ,
nghĩa là thêm chút dinh dưỡng cho lũ học trò
nghèo.
Nhưng
chưa bao giờ cô Vẹn nói mình làm phước cho ai, con
cháu cũng được dặn hoài, "tiệm mình sống được là nhờ
ơn khách". Nên
nước sốt cà phải làm từ cà chua, chứ không
phải pha bột với phẩm màu. Bì tự làm ở nhà,
không phải lấy bì chợ không nguồn gốc. Anh cháu
ngoại cô Vẹn, có lần mua thịt chợ chiều cho
rẻ, bị rầy nhức xương.
Anh chàng
từng làm công chức ngành văn hóa bốn năm rưỡi,
một bữa kêu nghỉ, về quản lý tiệm bánh mì.
Hỏi lý do thì chỉ cười, "về nói tiếng mình". Đi làm nhà nước thì phải nói tiếng
chim chắc, người nhà thắc mắc. Chỉ bà ngoại
anh, tức cô Vẹn lẫy lừng, nói gọn mỗi câu "mai thức sớm coi ngoại nấu xíu mại".
Tiệm
cô Vẹn truyền cho đời thứ ba. Anh chàng bỏ
đời công chức chưa lâu, còn hăng, hay sôi nước
miếng bàn chuyện chính sự với cánh xe ôm chờ
khách quanh đó, nào là nước mình sắp vỡ nợ
đến nơi rồi, tới đây ông nào lên, ông nào xuống.
Bà già ngừng quạt hỏi "nhà còn gạo
không ?", rồi
không chắc thằng cháu nhận ra mình cà khịa, bà già nói
thêm, "chuyện xuống lên của mấy ổng
có làm hương vị bánh mì nhà mình ngon hơn ?".
Với
bà già, hay thím bán hủ tiếu gõ bên kia đường, con
nhỏ bán nước mía, mấy ông xe ôm, những người
luôn bị (hay được) gọi là dân đen, chuyện
cờ hoa vô cùng xa lạ, chẳng ăn nhập gì với
đời mình. Vị trí bên lề, chưa chắc là do bị
gạt ra, mà biết đâu do chính người ta lựa chọn.
Một thế đứng bình thản, không ngã theo gió nào,
không bị rủ rê lôi kéo. Kiếm tiền bằng công việc
lương thiện, chỉ cần vậy thôi, là đủ.
Như cô Vẹn từng nói khi con trai muốn đón bà qua
Tây ở cùng với nó, "Ở
đây còn nhiều người ưng bánh mì má làm, má ở lại".
NGUYỄN NGỌC TƯ
(T.T.K.D sưu tầm và chuyển)