KHỈ ƠI!
(Nguyễn Trần Diệu Hương)
Tác giả
một ḿnh vượt biển giữa thập niên 80 khi c̣n
tuổi học tṛ. Dự Viết Về Nước Mỹ
từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự
2001. Bốn năm sau, cô nhận thêm giải vinh danh tác phẩm
2005 với bài viết "Tháng Tư, C̣n Đó Ngậm
Ngùi," kể về t́nh gia đ́nh chung thuỷ của
người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Bài viết
mới, để chào đón năm Thân sắp tới, tác
giả có kèm theo lời ghi: Xin tặng những người
tuổi Bính Thân và Mậu Thân.
* * *
Rừng
thưa xanh ngát trên một ngọn đồi thoai thoải
màu nâu của phù sa, ở đây khỉ không sống hàng
đàn, thỉnh thoảng người ta thấy vài ba chú khỉ
thấp thoáng dưới bóng cây. Loại khỉ này cũng
leo thoăn thoắt, nhưng không leo cây mà leo đồi. Khỉ
ăn đủ thứ, mê nhất là trái cây nhưng chỉ
có dưa hấu được phát mỗi tuần, không có
chuối là thức ăn chính, chú khỉ nào cũng nhớ.
Khỉ
lớn quen với rừng hơn, chịu cực khổ
đắng cay cũng nhiều, hiểu đời hơn,
và trầm tĩnh, chịu đựng hơn, nên cưng chiều khỉ
nhỏ, có ǵ cũng để phần cho khỉ nhỏ.
T́m được mẩu trái cây nào cũng nhường khỉ
nhỏ ăn trước. Khi nhỏ xa cha mẹ sớm,
may mắn gặp được hai anh khỉ lớn chín
chắn, khôn ngoan, nên cũng đỡ vất vả giữa
rừng núi Pulau Bidong.
*
Cả
ba anh em người dưng khác họ cùng tuổi khỉ
(Huyên nhỏ hơn hai anh đúng một con giáp) nên đều
rất thích câu ca dao:
Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi
Riêng tôi sao cứ ngậm ngùi tủi (tuổi)
Thân
Nghe hoài
bị nhập tâm, nh́n cái dáng cao gầy, lủi thủi của
hai anh, và khuôn mắt buồn hiu v́ một thân một ḿnh ở
trại ty nạn, Huyên thương hai anh như anh ruột.
Có một lần "cám cảnh" một thân một ḿnh
của hai anh, đến trại tỵ nạn một ḿnh,
ban ngày đi làm thiện nguyện, tối về ăn
"cơm cao ủy (nghĩa là phần ăn của tổ
chức giúp người tỵ nạn của Liên Hiệp
Quốc phát hàng tuần), Huyên dùng trứng gà và dầu
đánh sauce mayonnaise, rồi vét đến tận .. đáy
thùng những đồng ringgits (đơn vị tiền tệ
của Mă Lai) quư giá của ḿnh, mua cho hai ông anh .. nuôi tuổi Thân hai ổ bánh ḿ nóng từ một
ḷ bánh ḿ trên đảo của người tỵ nạn.
Tội
nghiệp hai ông anh, đang trong độ tuổi hai
mươi đầy sức sống, có bánh ḿ nóng ăn với
sauce mới làm xong, mỗi ông "quất" (chữ dùng của anh Đăng) một ổ
bánh ḿ dài khoảng hai gang tay người lớn, có bán kính bằng
chiều ngang của ḷng bàn tay. Ăn xong mới chợt nhận
ra là ḿnh đă quá sức overeating, cả hai nằm lăn ra
sàn ván ép của "long house" mà thở. Huyên không được chứng
kiến cảnh này v́ hai anh khỉ lớn ở phía
Đông, Huyên ở phía Tây của trại. Khi nghe kể lại, Huyên cười nửa
đùa nửa thật:
- May quá,
nếu các anh bị bội thực, lỡ có mệnh hệ
nào th́ em mang tội giết người bằng bánh ḿ với
sauce.
Anh Trí
c̣n cười:
- Yên tâm
khỉ nhỏ, anh mệt quá đă định quơ tờ
giấy viết chúc thư để lại "tôi chết là do ham ăn, không biết
lượng sức ḿnh, lỗi tại tôi mọi đàng,
xin đừng bắt tội ai."
Anh
Đăng th́ tự tin hơn:
- Anh
chưa đặt chân đến Mỹ th́ không thể chết
được đâu.
Anh
Đăng và anh Trí là bạn học cùng lớp suốt 7
năm Trung học ở Chu Văn An. Xong tú tài, anh
Đăng vào Quốc gia hành chánh, anh Trí vào Phú Thọ.
Chưa xong năm thứ nhất, nước mất nhà tan
theo đủ mọi nghĩa, anh Đăng về miền
Tây (quê ngoại của anh) giúp mẹ nuôi một bầy em dại
trong khi ba anh (một cựu Sĩ quan QLVNCH) vẫn biền
biệt trong các trại tù cải tạo. Nửa thầy, nửa
thợ, lại thêm cái lư lịch đen hơn đêm ba
mươi dưới cái nh́n của chính quyền mới,
trong màu đỏ búa liềm, anh Đăng hành nghề
lơ xe, dùng kiến thức Quốc gia hành chánh năm thứ
nhất sắp xếp chỗ ngồi cho hành khách trên các
chuyến xe đ̣ tuyến đường Cần Thơ -
Saigon.
Không
như anh Đăng, phải tự đuổi học ḿnh
v́ phải điền khuyết vào chỗ trống của
người chủ gia đ́nh, thay cha nuôi em, anh Trí bị
trường Đại học Bách khoa (tên mới của
Phú Thọ) đuổi học v́ ba anh tử trận vào những
ngày cuối cuộc chiến. Những kiến thức vi
phân, tích phân, toán cao cấp của năm thứ nhất
ngành Công chánh ở trường Đại học Phú Thọ
không có chỗ dùng khi anh ra lề đường ngồi
bán sách. "Nhà toán học" ngồi ở lề đường đầy
bụi bặm, mê giải toán hơn là mê "kinh doanh" nên chỉ
sau một tháng, anh bỏ nghề buôn bán chữ nghĩa,
đi làm phụ hồ. Cứ tưởng tượng bộ
óc giỏi nhất của một lớp 12 ban toán Chu Văn
An, đang học năm thứ nhất của Phú Thọ,
phải bỏ trường, bỏ lớp, đi kiếm sống
bằng việc bưng gạch, trộn xi măng mới
thấy sai lầm giết cả một, hai thế hệ
của chính quyền mới.
Khi miền
Nam mới đổi chủ, tự dưng chất xám của
miền Nam chảy ra lênh láng trên mặt đường,
trong rừng sâu, trước khi chảy ra biển, và đi
khắp thế giới.
Anh Trí
đến Pulau Bidong b́nh yên trong lần vượt biên
đầu tiên. Hơn ba tháng sau, anh Đăng cũng đến
trại tỵ nạn nằm ngoài khơi của Mă Lai. Lúc
đó có gần 3000 người ty nạn trên đảo nên
họ không gặp nhau, và không biết là ḿnh cùng có mặt
trên đảo.
Đến
lúc anh Trí được mời lên phỏng vấn bởi
phái đoàn Mỹ. Tiếng loa vang vọng khắp đảo
để ở ngơ ngách nào, người tỵ nạn cũng
có thể nghe được:
- Mời
đồng bào Hoàng Phong Trí, tàu số MB xxx lên hội trường
để được phái đoàn Mỹ phỏng vấn.
Lúc
đó anh Đăng đang chân ướt chân ráo, mới có
mặt ở đảo khoảng một tuần, cũng
đi lên hội trường, không phải để
được phỏng vấn mà là để gặp bạn
ḿnh.
Đó là
lần đầu tiên họ gặp nhau kể từ khi
đậu tú tài vào mùa hè năm 1974. Không hẹn mà cả hai
cùng thốt lên:
- Sao ông
đen và ốm vậy?
Một thân
một ḿnh ở trại ty nạn rất buồn, gặp
được một người quen, nhất là một
người bạn cùng lớp thời trung học th́ không
có niềm vui nào lớn hơn. Thế là anh Đăng dọn
từ khu F về khu D ở cùng nhà với anh Trí.
Tháng 6
năm đó, Huyên đặt chân lên đảo Pulau Bidong.
Hoàn tất mọi thủ tục dành cho một thuyền
nhân mới nhập trại, Huyên mon men lên trường Trung
học duy nhất của trại tỵ nạn nằm giữa
khu nhà Huyên ở và Bưu điện của đảo, khi
nghe một chị ở cùng nhà, đang dạy ở đó,
cho biết trường rất cần người dạy
cho các em trên đảo. Trong văn pḥng của trường
(là căn nhà mái tôn, sàn gỗ, khá vững chắc, và tiện
nghi) Huyên gặp Sister Carol (người Úc) hiệu trưởng
của trường, và anh Trí (người phụ trách soạn
thảo sách Toán bậc Trung học để dạy cho các
em trên đảo)
Sau một
vài phút phỏng vấn, bà soeur người Úc nói tiếng
Anh giọng Úc, Huyên nói tiếng Anh giọng Việt Nam, vậy
mà cũng hiểu nhau, Sister giao cho Huyên dạy Anh văn cho
lớp 8, Huyên được Sister giới thiệu với
anh Trí, một thanh niên trẻ ốm nhom đang ngồi trên
một cái bàn đầy giấy tờ với các công thức
Toán, các h́nh vuông, tṛn, tam giác .. của
môn H́nh học, các công thức sin, cos của môn lượng
giác ..
- Đây
là Mr. Hoàng Phong Trí, được coi như Giám học của
trường.
Rồi
Sister Carol quay đi với những bận rộn của một
thiện nguyện viên điều hợp trường trung
học trong một trại ty nạn có hơn 300 em đang
theo học hai môn Toán và Anh văn.
Phe ta thuộc
loại "tôi yêu tiếng
nước tôi từ khi mới ra đời" nên nói tiếng Việt:
- Dạ
chào chú.
Anh Trí trợn
mắt, mỉm cười:
- Chào cô,
cô mà gọi tôi là chú, tôi sẽ xếp cho cô dạy một lớp
có học sinh dữ dằn nhất.
- Dạ
chào anh.
- ..
*
Lần
đầu tiên Huyên chạm mặt với anh Đăng là ở
hội trường, nơi các nhân viên của Cao ủy tỵ
nạn Liên hiệp quốc từ rất nhiều nước
trên thế giới đến làm việc.
Chị
Nga ở cùng nhà, rủ Huyên lên hội trường, ở một
góc đảo, làm việc với Cao ủy May thay cho chị
sắp đi định cư ở Canada. Cao ủy phó phỏng
vấn Huyên bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh.
Tiếng Việt của cô May là một thứ tiếng Việt .. ngang phè, dấu sắc, huyền, hỏi,
ngă khi ẩn khi hiện, danh từ, tĩnh từ, chủ từ
chạy lung tung không đúng vị trí:
- Ḿnh
đến đảo một ḿnh à? Đâu có phải làm ǵ
nhiều, lên đây làm việc giúp Cô May nhé. Rất cần
những người tỵ nạn biết tiếng Anh phụ
giúp các cao ủy, các phái đoàn, và đồng bào của
ḿnh nữa. Nhiều việc phải làm lắm.
Rồi
cô May dẫn Huyên vào một cái pḥng nhỏ, h́nh vuông, mỗi
cạnh khoảng 5 thước, trong đó có bảy ông
trung niên, thanh niên, và một chị đang cặm cụi viết
lách. Đó là pḥng giúp cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc
dịch các hồ sơ ghe vượt biên bị cướp
biển từ tiếng Việt qua tiếng Anh. Một trong
số những người làm ở đó là anh
Đăng.
Chỉ
một tuần sau khi làm việc ở đó, Huyên quen thân với
anh Đăng, người đứng đắn nhất
trong số những người đàng hoàng. Anh Đăng
viết chữ rất đẹp, giỏi Anh văn hơn
Huyên nhiều. Anh là một quyển tự điển sống
khi Huyên gặp những chữ khó.
Một
ngày như mọi ngày ở trại tỵ nạn, anh Trí dạy
Toán ở trường trung học, anh Đăng là người
thông dịch, và dịch tài liệu giúp các nhân viên của Cao
ủy Ty nạn Liên Hiệp quốc. Huyên làm việc với
anh Đăng ở hội trường buổi chiều
và buổi tối. Buổi sáng dạy Anh văn cho lớp 7
và lớp 8 ở trường trung học Pulau Bidong. Làm việc
không có lương, nhưng được các cao ủy mua
tặng quần áo mới, không c̣n phải mặc đồ
cũ từ kho phát quần áo có xuất xứ từ Good
Wills bên Mỹ. Áo quần cũ của người Tây
phương cao to, người Việt Nam mặc vào vừa
rộng, vừa dài, giống như con bù nh́n đuổi
chim ăn lúa trên đồng ruộng.
Tội
nghiệp hai ông anh .. khỉ
lớn, Huyên mượn kim chỉ của Cô May về cắt,
sửa lại cho hai anh mỗi ông một cái áo chemise mặc
vào trông tươm tất hơn. Không có thước để
đo, Huyên chỉ độ chừng bằng mắt. Kiến
thức môn Toán, và khả năng của một người
vừa học xong một lớp học may căn bản
giúp Huyên sửa được hai cái áo chemise thuộc loại
extra large size thành hai cái áo rất vừa với khổ
người ốm và cao của "hai ông anh khỉ". Huyên được hai anh khen:
- Không ngờ
khỉ nhỏ cũng được việc.
Không biết
để trả công thợ may, hay v́ thấy cô em người
dưng khác họ, hiếm khi có tiền, rất thích ăn
trái cây đúng như .. cốt
khỉ, từ đó cứ mỗi lần có được
một ít tiền viện trợ từ thân nhân, hay bạn
bè ở Mỹ, anh Đăng đều mua cho Huyên một
trái táo do người Mă lai bán ở một cái quầy nhỏ
trên đảo. Những trái táo đó nhỏ hơn Washington
apple, không gịn như Fuji apple nhưng là cả một món
ăn quư hiếm đối với người tỵ nạn.
Có lần Huyên cắt táo ra từng múi nhỏ, đem mời
hai anh cùng ăn, cả hai anh đều từ chối:
- Đàn
ông con trai ít ăn trái cây lắm.
Huyên ngây
thơ tưởng thiệt, ăn ngon lành cả trái táo.
Anh Trí
th́ hay dẫn Huyên đi uống sữa màu (giống như
Latte của Starbucks ở Mỹ) ở quán cà phê duy nhất
trên đảo có ocean view rất đẹp mỗi khi anh có
tiền. Đam mê và khả năng đặc biệt của
môn Toán giúp anh soạn được những giáo tŕnh rơ
ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để dạy nên rất
nhiều em thích môn Toán của thầy Trí. Mơ ước
lớn nhất của anh là được qua Mỹ học
ở MIT (Massachusetts Institute of Technology), tiếp nối
năm thứ nhất dang dở của anh ở Phú Thọ.
Cuộc
sống ở đảo b́nh yên như vậy. Vào những
ngày lễ lớn, các nhân viên cao ủy về đất liền,
hay về nước nghỉ phép, cả ba anh em vô rừng
cắm trại, thức ăn mang theo chỉ có bánh ḿ với
sauce mayonnaise, và cốm làm bằng ḿ vụn ngào đường,
nhưng tất cả đều vui như .. khỉ được thả về rừng.
Những lúc đó, các anh thường nói về ước
vọng của ḿnh khi được đặt chân đến
xứ tự do. Anh Trí nuôi mộng về lại Phú Thọ
để học, hay dạy. Anh Đăng ước
mơ học về computer để mở mang nước
nhà. Và Huyên, Huyên chỉ dám hy vọng ḿnh một ngày nào
đó, được mang kiến thức học được
ở các nước giàu có, văn minh về giúp quê nhà. Lúc
đó, chắc chắn không phải là quê hương tội
t́nh, đă dập vùi ước mơ của các sinh viên vừa
lớn như anh Đăng, anh Trí, không có những người
đứng trên bục giảng nhưng không có tư cách của
một nhà mô phạm, dạy học tṛ coi cha ḿnh là "người có nợ máu với nhân dân".
*
Cuộc
sống của ba anh em tuổi khỉ êm đềm trôi qua,
khoảng nửa năm sau, anh Đăng rời đảo
vào đất liền, chuyển qua hai trại tỵ nạn
khác, rồi đến Mỹ vào thập niên 80s. Hai tháng sau,
Huyên cũng được chuyển trại, gặp lại
anh Đăng ở trại ty nạn Bataan, ở gần
Manila của Philippines. Như bao nhiêu thuyền nhân khác chuẩn
bị đi Mỹ định cư, cả hai anh em đều
được huấn luyện nếp sống mới "American Culture orientation" để chuẩn bị qua Mỹ vào buổi
sáng. Buổi chiều, được xe bus chở về
phía bên kia của trại, cách nơi tạm trú khoảng
hơn hai miles, để làm thông dịch viên cho các thầy
cô giáo người Phi dạy cho các trại viên khác. Hai anh em
thuộc hai khóa khác nhau nên không c̣n thân như những ngày
cùng làm việc mỗi ngày ở trại ty nạn Pulau
Biddong nằm ở ven biển Mă Lai. Vả chăng lúc
đó, pressure của cuộc sống mới ở Mỹ
đặt nặng lên vai anh Đăng. Ba anh vẫn c̣n ở
trong tù cải tạo, mẹ anh vơ vét hết những thứ
có thể bán được để đưa anh, người
con trai lớn nhất vượt biên. Mẹ anh không dặn
ḍ, nhưng anh hiểu anh c̣n có một gánh nặng gia
đ́nh phải lo toan, cho mẹ đỡ vất vả,
nuôi các em khôn lớn, và cả nuôi ba đang mỏi ṃn, khốn
đốn trong trại cải tạo.
Thỉnh
thoảng, hai anh em vẫn đi lang thang trên con đường
nhựa duy nhất ở trại tỵ nạn Bataan, nhắc
đến anh Trí vẫn c̣n đang ở Pulau Bidong. Không biết
v́ một lư đó nào đó, anh Trí bị phái đoàn Mỹ từ
chối, và đang chờ các phái đoàn khác đến phỏng
vấn. Bataan là đất liền, lại gần thủ
đô của Phi Luật Tân, nên không có rừng để khỉ
đùa giỡn hồn nhiên như ở Pulau Bidong. Và cả
khỉ lớn, lẫn khỉ nhỏ đều nhớ
đến "khỉ
giỏi toán" đang
lạc bầy ở Malaysia.
*
Anh
Đăng đến Mỹ, v́ không có thân nhân, nên anh
được một tổ chức thiện nguyện
đưa về một nhà thờ Tin lành ở Saint Louis,
Missouri, miền Trung Tây của Mỹ. Anh sống ở nhà của
vị mục sư nửa tháng. Tư cách và tŕnh độ
của anh chinh phục được cảm t́nh của cả
gia đ́nh vị mục sư, anh cũng được họ
cho ở miễn phí trong một căn pḥng khá rộng có
đầy đủ tiện nghi, nhưng anh muốn ra sống
riêng v́ theo thư anh viết cho Huyên:
"Anh muốn tự lập, và v́ anh không thể
bỏ đạo Phật theo đạo Tin Lành, nên anh không muốn ở lâu mặc dù cả
gia đ́nh của họ rất quư mến anh. Và em biết
tŕnh độ Anh văn của anh rồi đó, khỉ nhỏ,
anh không có trở ngại trong việc nói cho ông bà mục
sư hiểu tại sao ḿnh phải sống đời
lưu lạc. Muốn viết cho em nhiều nữa
nhưng cho anh ngừng ở đây, anh phải viết
thư nâng đỡ tinh thần của Trí ở Pulau Bidong.
Nghe nói sau khi anh em ḿnh rời đảo, Trí đau một
trận, không biết hắn ta tương tư em,
tương tư anh, hay cả hai đứa ḿnh?"
Lúc nào
anh Đăng cũng vậy, anh nghiêm trang, nhưng rất
có khiếu hài hước.
Đến
Mỹ sau anh gần ba tháng, Huyên mang theo khoảng hơn 10
cái thư, anh Đăng gởi về từ hai địa
chỉ khác nhau của thành phố Saint Louis. Thời đó,
chưa có PC, không có email, quyển sổ ghi địa chỉ
của Huyên có tên anh Đăng, và anh Trí ở trang đầu.
May mắn
hơn anh Đăng, Huyên có thân nhân ra đón, ở phi
trường San Francisco, không phải leo lên một chuyến
máy bay khác bay về một nơi xa lạ, với những
người lạ khác ḿnh về tất cả mọi mặt.
Dù lúc đó mấy đứa em c̣n nhỏ, đang đi học,
mấy chị em cũng nghèo xác xơ như anh Đăng,
nhưng Huyên được về California ấm hơn, và
có nhiều người Việt Nam hơn anh Đăng. Lâu
lâu Huyên vẫn viết thư chọc anh bằng thơ của
Nhà thơ Trần Mộng Tú, mấy câu thơ mà cả ba
anh em khỉ đều thích khi đọc được từ
tạp chí Văn trong cái thư viện nhỏ ở Pulau
Bidong:
Hăy tưởng tượng ra em
Ở một căn nhà lạ.
Ḿnh em một màu mắt
Ḿnh em một màu da
Ḿnh em một lệ nḥa
Huyên
đă đổi "em" thành "anh" trong mấy câu thơ gởi qua cho anh
Đăng. Anh gởi lại một cái post card mặt
trước có con khỉ nhăn răng cười, mặt
sau có duy nhất một gịng chữ "khỉ anh chưa
bao giờ khóc đâu khỉ nhỏ ơi!"
Lúc
đó, cả hai anh em góp phần làm giàu cho cho bưu điện
của Mỹ bằng những lá thư viết tay hàng tuần.
Mỗi tuần ba ngày, đi học, đi làm về, cả
anh Đăng và Huyên nhận được thư tay viết
cho nhau. Chữ viết tay của Huyên th́ vẫn .. xấu muôn thủa,
nhưng chữ của anh Đăng đă không c̣n đẹp
như hồi anh c̣n viết báo cáo ở một góc hội
trường của văn pḥng cao ủy ở Pulau Bidong.
Cái Tết
đầu tiên ở Mỹ của anh Đăng vẫn "một ngày như mọi ngày". Giữa quê người và trời lạnh
cắt của mùa Đông đầu tiên ở miền trung
tây nước Mỹ, không có một chút ǵ gợi cho anh
Đăng nhớ lại những cái Tết b́nh yên hạnh
phúc trước năm 1975, những cái Tết buồn bă
sau năm 1975, và cả Tết đầu tiên ở quê
người có tiếng đập tôn thay cho tiếng pháo ở
trại tỵ nạn Pulau Biddong, có mùi nhang trầm bay khắp
đảo khi người ta cúng ông bà, tiễn năm cũ,
đón năm mới vào giờ giao thừa.
Người
nhắc cho anh Đăng nhớ Tết Việt Nam ở Mỹ
là Huyên. Lúc đó, người Việt Nam ở Mỹ
chưa đông lắm, người Việt Nam ở St.
Louis c̣n hiếm hoi hơn, sống rải rác, xa nhau, không có
chuyện ăn Tết Việt Nam. Hơn nữa anh
Đăng lại rất bận, nên không nhận ra tháng chạp
âm lịch sắp nhường chỗ cho tháng giêng, năm mới.
Huyên gởi thư đi nhắc anh Đăng tuần sau
là Tết Nguyên Đán. Anh gởi lại một phong b́
thường như bao nhiêu cái thư anh vẫn gởi,
nhưng thư Tết của anh Đăng có hai tờ
USD1.00, và một tờ USD2.00 mới toanh kèm theo một câu
thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên "Tết về rồi đó nhỏ, chim núi
của ḷng anh". (H́nh
như anh muốn nói đến nguyên tắc sống của
anh, đơn giản rơ ràng như: một cộng một
là hai?)
Huyên gởi
thư cảm ơn, chúc anh một năm mới may mắn,
an vui, nhưng "lờ" luôn câu thơ anh áp dụng rất đúng
chỗ.
Anh Trí
th́ gởi cho Huyên một cái h́nh Pulau Bidong anh vẽ bằng
bút ch́, có rừng cây và một con khỉ đang treo lơ lửng
trên một nhánh cây trong rừng thưa. Huyên lập tức
hồi âm bằng lời Phật dạy "thiên thượng địa hạ, duy ngă
độc tôn". Huyên
c̣n nhớ đă đọc được trong một lần
đi lễ chùa vào ngày Tết ở Việt Nam. Anh Trí rất
thông minh, chắc chắn anh sẽ hiểu ư Huyên. Và anh sẽ
nh́n cuộc đời dưới cái nh́n của một Phật
tử để có thể vượt qua nỗi buồn "là một trong những công dân dài hạn" của trại tỵ nạn.
Với
riêng Huyên, Tết Việt Nam và cả Tết Tây đầu
tiên ở Mỹ đều "một ngày như mọi
ngày". Thời đó, cuối thập niên 80s, không có bang
giao giữa Mỹ và Việt Nam nên ngày Tết Việt Nam
không có ǵ rơ nét. Như thế đôi khi tốt hơn, đỡ
nhớ nhà! Và như vậy, Tết Việt Nam đến
và đi âm thầm trong ḷng anh em nhà khỉ từ St. Louis,
San Jose ở Mỹ đến Pulau Bidong ở Mă Lai.
Đời
sống ở Mỹ bận rộn, túi bụi, vừa
đến Mỹ được một tuần, anh
Đăng đă xin được việc làm, và tiếp nối
con đường đèn sách bằng trường Community
College ở Mỹ, một loại trường công lập
dạy kiến thức hai năm đầu Đại học,
chỉ cấp bằng trung cấp, và sẽ chuyển sinh
viên lên University học hai năm c̣n lại để hoàn tất
bằng cử nhân, nếu họ thích. Tŕnh độ Anh ngữ
của anh Đăng, và tŕnh độ của một sinh
viên năm thứ nhất của học viện Quốc
gia hành chánh giúp anh học straight A dễ dàng, mặc dù anh phải
đi làm full time để gởi tiền về quê nhà giúp
Mẹ nuôi em.
Anh em nhà
khỉ ở Mỹ vẫn thương yêu nhau như
xưa, mặc dù bây giờ muốn đi thăm nhau phải
mất đến gần 4 giờ trên máy bay, chứ không phải
chỉ cần đi bộ 5 phút như hồi c̣n ở trại
tỵ nạn.
Cả
hai anh em vẫn viết thư đều đặn cho anh
Trí, nhưng thư đi th́ có, mà không thấy anh Trí viết
thư trả lời. Tuy buồn và lo cho anh Trí, nhưng anh
Đăng vẫn lạc quan:
- Anh tin
là nhà toán học của 12B2 Chu Văn An năm xưa vẫn
b́nh yên nhưng chắc là biết ḿnh đang bươn chải,
ngược xuôi với cơm áo, với học hành nên Trí
không trả lời.
Anh c̣n tếu
thêm:
- Cốt
khỉ vẫn hoàn khỉ, và khỉ th́ chẳng bỏ bầy
đâu Huyên ơi!
Anh em nhà
khỉ đă có Associate Degree từ Community College chỉ sau
một năm rưỡi bằng ḷng quyết tâm, và bằng
lời hứa với cha mẹ, với chính ḿnh.
Chuyển
lên Unviversity học thêm hai năm cuối để hoàn thành
cử nhân, học khổ hơn, nhiều project hơn, nhất
là năm cuối, phải làm rất nhiều bài, phải
đi thực tập, anh Đăng lại được
promote ở nơi làm việc. Biết sức người
có hạn và muốn giữ straight A, muốn ra trường
với Summa Cum Laude về Computer Science nên anh chỉ học
part time ở năm cuối. Huyên học ngành dễ hơn
anh, lại không dám mơ đến Summa Cum Laude từ hồi
bước chân vô University với cả hai thứ học
và làm đều full time, nên ra trường trước anh.
Thời đó, chưa có mobile phone, cuối tuần mới
gọi phone cho nhau, anh Đăng luôn đùa như bản
tính của anh từ thủa nào:
- Khỉ
ơi, vậy là bây giờ em có bằng cấp cao hơn anh
và khoẻ hơn anh nhiều. Anh vẫn c̣n nặng nợ,
cả nợ cơm áo lẫn nợ sách đèn.
Huyên
đùa lại:
- Hai vai
gánh hai gánh như vậy nên vai anh sẽ chẳng bao giờ
bị lệch.
Anh trở
lại nghiêm trang khi tâm sự về chuyện học ở
năm cuối:
- Mỗi
lần viết xong được một cái program, nộp
cho ông thầy xong thấy ḷng nhẹ nhơm. Tuần sau ông thầy
phát bài, chưa kịp vui v́ điểm A, lại nhận một
program khác để viết, mà chưa biết phải bắt
đầu từ đâu? Ước ǵ có Trí bên cạnh, hồi
xưa Trí giỏi Toán hơn anh, chắc chắn nó viết
program giỏi hơn anh. Nhớ cầu nguyện cho anh khỉ
lớn vẫn c̣n lạc lỏng ở đâu đó, nghe khỉ
nhỏ!
Có lần
anh Đăng gởi mừng sinh nhật Huyên một con khỉ
nhỏ đánh trống, thắt nơ hồng rất dễ
thương. Huyên vẫn c̣n giữ đến tận bây giờ
trên một góc bàn làm việc, và trong một góc sâu nhất của
tâm hồn.
Chuyện
của anh em nhà khỉ, kể hoài không hết. Như chuyện
tranh Huyên đă đọc hồi nhỏ, trong đám học
tṛ theo Thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh, có Tề thiên
(một con khỉ lư lắc, thông ḿnh, nhưng hay phá phách).
Lâu lâu Thầy Tam Tạng lại phạt Tề thiên nhức
đầu để cho học tṛ khỉ bớt láu cá, và bớt
phá phách.
Trên
đời này, cả trăm ngàn người cùng tuổi khỉ,
nhung chắc chỉ có hai anh khỉ lớn, khi viết
thư hay gọi điện thoại cho Huyên đều mở
đầu bằng hai chữ thân quen "khỉ ơi".
***
Cuối
cùng anh Trí cũng được đi định cư ở
Ḥa Lan sau 5 năm dài ở trại ty nạn. Anh thuộc loại
tài hoa, học giỏi, vẽ đẹp, chơi đàn hay,
cái ǵ anh chạm tay vào cũng tốt đẹp hơn nên bị
"trời xanh đánh ghen" tơi tả. Anh bắt đầu học
một ngôn ngữ mới, bắt đầu mọi thứ
từ số không ở tuổi ngoài 30, và trở thành một
programmer giỏi của xứ sở hoa Tullip. Anh càng giỏi,
càng bận rộn, càng đam mê môn Toán, không có th́ giờ nghĩ
đến "một
nửa thứ hai" để
như đa số mọi người. Tuổi đời
càng nhiều, con số công tŕnh anh đóng góp cho quê người,
một cách thầm lặng nhưng rất đáng giá, càng
cao.
Mới
đây anh viết Email cho cả anh Đăng và Huyên:
"Khỉ ơi, khi nào th́ bầy khỉ tụi
ḿnh mới về lại được Việt Nam dân chủ
tự do, mới được đóng góp cho quê nhà, và
được vào cắm trại ở rừng thưa
như những ngày Bidong xưa cũ?"
*
Mỗi
lần đến Tết, dù không c̣n đi chợ Tết,
không c̣n nỗi háo hức của những mùa Xuân hạnh
phúc thời thơ dại, Huyên vẫn ăn Tết bằng
một lát mứt khoai (là thứ mứt mà Mẹ hay làm mỗi
dịp Tết), một miếng bánh ḿ có phết mayonnaise
để nhớ những mùa Xuân hạnh phúc luôn nằm
trong một góc kư ức ngọt ngào. Dù năm đó là
năm nào trong 12 con giáp, Huyên vẫn muốn được
nghe lại tiếng "con khỉ
nhỏ" của
Ba Mẹ gọi Huyên, và tiếng "khỉ ơi" của
anh Trí, anh Đăng. Và như thế, nên lúc nào có dịp
vào sở thú, Huyên cũng tần ngần dừng lại bên
chuồng khỉ, ngắm những con khỉ như ngắm
lại những kỷ niệm đẹp của ḿnh.
NGUYỄN TRẦN DIỆU HƯƠNG
(Kiều Diễm sưu tầm
và chuyển)