Lời Tỏ
Tình
(Tác giả: Phạm Thành
Châu)
Tác
giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt
nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia
Hành Chánh Việt Nam Cộng Hoà, hiện là cư dân
Virginia. Nhà văn Phạm Thành Châu đã
cộng tác với các báo Văn, Thế Kỷ
21 và có ba tập truyện ngắn đã xuất
bản. "Nhân vật trong truyện
của anh thật tuyệt vời ! Họ chung tình
quá sức". Nhà văn, nhà biên
khảo Võ Phiến khi đọc truyện của Nguyễn
Thành Châu
đã nhận xét như trên. Sau
đây là một truyện ngắn mới của
ông.
***
Sau khi chiếm
được nam Việt Nam, năm 1975, Cộng Sản miền
Bắc lùa số lớn
công chức, quân nhân, đảng viên
các đảng phái quốc gia, các nhà tu
hành của các tôn giáo miền Nam, ra Bắc
"khổ sai biệt xứ". Liên Xô có
Xi-bê-ri thì Việt Nam có vùng núi non
Tây Bắc khắc nghiệt, tuy không lạnh bằng
Xi-bê-ri nhưng cũng đủ cho tù chết dần.
Chết vì lạnh, vì đói, vì lao
động kiệt sức và vì bịnh mà
không có thuốc chữa.
Thông thường,
tù phải tự đốn cây, cắt tranh
làm lán cho mình ở, phải phá rừng,
làm rẫy trồng trọt khoai củ nuôi
thân. Nhà nước Cộng Sản không phải
tốn phí nuôi tù cải tạo. Ban ngày
tù vào rừng lao động, chiều về,
vào lán, cán bộ coi tù khóa cửa
lại, sáng hôm sau, mở cửa cho tù đi
lao động tiếp.
Mấy năm
đầu, tù chết quá nhiều nên
chính quyền Cộng Sản Việt Nam cho thân
nhân tù được gửi thuốc, áo quần
(giới hạn) bằng đường bưu điện,
về sau được thăm nuôi, nghĩa là
được gặp mặt tù và tiếp tế
lương thực, mùng mền, thuốc men ...
giúp tù chịu đựng, tiếp tục khai
phá núi rừng và chết chậm hơn.
Trong chuyện nầy,
tôi không kể về những sinh hoạt trong
nhà tù mà kể về một anh bạn
tù nằm cạnh tôi.
Anh Hùng, (nằm
cạnh tôi) là người ít nói
nhưng thường quan tâm đến người
khác. Buổi tối, vào lán, thấy ai
có vẻ trầm tư, suy nghĩ, là anh sà
đến, nói huyên thiên những chuyện
trên trời dưới đất, chuyện nào cũng
khiến người nghe bật cười. Thế
là người bạn đó bớt buồn. Khi
quay về, anh bảo tôi
- Khá rồi!
Lo buồn làm mình suy sụp nhanh nhất. Nhanh
hơn cả bịnh hoạn. Chỉ cần mất ngủ
vài ba đêm là không đủ sức
gượng dậy.
Ai cũng biết điều
đó, nhưng rất khó vượt qua, nhất
là những người không được
thăm nuôi, thậm chí không nhận được
thư của thân nhân gửi vào. Họ
được gọi là "con bà xơ" (nữ
tu), ý nói là con hoang trong trại mồ
côi do các bà xơ (soeurs) nuôi dưỡng.
Các tù nhân con bà xơ nầy, mỗi
khi thấy người
nào ra thăm thân nhân, đem đồ tiếp
tế vào là họ tránh chỗ khác,
tìm những người cùng hoàn cảnh
(không có thăm nuôi) mà chuyện trò,
ăn mấy củ khoai, củ sắn với nhau.
Được tặng thức ăn (thăm nuôi) họ
có thể nhận một lần, lần sau thì từ
chối.
- Xin cám ơn
anh, tôi nhận thì không có gì tặng
lại. Anh thông cảm
cho tôi. Xin giữ lấy.
Trong tù, chỉ nghĩ đến miếng
thịt, cây kẹo cũng đủ chảy nước
miếng, vì cơ thể quá cần, nhưng nhận
chút thực phẩm của bạn cho, lấy gì
trả lại?
Tôi với anh Hùng, may mắn,
được vợ thăm nuôi, dù cả năm
chỉ được một lần và chỉ
được một xách nhỏ. Một gói
đường tán đen, gói cá khô,
ít đậu và gạo, ít thuốc men, chỉ
vậy thôi, vì tiền xe cộ đi hàng
nghìn cây số (từ miền Nam ra núi rừng
tây bắc), ăn uống dọc đường ... hết
cả! Chúng tôi nghèo quá, nhưng vợ
chồng gặp mặt nhau là may rồi. Tôi mừng,
nhưng anh Hùng lại mừng hơn. Lần thăm
nuôi nào anh cũng bảo.
- Đây là lần chót!
Thế nên, mỗi khi được
gọi tên ra gặp thân nhân thì anh ngạc
nhiên.
- Ai thăm tôi? Bà cụ
thì quá yếu, không đi nổi!
Tôi cười bảo.
- Không phải vợ thì ai
vào đây?
Theo vợ tôi kể, trong một
lá thư gửi cho tôi, chỉ một lần vợ
tôi cùng đi thăm nuôi với vợ anh
Hùng mà hai người thành bạn thân. Cả
hai đều ở trong một con hẻm vùng Đa
Kao lại có chồng là bạn nằm cạnh
nhau trong tù, cùng hoàn cảnh nên hai người
đàn bà thương nhau, thường giúp
đỡ nhau trong việc buôn bán mưu sinh.
Vì thấy anh vui hơi quá
đáng mỗi khi được thăm nuôi
nên tôi tò mò, cố tìm hiểu
vì sao? Đúng ra, trong tù không nên biết
chuyện gia đình người khác, nếu
người đó không tự ý kể ra. Tôi
không nhớ mình đã gợi ý cách
nào khiến cho anh Hùng kể chuyện vợ con của
anh.
Sau đây là câu chuyện
theo lời Anh kể.
. . .
- Tôi là con trai độc nhất
của bà cụ tôi. Đúng hơn, tôi
là độc đinh của cả giòng họ
nhà tôi. Nếu mẹ tôi không sinh ra
tôi thì coi như họ Hoàng Đắc của
tôi tuyệt tự. Mẹ tôi săn sóc,
chăm lo cho tôi, vì tình thương mà cũng
vì trách nhiệm bên nhà chồng giao
phó, là phải có người thừa tự,
lo nhang khói, cúng giỗ để vong linh ông
bà, tổ tiên khỏi bơ vơ, thành ma
đói, ma khát, vất vưởng trong cõi u
minh. Thế nên, khi tôi vừa xong tú tài
là mẹ tôi lo tìm vợ cho tôi, vì
bà sợ tôi vào quân đội, không
biết chết lúc nào, sẽ không kịp
có con trai để nối dõi tông đường.
Tôi thì không để ý đến chuyện
đó. Ngay trong thời đi học, bạn bè
yêu cô nầy, cô kia, tôi chỉ biết
bài vở và các môn thể thao như
đá banh, học võ ...
Đến khi thi xong tú tài một,
tôi tình nguyện đi sĩ quan Thủ Đức.
Mẹ tôi, thời trẻ là đảng viên một
đảng phái Quốc Gia, thông hiểu tình
hình đất nước, bà cụ bảo
tôi "Khi tổ quốc lâm nguy, làm con
dân phải có bổn phận cùng với mọi
người bảo vệ đất nước, bảo vệ
đồng bào. Những tên trốn lính, sống
chui, sống nhủi chỉ thêm nhục. Nhưng con phải
lấy vợ, sinh con trai để sau nầy lo nhang
khói cho ông bà, tổ tiên". Mẹ
tôi hỏi tôi có để ý cô
nào chưa? Tôi
thưa rằng "Mẹ xem cô nào vừa ý
mẹ thì cưới cho con chứ con không có
người yêu". Mẹ tôi đến nhà
các bà bạn, ngắm nghía cô nầy, dọ
hỏi cô kia, cuối cùng bà chọn
được một cô. Mẹ tôi nhờ người
mai mối, gia đình cô ta đồng ý ngay. Để
tôi được gặp cô gái, mẹ
tôi mua một ít trái cây, sai tôi đem
đến biếu gia đình cô ta. Hình
như cô gái không biết có sự xếp
đặt giữa hai gia đình nên cô ta tiếp
tôi rất hồn nhiên, vô tư như với
bạn bè. Tôi thấy cô cũng xinh, hiền
lành, vui vẻ nên về thưa với mẹ
tôi rằng "Mẹ thấy vừa ý thì
con xin vâng lời". Quả thật, cô gái
hoàn toàn không biết gì về việc
cô sẽ là vợ tôi. Trước ngày
tôi vào quân trường, hai gia đình muốn
tổ chức lễ hỏi, cưới luôn một lần.
Lúc đó, cô gái mới được
thông báo. Cô ta phản đối quyết liệt.
Hóa ra cô đã có người yêu.
Sau nầy tôi mới biết, người
cô yêu là một nhà thơ. Anh chàng
có dị tật ở chân nên anh ta khỏi phải
đi lính. Nhờ thế anh ta yên tâm vui
chơi và ăn bám gia đình. Hết
làm thơ đăng báo tán tỉnh cô nầy,
cô kia thì la cà các quán cà
phê, quán nhậu. Con gái mới lớn, cô
nào cũng mơ mộng. Anh chàng thi sĩ nầy
làm thơ ca tụng, tỏ tình với cô vợ
tương lai của tôi thì chẳng khác
gì bỏ bùa cô ta. Cô ta yêu mê mệt
chàng thi sĩ, quyết cùng chàng "Một
túp lều tranh hai quả tim vàng". Bất ngờ cô bị ép phải
lấy tôi làm chồng. Cô tuyên bố thẳng
thừng với cha mẹ rằng cô ta sẽ trốn
đi với chàng thi sĩ, nếu không trốn
được mà bị ép duyên, cô ta sẽ
uống thuốc rầy tự tử. Gia đình
cô ta hình như có xích mích gì
đó với gia đình "nhà thơ"
nên không muốn làm sui gia với họ. Thế
nên bà mẹ mới bảo với con gái rằng
"Mầy muốn trốn theo trai thì cứ trốn
đi, nhưng không được theo thằng
chó chết của nhà đó. Nếu mầy
theo nó, thì nhớ ba ngày sau quay về dự
đám ma tao. Còn mầy muốn tự tử
thì tao mua cho mầy chai thuốc rầy, nhưng uống
nửa chai thôi, để một nửa cho tao. Nuôi
mầy khôn lớn để mầy làm nhục
cha mẹ ..." Lời tuyên bố đó khiến
cô gái không còn lựa chọn nào
khác. Thế nên, trước ngày cưới,
cô ta hẹn tôi ra một quán nước.
Sáng đó, chúng tôi gặp
nhau. Tôi ngồi đối diện. Quán vắng
người nên cô ta chẳng cần giữ lời,
tấn công tôi ngay "Tôi và anh không hề
quen biết nhau, không thù oán nhau, tại sao anh
cố tình phá vỡ tình yêu của
chúng tôi? Anh có biết, vợ chồng
không có tình yêu mà sống với nhau
là sống trong địa ngục không?"
Tôi trả lời "Đây
là chuyện hai gia đình với nhau. Cô
không bằng lòng lấy tôi thì cứ
nói thẳng với ba mẹ cô hoặc nói với
mẹ tôi. Tôi không có ý kiến.
Tôi không cần vợ, nhưng mẹ tôi cần
có cháu nội trai để nối dõi
tông đường. Tôi sẽ vào quân
đội. Chiến tranh rất ác liệt. Đời
lính chiến, hành quân liên miên, cưới
cô về, được bao nhiêu lần chúng
ta gặp nhau? Để có con, còn khó hơn.
Và có thể một ngày, một tuần, một
tháng sau đó, tôi tử trận. Cô sẽ
thành quả phụ. Nhanh lắm. Tôi nói sự
thật để cô đủ lý do từ chối
việc cầu hôn của tôi" Cô yên lặng
lắng nghe. Tôi cũng suy nghĩ, lựa lời một
lúc mới nói tiếp "Nếu bị ép
duyên, và nếu không còn con đường
nào khác để làm vui lòng cha mẹ
cô, cô nên lấy tôi. Vì sau khi ra trường
sĩ quan, tôi sẽ chọn binh chủng tác chiến,
tôi sẽ leo lên bàn thờ nhanh lắm. Khi
tôi chết rồi, gia đình cô không
còn quyền cấm cô về sống với
người cô yêu. Mà dù tôi chưa tử
trận, khó khăn của tôi vẫn là phải
có con trai cho mẹ tôi an tâm. Tôi đề
nghị thế nầy. Sau khi là vợ tôi, dĩ
nhiên là tôi đi hành quân, đâu
có về nhà thường xuyên được
... Cô cứ hẹn hò với người yêu,
miễn sao đừng cho thiên hạ biết, khi
nào có bầu, cô ra đơn vị tìm
tôi rồi quay về nhà. Mục đích để
hợp thức hóa đứa bé trong bụng
cô. Tôi sẽ không ghen tương gì
mà mẹ tôi lại mừng vì đã
làm tròn bổn phận đối với gia tộc
tôi ..." Chưa nghe hết câu, cô chồm qua
bàn, thẳng tay tát tôi một tát tai, nảy
đom đóm mắt "Tôi cấm anh không
được nhục mạ tôi theo lối nói
vô học đó. Anh xem tôi là hạng
người gì?.." Rồi cô ôm mặt, gục
xuống bàn khóc nức nở. Cô khóc to,
như rống lên rồi lấy khăn bịt miệng
mình lại để tự kềm chế. Tôi kinh
hoàng, vội qua ngồi cạnh cô, lắp bắp
"Tôi xin lỗi! Tôi xin lỗi! Cô tha thứ
cho tôi" Tôi định choàng tay qua vai
cô để vỗ về thì cô xô mạnh
tôi ra, khiến tôi suýt ngã ngữa. Cô
cứ cúi đầu thút thít mãi.
Tôi chán nản, nghĩ rằng, tốt nhất về
thưa với mẹ tôi rút lui vụ cưới
hỏi nầy để khỏi rắc rối, có khi
gây oán thù với cô ta và cả
người tình của cô nữa.
Tôi đứng lên, đến
quày trả tiền. Cô chủ quán hỏi
tôi "Có chuyện gì vậy?" Tôi lắc
đầu, quay lại bàn nước, ngồi cạnh
cô để tránh tia mắt cô đang
nhìn đăm đăm phía trước như
người xuất hồn. Tôi nói "Tôi
đã hiểu cô, đã biết mối
tình của cô. Xin cô yên tâm. Tôi sẽ
báo cho mẹ tôi hủy bỏ vụ nầy. Cô được
tự do". Tôi định đứng lên
thì cô ra dấu tôi ngồi xuống. Cô
nói mà không nhìn tôi "Anh chẳng
có lỗi gì trong chuyện nầy. Gia
đình tôi nhất quyết gả tôi cho
người khác. Ai cũng được, ngoại trừ
người tôi yêu" Rồi cô quay nhìn
tôi, mắt long lên, môi mím lại
"Tôi đồng ý lấy anh. Nhưng tôi
cho anh biết. Anh chiếm đoạt được trinh
tiết của tôi, chiếm
đoạt được thân xác tôi nhưng
không thể chiếm đoạt được
trái tim tôi. Đừng hi vọng tôi sẽ
thương yêu anh. Tôi không thù anh,
nhưng tôi không thể yêu thương ai
ngoài người tôi yêu. Tôi cũng cho anh
biết trước rằng, về làm vợ anh,
dù đến mãn
đời, tôi thề sẽ không bao giờ
nói tiếng yêu thương với anh, không
bao giờ hôn anh. Mong anh cũng làm như thế".
Tôi giận sôi gan, nhưng cố bình tĩnh
"Tôi sẽ giữ lời. Tôi thề sẽ
không nói thương yêu với cô,
không hôn cô, vì tôi biết chúng ta
chẳng hề yêu thương nhau. Tôi cũng
yêu cầu cô nhớ lời thề đó. Sau
nầy, nếu tôi tử trận, xin cô đừng
giả vờ khóc, vì tôi biết đó
là ngày vui của cô, ngày cô được
giải thoát để về với người
cô yêu. Không cưới cô thì mẹ
tôi cũng tìm một cô khác cho tôi. Từ
hôm nay cho đến tuần sau, cô có thể
báo cho mẹ tôi biết quyết định của
cô. Mà dù đã là vợ tôi,
cô vẫn tự do. Cô có thể gặp người
yêu của cô bất cứ lúc nào, chỉ
mong cô cố gắng cho mẹ tôi một đứa
cháu trai. Xin cô giúp tôi"
Kể đến đấy anh
Hùng hỏi tôi
"Nếu vào trường hợp tôi, anh sẽ
nghĩ sao? Chúng tôi có ba mặt con với
nhau, nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng
cô ta còn lưu lại trong gia đình tôi
cho đến ngày tôi vô tù như hôm
nay" Anh quay ra sau, lục trong xách nhỏ, lấy ra
mấy tấm hình, trao cho tôi "Anh nhìn xem,
mấy đứa nhỏ nầy giống ai?" Tôi
nhìn và nói ngay "Giống anh chứ giống
ai? Con anh phải không? Hai thằng nhỏ nầy
là anh em sinh đôi?" Anh trầm tư "Để
tôi dài dòng một chút. Trước khi
vào quân trường, tôi cưới vợ. Khi
còn đang thụ huấn trong Thủ Đức,
được tin vợ sinh, tôi về phép,
vào nhà bảo sanh. Vợ tôi sinh con gái.
Tôi ôm đứa bé vào lòng. Lúc
đó, tôi không thắc mắc, ai là
tác giả của sinh vật bé bỏng
đó, nhưng không hiểu sao, tôi
thương nó quá. Tôi ngắm nghía
nó, hôn nó, thì thầm với nó
mà quên cả chung quanh. Lúc đặt con xuống
bên cạnh vợ, cô ta nắm lấy bàn tay
tôi, nhìn tôi, nước mắt ứa ra. Cô
ta khóc. Tôi hiểu ý nên nói "Xin lỗi!
Nhưng tôi thương nó. Lần sau, cố
giúp tôi một thằng con trai ..."
Tôi ngắt lời anh "Bộ hai
người xưng tôi chứ không anh em gì cả
sao?" "Cô thì xưng em với tôi,
còn tôi, khi chán nản hoặc chỉ có
hai người, tôi xưng "tôi" và
nói trống không. Khi có người thứ ba
thì tôi "anh, em" như vợ chồng
bình thường... Sau đó, cô sinh
đôi, hai thằng con trai. Khi tôi đi tù
thì hai thằng con được gần hai tuổi.
- Hai anh chị thề thốt với
nhau rằng sẽ không hôn, không nói tiếng
yêu thương với nhau, rồi có giữ lời
không?
- Tôi có vợ mà tâm
lý không giống những ông khác. Tôi
chỉ làm bổn phận. Tôi đâu cần
tình yêu mới làm chuyện vợ chồng
được. Khi cô ta vừa sinh hai thằng con trai,
tôi dự định, hễ hai đứa nhỏ cứng
cáp thì tôi sẽ nói với cô rằng
muốn li dị thì tôi ký tên ngay để
cô được tự do, nhưng tôi chưa kịp
nói thì đi tù. Thế nên, mỗi khi
tôi được gọi ra thăm nuôi, anh thường
nghe tôi tự hỏi "Ai thăm nuôi
mình?" vì tôi cứ đinh ninh là
cô ta đã bỏ tôi để về với
người tình, để khỏi nuôi mấy
đứa nhỏ, khỏi nuôi mẹ tôi, khỏi
thăm nuôi tôi.
- Anh có thể nói thật
tình cảm của anh đối với vợ anh cho
tôi nghe được không? Anh có thương
vợ không?
Anh trầm ngâm.
- Chỉ sau nầy, khi tôi vào
tù, cô ta không bỏ chúng tôi, lại
phải vất vả, bương chải để
nuôi sống bao nhiêu người trong gia
đình tôi, tôi mới nghĩ rằng cô
là vợ tôi. Nếu chúng tôi có
yêu nhau trước đó thì sự hi sinh của
cô ta còn có chút ý nghĩa. Đằng
nầy...Không ai có thể bắt cô phải
cưu mang chúng tôi. Đó là sự bất
công. Trước kia, tôi không màng đến
ý nghĩ, tình cảm của vợ tôi. Chúng
tôi ít nói chuyện với nhau. Đúng ra
là không có dịp. Tôi hành quân
liên miên, vài ba tháng về phép một
lần. Hai mươi bốn giờ phép mà gần
tối mới về đến nhà, sáng sớm lại
phải ra đơn vị. Vả lại, tôi
thương các con tôi lắm. Vừa bước
vô nhà, chào mẹ tôi xong là tôi quấn
quít với con, hôn hít đứa nầy, bồng
ẵm đứa kia, đưa chúng ra đường
mua quà, kẹo bánh. Lần nào về
phép tôi cũng ôm con mà cứ nghĩ rằng,
đây là lần cuối mình được
gần các con. Ra trận, đạn như vãi trấu,
bạn bè, đồng đội tôi ngã xuống
ngay bên cạnh. Trước sau gì cũng đến
lượt mình. Còn vợ tôi, tôi cảm
tưởng như giữa hai đứa có một bức
tường vô hình ngăn cách, và cô
ta, sinh con xong, bồng nó, đưa qua bức tường
vô hình đó, trao cho tôi. Chúng là
con tôi. Vì ám ảnh đó mà mọi
sự săn sóc, lo lắng của cô dành cho
tôi, tôi tưởng như của một cô bạn
gái cùng lớp giúp bạn trong một buổi
đi chơi chung ngoài trời, vậy thôi. Mỗi
khi tôi về phép, thấy tôi bước
vào nhà là cô vội lo nước
nôi, khăn tắm, áo quần để sẵn
đó rồi chạy ra chợ mua thức ăn, chạy
về, chui vào bếp, nấu nướng, dọn
lên. Ăn xong, lại dọn rửa, rồi giặt giũ
áo quần cho tôi, phơi phóng, sắp xếp,
chuẩn bị mọi thứ trong xách để
sáng sớm là tôi chỉ việc đeo
lên vai, về đơn vị. Cô xoay tròn
như chong chóng. Tôi thì tắm con,
đút cơm cho chúng, rồi chơi đùa,
kể chuyện cho chúng nghe, ru chúng ngủ,
không màng đến vợ, không nhìn đến
mẹ. Người ngoài nhìn vô, đó
là một gia đình bình thường. Mẹ
tôi thì vui lắm, cứ khen con dâu ngoan hiền.
Bà cụ không biết dĩ vãng của
cô, cũng không thấy những đợt
sóng ngầm đang kiên trì, thì thầm gọi
cô thoát ly.
Bây giờ, ở tù kiểu nầy
thì chỉ có chết hoặc mục xương
trong tù vì chẳng ai biết ngày về. Cái
chết đối với thằng lính chiến
như tôi thì sá gì, nhưng tôi
thương các con quá, chỉ mong được
về để lo cho chúng và săn sóc vợ
tôi để đền đáp bao khổ nhọc
mà cô ta đã phải chịu đựng.
Từ khi nghe anh Hùng kể chuyện
gia đình, tôi cũng đâm ra hồi hộp
mỗi khi nghe tên anh ta được gọi ra thăm
nuôi. Tôi tưởng tượng mẹ anh
Hùng hoặc bà cụ nhờ một người
nào đó gặp anh và báo tin rằng vợ
anh đã bỏ đi lấy chồng rồi. Nhưng
lần nào cũng là chị ta. Lần đầu
được giới thiệu là vợ anh Hùng,
tôi thấy chị ta, tuy đen và ốm, xác
xơ vì sinh kế nhưng còn phảng phất những
nét thanh tú và quí phái. Chị ta, thời
trẻ, ắt đã làm bao trái tim bọn con
trai xao xuyến.
Mỗi lần ra thăm nuôi, anh
Hùng, tôi và vài người tù ngồi
một bên chiếc bàn dài, đối diện
(bên kia bàn) là thân nhân của tù.
Đầu bàn có một công an ngồi theo
dõi, lắng nghe tù và thân nhân chuyện
trò. Tù chỉ có mười lăm phút
gặp người thân nên ai cũng cố
nói thật nhiều, hỏi thật nhiều những
điều cần thiết. Tôi cũng gấp rút
chuyện trò với vợ nhưng cũng để
ý xem vợ chồng anh Hùng có gì
khác thường không? Hình như anh Hùng
không nhìn vợ mà hơi cúi xuống vẻ
đắn đo, suy nghĩ. Trái lại chị vợ
ngồi nhìn chồng đăm đăm như thôi miên anh ta.
Thông thường, trong lúc gặp
gỡ, người vợ để bàn tay bên
hông của giỏ quà thăm nuôi, phía khuất
tia nhìn của công an, người chồng biết
ý sẽ để bàn tay mình lên bàn
tay vợ, bóp nhẹ. Bao nhiêu năm xa cách, chỉ
cần chạm nhẹ hai bàn tay với nhau cũng
đủ cho vợ chồng ngây ngất, rung động
cả thể xác và tâm hồn. Giây
phút đó quí giá hơn bao nhiêu lần
ôm ấp nhau mà vợ chồng đã trải
qua. Vợ anh Hùng cũng để tay bên giỏ
thăm nuôi. Anh Hùng chỉ đụng rất nhẹ
vào tay vợ, như vô tình rồi rút tay
về. Chị ta vẫn để yên bàn tay
và chờ đợi. Anh Hùng lại đụng
nhẹ tay vợ lần nữa, rồi lại rút về.
Cả hai yên lặng. Rồi hình như anh
nói nho nhỏ gì đó với vợ.
Thời gian thăm gặp qua rất
nhanh. Lúc chia tay, anh
Hùng xách gói quà thăm nuôi đi thẳng
mà không ngoái nhìn người thân
như các tù nhân khác.
Chúng tôi ở tù trên
mười năm nhưng chỉ ở chung lán trại
hơn ba năm, sau đó bị phân tán đi
các trại tù khác. Dù vậy, tình bạn
giữa chúng tôi đã như ruột thịt.
Bảy năm sau, chúng tôi mới gặp lại
nhau ở trại tù Z 30, Xuân Lộc. Sau
đó, chúng tôi cùng ra tù một lần,
vào năm 1986.
Chúng tôi, hai thằng tù
trung niên mà trông đã hom hem. Tóc
đã có sợi bạc, chân tay như những
khúc xương khô. Vợ tôi và vợ
anh Hùng, sau mười năm vất vả, cũng
đã là hai chị nạ dòng đen thui,
đầu tóc, áo quần tả tơi vì suốt
ngày lê lết đầu đường xó
chợ. Hai người mua đi bán lại từng
đôi giày cũ, áo quần cũ, răng
vàng bạc vụn, đồng hồ hư, radio
hư ... Nghĩa là ai bán gì cũng mua, ai mua
gì cũng có.
Thời bấy giờ, tù về
xã hội chỉ làm được các nghề
chân tay như đạp xích lô, bán
vé số, vá xe đạp ...Tôi và anh
Hùng, mỗi người một chiếc bàn con, mỗi
cạnh hai gang tay, đặt bên lề đường,
ngồi bán vé số, kiếm tiền phụ với
vợ mua gạo. Lúc đó vợ tôi và
vợ anh Hùng mới lấy lại chút bình
tĩnh, không còn lo thất sắc mỗi ngày
vì lũ con đói.
Đầu thập niên 1990, có
chương trình tù cải tạo được
đi Mỹ. Gia đình tôi và gia đình
anh Hùng đến cùng tiểu bang Virginia nhưng
khác thành phố, cách nhau hơn hai giờ
lái xe. Bước chân đến xứ người
với hai bàn tay trắng, chúng tôi phải
làm gấp đôi
người khác, vì lao động chân
tay, lương hướng chẳng bao nhiêu. Sáng
sớm đã ra khỏi nhà, khuya mới về.
Chúng tôi chỉ gọi điện thoại
trò chuyện, hỏi han nhau mà thôi. Tôi
không còn để ý đến chuyện
xưa của vợ chồng anh Hùng, cũng không
bao giờ kể cho vợ tôi nghe. Đàn bà
bép xép, một chuyện kỳ lạ như thế
thì không bà nào để yên trong bụng
được.
Hơn bảy năm ở xứ Mỹ,
vài đứa con của gia đình tôi
và gia đình anh Hùng đã tốt nghiệp
đại học, có việc làm, phụ với
cha mẹ lo cho các em nên chúng tôi
đã bớt giờ
làm việc, có dịp thăm viếng nhau. Bao
nhiêu năm mới gặp lại, thấy anh Hùng
khỏe mạnh, hồng hào hơn trước, chị
vợ cũng mập tròn, mặt mũi tươi
rói, gặp lại vợ tôi như gặp cố
nhân, hai người tíu tít hỏi han, chuyện
trò vui vẻ. Nơi xứ người bơ vơ
nên chúng tôi coi nhau như anh em một nhà.
Đột nhiên, một buổi tối,
khoảng mười giờ, điện thoại reo, vợ
tôi bắt máy rồi la lên.
- Sao? Chị nói sao? Anh Hùng bị
gì mà đưa vô bịnh viện cấp cứu?
Chị nói chuyện với ông xã em. Em run
quá!
Vợ tôi đưa điện thoại
cho tôi.
- A lô! Anh Hùng bị gì vậy
chị?
Bên kia đầu giây, giọng vợ
anh Hùng hốt hoảng.
- Không hiểu sao. Ăn tối xong ảnh
ngồi xem TV. Thình lình, ảnh kêu "Đau
đầu quá!" rồi gục xuống bất tỉnh.
Em gọi xe cứu thương đến đưa
vô bịnh viện. Hiện em đang ở phòng cấp
cứu. Ảnh chưa tỉnh. Em rối trí quá!
Không biết mình phải làm gì
đây?
- Chị báo cho sắp nhỏ biết
chưa?
- Dạ rồi. Nhưng đứa gần
nhất cũng phải năm giờ lái xe, đứa
ở xa, sáng mai mới đi máy bay về.
- Ảnh không sao đâu. Chị
bình tỉnh. Đưa vô bịnh viện là
yên tâm.Tụi tôi sẽ đến ngay bây
giờ. Lên xe, chúng tôi sẽ nói chuyện
sau. Nhớ là phải bình tỉnh. Hai giờ nữa
chúng tôi sẽ đến bịnh viện.
Ban đêm, xa lộ 95 không đến
nỗi kẹt xe. Từ Richmond hướng về
thành phố Falls Church, phía bắc tiểu bang, gần
hai giờ, chúng tôi đã có mặt tại
bịnh viện. Bịnh viện về đêm thật
yên tĩnh. Theo sự hướng dẫn của
nhân viên trực, chúng tôi đi rất nhẹ
dọc hành lang để tìm phòng hồi sức.
Anh Hùng nằm trên giường
với đủ thứ dây nhợ, ống trợ thở
nối với dàn máy sát tường. Một
cái máy điện tâm đồ với lằn
sóng xanh chạy đều đều, yếu ớt. Chị
Hùng quì bên cạnh, nắm tay chồng,
thì thầm.
- Anh cố gắng nghe em nói. Em chỉ
nói một câu thôi.
Em không nói được cho anh nghe thì
em đau khổ suốt đời, ân hận suốt
đời. Anh có thương em không? Thương
em thì nghe em nói. Nghe anh! Tội nghiệp em mà
anh ...
Chúng tôi đứng bên cạnh
mà chị vẫn không hay biết. Vợ tôi
cúi xuống vỗ nhẹ vai chị, chị quay lại,
đứng lên, ôm vợ tôi, nước mắt
trào ra.
- Ảnh không nghe em nói! Ảnh
không biết gì nữa. Sao em ngu quá? Không
nói khi ảnh còn khỏe mạnh. Mà
thình lình, ảnh bị như vầy ...
Chị nói lảm nhảm như
người mất trí. Vợ tôi không hiểu
gì cả nhưng vẫn vỗ về, nhỏ nhẹ.
- Ảnh không sao đâu. Em biết,
nhiều người bị như vậy, sẽ tỉnh lại.
Chị đừng lo. Bác sĩ nói sao?
- Bác sĩ nói ảnh bị xuất
huyết não, đang chuẩn bị, sẽ mổ ngay.
Em sợ, người ta mổ rồi ảnh đi
luôn. Em mà không nói được cho ảnh
nghe, chắc em chết theo
để linh hồn em được gặp ảnh,
nói mấy lời ...
Vợ tôi lại nhìn tôi,
không hiểu chuyện gì quan trọng, khẩn cấp
đến độ phải nói ra cho người sắp
chết nghe. Đáng ra, chính người bịnh
mới cần trăn trối trước khi từ giả
cõi đời. Vợ tôi, biết rằng chuyện
gia đình người ta, không nên tò
mò, chỉ trấn an.
- Sáng mai, mổ xong là ảnh tỉnh
dậy, sẽ nghe chị nói. Chị yên tâm.
Bình tĩnh mà chuẩn bị tinh thần, cầu
xin Trời Phật phù hộ ảnh tai qua nạn khỏi.
Nhưng
chị ta như không nghe, cứ lảm nhảm.
- Bao yêu thương, săn sóc ảnh
giành cho em, em hiểu, em đón nhận, nhưng
sao em ngu quá, không nói cho ảnh biết em
yêu thương ảnh ...
Vợ tôi ngớ ra, tưởng chị
điên thật rồi. Vợ chồng yêu
thương nhau, đâu cần phải nói ra mới
hiểu? Chỉ mình tôi biết điều
đó. Tôi nói với chị ta.
- Xin chị bình tĩnh. Tôi sẽ
cố giúp chị xem sao. Tôi với anh Hùng
thân thiết còn hơn ruột thịt. Hi vọng,
tôi nói ảnh sẽ nghe.
Nhìn điện tâm đồ,
thấy những gợn sóng rất yếu ớt,
tôi biết, có mổ cũng rất ít hi vọng,
nhưng tôi tin, sự sống trong anh ta vẫn
còn. Tôi ra dấu cho chị Hùng đến
bên cạnh rồi cúi sát tai anh, nói chậm
rãi.
- Tôi là Nguyễn văn
Chánh, bạn anh đây. Chúng ta ở tù
chung, khi còn ở bên Việt Nam, anh còn nhớ
không? Anh cố gắng nghe tôi nói, một
điều rất quan trọng, sẽ giúp anh yên
tâm ... Nếu anh nghe được, anh chấp nhận,
xin anh chuyển động mi mắt hoặc con
ngươi của mắt anh. Vợ anh đang đứng
bên anh đây. Vợ anh nói rằng, chị chỉ
yêu thương một người duy nhất trong
đời là anh mà thôi. Anh có nghe
không, có chấp nhận không?
Mọi người im lặng, chăm
chú nhìn đôi mắt đang nhắm nghiền
của anh Hùng. Đột nhiên, đôi mi của
anh Hùng chuyển động như muốn mở ra rồi
nhắm lại. Tuy rất nhẹ nhưng mọi người
đều thấy rõ. Chị Hùng ôm chồng
khóc òa lên. Tin rằng anh Hùng có nghe
tiếng khóc của vợ nên một lúc sau
tôi mới ra dấu cho chị yên lặng, rồi
nói vào tai anh Hùng.
- Bây giờ, vợ anh, chị
Hùng sẽ nói cho anh nghe. Chị yêu thương anh từ
lúc nào. Anh cố gắng nghe vợ anh nói.
Tôi bước lùi cho chị
Hùng quì xuống, cúi sát tai chồng
và nói, từng tiếng một.
- Anh Hùng. Anh là chồng em. Em
yêu thương chỉ một mình anh. Em yêu
thương anh suốt đời. Em yêu thương
anh từ ngày đầu, từ đêm đầu,
từ giây phút đầu em trở thành vợ
anh ... Em lạy anh. Đừng giận em nghe anh! Xin anh
thương em. Em là vợ anh. Tội nghiệp em. Nghe
anh!
Nói đến đó thì
nghẹn lời, chị đứng lên lùi lại,
hai tay để lên ngực, như sợ chồng
điều gì nhưng mắt vẫn không rời
đôi mắt chồng. Mọi người nín thở
chờ đợi. Rồi đôi con ngươi dưới
hai mi mắt nhắm nghiền của anh Hùng chuyển
động nhẹ, hướng về phía chị
Hùng và dừng lại. Tôi nói với chị.
- Anh Hùng đã hiểu chị,
đã chấp nhận lời yêu thương của
chị.
Bỗng chị Hùng lảo đảo,
níu tay vợ tôi rồi ngã quị xuống, bất
tỉnh. Vợ tôi đỡ lấy chị, ngồi bệt
xuống sàn, ôm chị vào lòng. Tôi bảo
vợ.
- Không sao đâu. Bị xúc
động mạnh. Để
anh đi gọi y tá...
Thật ra, là chị ấy
đã trăn trối với chồng.
Phạm
Thành Châu
(Nguyên
Khai sưu tầm và chuyển)