Hoa Tre: Hạnh
Phúc Cuối Đời
(Tác Giả: Lý Lạc Long )
Thứ Sáu, 20 Tháng 5
Năm 2011
Xứ lạnh
vào khoảng giữa mùa xuân và giữa
mùa thu thời tiết ấm áp.
Vạn vật,
đặc biệt là thảo mộc, hình như
biết là những ngày nắng ấm sẽ qua
nhanh nên “trưởng thành”, đâm chồi,
nẩy lộc, trổ lá, đơm bông, kết
trái rất là vội vã so với thảo mộc
của miền nhiệt đới. Nếu để
ý quan sát, thì chỉ cần một
đêm thì cảnh vật chung quanh đã
đổi khác rất nhiều. Hay có lẽ
đây chỉ là cảm nhận của những
người sống nơi cực bắc của trái
đất, cũng như thảo mộc, trong lòng
luôn chờ đợi, vui đón và tận
hưởng những ngày nắng ấm. Từ
màu trắng quen thuộc, buồn bã và
chán ngấy của tuyết vây phủ bốn
phía suốt mùa đông dài thay vào
đó đủ màu sắc rực rỡ của
cỏ cây hoa lá, một sự thay đổi
mà hình như dân xứ lạnh luôn chờ
đợi và mở rộng vòng tay đón tiếp
mỗi năm.
Chiều qua,
đến thăm viếng người thầy cũ.
Nhìn khu vườn “quê hương bỏ
túi” của thầy, ngoài những giống hoa,
cây kiểng bản xứ thì còn vài chậu
mai, trúc kiểng, quỳnh … và những loại
hoa kiểng khác mà thầy và bạn bè
của thầy đã cho phép chúng “nhập
cảnh” lén, vì ở Bắc Mỹ (Mỹ,
Canada) qui định về nhập cảnh các loại
thảo mộc lạ rất chặt chẽ . Thầy
tôi, ở tuổi về hưu, nên có thì
giờ và có lẽ cũng như nhiều người
Việt sống lưu vong khác, thầy “mang theo
quê hương của mình ra đất
khách” như có thể “làm”
được. Đây là một điểm đặc
thù của dân Việt Nam mà ít có giống
dân khác giống. Chữ “quê
hương” ở đây bao gồm tập tục,
thói ở, nết ăn, tính tình, văn
hoá …
Nói chung
thì cho đến nay, trên xứ người,
thì “quê hương” mà người
Việt sống tha hương mang theo có nhiều
ưu điểm. Thí dụ như món phở,
thì đã đủ sức đương cự
với pizza của Ý, sushi của Nhật, chaomien của
Tàu … và đã trở thành một
món ăn khá “quen thuộc” với một
số dân chúng ở Mỹ, Canada và một số
nước ở Châu Âu. Cả tổng thống Mỹ
Bill Clinton cũng đã từng “xơi ngon
lành” hai tô phở và dĩa gỏi cuốn
một lượt, trong một bữa ăn. Lẽ dĩ
nhiên “quê hương” của người
Việt mang theo ở xứ người cũng không thể
tránh được khuyết điểm như vụ
“rau muống ở Florida”. Rau muống do người
Việt tỵ nạn thả trồng trong các lạch
mương của vườn riêng đã mọc
tràn lan ra các hồ nơi du lịch làm cản
trở sự đi lại của du thuyền của du
khách. Tiểu bang Florida đã phải bỏ ra
hàng triệu đô để dọn và diệt
trừ rau muống vì du khách là một trong
những nguồn thu nhập chính của tiểu bang.
Hiện nay, rau muống đã trở thành
món rau “quốc cấm” cho dân Việt ở
Florida. Và “tính đi trễ” của
người Việt trong các buổi lễ hội của
cộng đồng, đặc biệt là đi dự
đám cưới, cho đến nỗi người
ta đã có câu ví: "không say không phải Mễ,
không trễ không phải Việt Nam".
Quê
hương người Việt tha hương mang theo
là một câu truyện dài. Tôi xin trở
lại chủ ý chính của bài viết
hôm nay về hoa nói chung và đặc biệt
hoa tre. Tre một loài cây chỉ nở hoa lúc
cuối đời .
Trên
trái đất, có muôn vạn loài hoa, mỗi
loài có một nét đẹp và
hương sắc riêng. Từ trinh nữ, lan rừng
… sinh trưởng nơi hoang dã không cần
bàn tay chăm sóc cho đến những hoa hồng
rực rỡ kiêu sa trong những vườn hoa, những
chậu lan quí được chủ nhân chăm
sóc cẩn thận. Mỗi loài hoa, chúng ta biết
hay chưa biết, hình như đều ẩn chứa
một huyền thoại. Ai đã từng thức
đêm ngắm hoa quỳnh nở chắc khó dằn
được cảm xúc trước cái đẹp
của hoa quỳnh, nhìn những cánh hoa cong trắng
nõn nà, nhụy hoa điểm xuyết màu
vàng, hương hoa ngào ngạt, ngây ngất,
và chỉ qua đêm là hương sắc
đã tàn phai . Nhìn hoa sen, chợt nhận ra
lẽ vô thường của kiếp người, sự
thanh cao, trong sạch của các bậc giác ngộ
. Ai sẽ không buồn khi nhìn thấy hoa
ty-gôn, hình tim vỡ, đỏ như màu
máu và liên tưởng đến những
câu thơ của TTKH. Như người xưa một
lần qua núi, thấy hoa lau nở trắng bạt
ngàn, đã phải buông ra một câu hỏi
buồn với rặng phi lau : Sao vừa nở ra
đã vội bạc đầu thế hở lau
ơi?… Và có một loài cây chỉ nở
hoa lúc cuối đời, nở xong là chết, nở
như biết mình đã đến và sẽ
ra đi trong cuộc đời, nở như để dọn
đường giã từ sự sống. Tre và
hoa tre chết đứng chứ không rủ xuống
như bao loài hoa khác, tre và hoa như đang
thi gan cùng tuế nguyệt . Một hình ảnh
hiên ngang và bất khuất giữa trời đất
mênh mông, giữa muôn ngàn giống
loài của thảo mộc. Thản nhiên trong
cõi đi về tựa như một triết nhân
đã ngộ được chân lý về sự
sống chết của cuộc đời.
Trên thế
giới, Việt Nam không phải là một quốc
gia duy nhất có tre. Trừ Châu Âu và một
số ít vùng Châu Úc, tre gần như
có mặt ở khắp nơi. Tre có tên khoa học
là Bambysaceae, lấy từ gốc Mã Lai là
Bambu, xếp chung cho các loài tre – trúc. Ở
Việt Nam, tre mọc rất nhiều và khắp
nơi. Ngoài được trồng ở thôn
xóm, làng xã … tre còn mọc tập
trung thành rừng từ Bắc chí Nam. Tre gồm
hơn 40 loài và 15 giống khác nhau như:
Hoa, Bương, lồ ồ, gai, vầu, mỡ, nứa,
tàu, mạnh tông, tầm vông, trinh, giang, le,
trúc, là ngà v.v… Ở Mỹ, thì
có khu Vườn Tre (Bamboo Garden) của trường
Foot Hill College, thành phố Los Altos, tiểu bang
California. Khu vườn tre này có khoảng 70 loại
tre trên thế giới, từ các loại tre ở
miền nhiệt đới cho đến các loại
tre miền ôn đới . Thông thường
thì tre được trồng bằng gốc, và
một gốc tre được ươm trồng
thì hai năm đầu chỉ bén rễ, đến
năm thứ ba thì mới có măng (tre non).
Vì nhu cầu kỹ nghệ, con người
đã nghĩ cách trồng tre bằng hạt,
nhưng chu kỳ ra hoa, kết quả của tre thường
lâu: từ 5 đến 60 năm 1 lần và sau khi
ra hoa tre thường chết hàng loạt. Gần
đây, các nhà khoa học Ấn Độ
đã nghiên cứu kỹ thuật kích
thích tre nở hoa trong phòng thí nghiệm bằng
dung dịch gồm có nước dừa, muối
khoáng, đường, vitamin. Kết quả sau 15
– 20 ngày, tre đã nở hoa.
Đã
là người Việt Nam thì ai cũng biết
cây tre, nhưng tôi nghĩ rất nhiều người
không có dịp để thấy được
“tre nở hoa”. Tôi chỉ có dịp thấy
hoa tre nở một lần vào giữa thập
niên 60, những bụi tre gai ở góc vườn
hương quả của tổ tiên, bung nở từng
chùm hoa vàng nhạt như màu đất, xen
giữa màu xanh của lá tre. Tôi không nhớ
là bao lâu, những cây tre từ màu xanh dần
chuyển sang màu ngà. Cho đến một hôm
nọ thì thân tre đã khô lại. Ở
trên cao, những chùm hoa tre khô cong đong
đưa trong gió như những bàn tay đang vẫy
chào tiễn biệt. Tôi nhớ là Nội
tôi thường ra vườn nhìn những bụi
tre nở hoa và khe khẽ thở dài. Hình
như Nội đã tiên đoán một điều
gì đó sẽ xảy ra. Những năm kế
tiếp sau đó, thì chiến tranh lan tràn
đến làng tôi, bom đạn đã
làm cháy hết cả nhà cửa, vườn
tược, gia đình tôi đã phải dọn
về tỉnh ở. Từ sau 75, thì diệu vợi
quan san cách trở, tôi chưa có dịp để
trở về thăm lại khu vườn xưa, có
lẽ đã đổi chủ . Nhưng hình ảnh
của quê nhà và bụi tre nở hoa như vẫn
còn khắc đậm trong tâm trí. Ký ức
hiện về và rõ ràng như những
đoạn phim quay chậm.
Cây tre gắn
bó với dân Việt Nam tự ngàn xưa.
Tôi nghĩ đã là người Việt Nam,
dù ở đâu và làm gì, ai cũng
mang trong mình một bóng tre của quê
hương, xứ sở. Sau lũy tre làng, nơi
quây quần chia xẻ buồn vui của cuộc sống
của những cộng đồng người Việt từ
hàng bao thế hệ. Hai chữ lũy tre thường
gợi cho người nghe hình ảnh tươi
mát thân yêu của một làng quê
bên nội hay bên ngoại nào đó.
Và không biết tự bao giờ, tre đã
tham dự vào cuộc sống người Việt
như một thành tố không thể thiếu
được. Chuyện cổ tích về tre thì
cũng có nhiều như trong huyền sử Việt
Nam, có truyện Phù Đổng Thiên
Vương giúp vua đánh đuổi giặc
Ân để cứu nước và giữ nước.
Roi sắt bị gãy, Phù Đổng Thiên
Vương nhổ tre hai bên đường làm vũ
khí để đánh đuổi giặc Ân.
Hễ bụi này tan thì chàng trai làng
Gióng lại ném đi và nhổ bụi
khác. Cứ thế cho đến khi giặc tan
tác, đầu hàng, thì chàng cỡi
luôn ngựa sắt bay lên núi Sóc để
về trời. Tôi chưa được tới
thăm quê Thánh Gióng để chiêm
ngưỡng di tích huyền sử. Nhưng theo lời
kể lại, của những người đã
có dịp viếng thăm, thì hai bên
đường lên núi Sóc người ta
còn thấy những ao lớn, theo truyền thuyết
thì đây là dấu chân của ngựa sắt
để lại, và những bụi tre nghiêng ngả
tự bao đời là cháu chắt của những
bụi tre Thánh Gióng ném ngày xưa. Lại
có chuyện đời xưa kể rằng vào một
mùa Đông, khi tuyết phủ khắp mọi
nơi thì bà mẹ Mạnh Tông trở chứng
thèm măng. Mùa Đông làm gì tre
có măng, Mạnh Tông thương mẹ
quá, đành đội tuyết ra ôm gốc
tre khóc lóc năn nỉ xin một búp măng
để vui lòng mẹ. Lòng hiếu của Mạnh
Tông đã làm cảm động gốc tre
già và một mầm măng nhú lên
như phép lạ. Phải chăng tre cũng có hồn
và tấm lòng để hòa đồng
và cảm thông với con người?
Cây tre
có mặt trong truyện cổ tích , trong thi
văn, trong hội họa, trong âm nhạc. Trong
các loại nhạc khí cổ truyền của Việt
Nam thì có cây sáo trúc và cây
đàn bầu được chế tạo từ họ
nhà tre, rẻ tiền, dễ kiếm , cấu
trúc đơn giản nhưng âm thanh lại cực
kỳ phong phú. Cái khèn của dân miền
núi, cái đàn t’rưng cũng từ tre
mà ra. Cái mõ ở chùa làm bằng gỗ,
thường là gỗ mít, nhưng cái
mõ của làng lại làm bằng tre. Dù
trong thời buổi kỹ thuật tân tiến hiện
đại, tre vẫn là hình ảnh một
thành tố quen thuộc thân yêu gắn bó
với dân Việt. Hình ảnh là cái
đòn gánh bằng tre nhịp nhàng
đàn hồi theo bước đi làm nhẹ vai
cô thôn nữ gánh nước từ bến
sông, gánh hàng ra chợ bán. Hình ảnh
chiếc nón lá với mười sáu
vành tre che nắng, che mưa của những người
mẹ Việt tảo tần ngược xuôi, lo lắng
sinh kế để nuôi đàn con khôn lớn.
Hình ảnh duyên dáng của những cô
gái Việt bẽn lẽn, e ấp dấu nụ
cười duyên với người tình dưới
chiếc nón lá “bài thơ” . Như
nhiều dân tộc Á Đông khác chịu
ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa, Tết
Nguyên Đán của ta cũng bắt nguồn từ
- phuơng bắc, nhưng với cây nêu tre và
bánh chưng, bánh tét (buộc với lạt
giang – giang cũng thuộc vào họ nhà tre -
) thì Tết Nguyên Đán đã trở
thành Tết Việt Nam . Kể sao cho hết những
đóng góp của tre cho đời sống của
dân Việt từ ngàn xưa đến nay. Tre thủy
chung một mối tình vĩnh cửu với người
dân Việt. Tre lặng lẽ hiến dâng cho đời
và hy sinh tất cả. Trong hành trình dâng
hiến của mình, tre dâng tặng con người
âm thanh từ máu thịt của nó. Tre tạo
nên tiếng sáo trúc như tiếng
Trương Chi đã làm điêu đứng
Mỵ Nương, người con gái cành
vàng lá ngọc. Tre tạo nên cây
đàn bầu khiến cả thế giới phải
nghiêng mình trước ngón độc huyền
của dân Việt. Tre là vũ khí giúp
dân Việt chống đuổi ngoại xâm giữ
gìn bờ cõi. Tre lại còn là thực
phẩm ngon cho con người (măng tre).
Trong ký ức
tuổi thơ của tôi, thì đầy ắp những
kỷ niệm với tre, ống thụt bằng trúc,
cần câu cắm bằng tre gai, cần câu cá
sông thì bằng trúc, sườn diều bằng
tre hay trúc … Và nhớ luôn cả cái
ngu lúc còn đi học khi đọc bài ca
dao “Lính Thú Đời Xưa” và
dõng dạc “tuyên bố” giữa lớp
là : "bài ca dao trật vì cây mai
làm sao có măng?" Đến nỗi ông thầy
dạy Việt văn phải bật cười . Vì
trong thực tế, ở ngoài Bắc, có một
loại tre cũng được gọi là
“mai” .
“Ba năm trấn thủ lưu
đồn,
Ngày thời canh điếm, tối
dồn việc quan.
Chém tre, đẳn gỗ trên
ngàn,
Hữu thân hữu khổ, phàn
nàn cùng ai?
Miệng ăn măng trúc, măng
mai,
Những giang cùng nứa, lấy ai
bạn cùng?
Nước giếng trong, con cá
nó vẫy vùng!”
Và khi đọc
câu ca dao ví von về khó khăn :"Nhất
đốn tre, nhì ve gái” thì tôi
đã hết hiểu nổi luôn, nhưng im thin
thít. Vì ở vào cái lứa tuổi
đó (lớp 6, lớp 7) thì “dù nhất
quỷ nhì ma, thứ ba học trò”, nhưng
“ve gái” là một chuyện, ở
vào lứa tuổi đó, hầu hết
chúng tôi đều xem đây là một
chuyện khó khăn nhất. Mãi sau này lớn
lên, và có dịp xem đốn tre và kỹ
thuật cần thiết để bảo đảm an
toàn cho người đốn thì tôi mới
hiểu. Vì đốn tre không đúng kỹ
thuật thì người đốn có thể bị
thương hay mất mạng do “sức bật”
của cây tre bị đốn. Còn “ve
gái” thì cùng lắm là bị cho
“de” hay tệ hơn là bị cho “ăn guốc”.
Theo luận
án của võ sư Nguyễn văn Sen, môn
phái Vovinam, Việt Võ Đạo: "Theo quan niệm
đông phương, tre – trúc tượng
trưng cho mẫu người quân tử. Cứng
mà mềm mại, đổ mà không gãy,
lòng rỗng không, biểu tượng cho tinh thần
và khí độ an nhiên tự tại,
không mê đắm quyền vị, vật chất
của mẫu người quân tử Á
Ðông. Trúc hợp với Mai để làm một
cặp biểu trưng thể hiện phẩm tính
Âm – Dương, Cương - Nhu, nói lên
tình cảm và hào khí dân tộc Việt.
Một dân tộc có tiết tháo, phẩm hạnh
vừa kiêu hùng, vừa quân tử. Ngoan cường
nhưng hiếu hòa, độ lượng.”
Và "bắt nguồn từ các quan điểm trên,
nhưng phong phú hơn, Vovinam Việt Võ Ðạo
quan sát cây tre ở nhiều góc độ
để xây dựng một con người vừa cao
quí như một bức tượng thần để
chiêm ngưỡng, là mục đích để
noi theo, đồng thời cũng là một con người
bình thường gần gũi, hòa nhập với
cộng đồng để mưu tìm hạnh
phúc bình dị, chấp nhận mọi hoàn cảnh,
mọi mẫu người. Coi đó như một tất
nhiên và hóa giải các tất nhiên
đầy mâu thuẫn bằng nguyên lý
cương nhu phối triển. Cho nên, TRE còn
là biểu tượng cho yếu lý võ thuật.”
Tóm lại,
nếu "người ta là hoa của đất"
như tục ngữ nói, và tùng bách
là biểu hiện của người quân tử ẩn
dật, thì tre là biểu tượng của
người
quân tử dấn thân.
Từ khi sinh ra, tre đã sống và trả nghĩa
cho đất cho người. Khi tre nở hoa cũng
là lúc tre giã từ cuốc sống. Một
cái chết hùng tráng, không cho người
cảm giác bi ai, não nùng của sinh tử biệt
ly. Tre nở hoa trước khi chết. một cách
đi vào cõi chết rất đẹp, ung dung tự
tại tựa như một triết nhân đã
giác ngộ chân lý về lẽ sống chết
của cuộc đời.
Chúng ta
là hoa của đất đang đi những trên
con đường đầy hoa trong cuộc sống. Muốn
vội vàng thì cứ vội vàng, muốn la
cà thì cứ la cà, muốn dùng dằng
thì cứ dùng dằng, muốn vương vấn
bước chân thì cứ vương vấn
… Trời đất vần xoay, vạn vật biến
chuyển, có lúc nào đường sẽ
không hoa chăng? Có hoặc không, chắc
không ai có thể trả lời cho bạn và
tôi. Thôi thì cứ dấn thân vào vạn
nẻo đường đời gần xa của cuộc
sống và tự mình tìm cho mình câu
trả lời.
Chúc bạn
và tôi một cuối tuần vui !
Lý Lạc
Long
(Trịnh Thị Kiều Diễm
sưu tầm và chuyển)