Tiếng Lóng
SàiGòn:
Có Thể Bạn
Chưa Biết
(Tác Giả:
Lê Văn Sâm)
Một thời, một nơi chốn nào
đó, trong đời sống ngôn ngữ dân
gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một
số thành ngữ, một câu hát nhại theo
câu hát chính phẩm, hầu hết là
để châm biếm, tạo nên nụ cười,
hay có khi là để răn đe, tìm sự
hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống
một thời rồi tự biến mất, nhường
chỗ cho đoạn đời “tiếng
lóng” khác đến thay thế. Do
đó, việc ghi chúng lại để đọc
vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học
dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ
định vị địa lý và thời gian.
Tỷ như Sài Gòn vào thập
niên 60, thịnh hành một chùm tiếng
lóng “sức mấy” để thay nói bất
lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến
nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm
đề tài cho một bài hát đường
phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ
đi Tám”.
Những câu chuyện thuộc loại tiếng
lóng đó xuất hiện vào thời buổi
Sài Gòn bị tạm chiếm, Tây - Mỹ nhiễu
nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền;
“sức mấy” đã trở thành
bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận
trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản
xuất còi ôtô đã chế ra một
điệu còi ôtô, bấm còi là
kêu vang trên phố một dòng nhạc còi
auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè
ti tè ti té”, làm cho đường phố
càng náo loạn hơn.
Trước đó cũng từ bài ca Diễm
xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra cụm
từ tiếng lóng “xưa rồi Diễm
ơi”, mỗi khi có ai lặp lại một
đòi hỏi nào đó, mà người
nghe muốn gạt phăng đi.
Thời các vũ trường mới du nhập
Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp
Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức
người điều phối nhóm vũ nữ, bằng
tiếng bóng “Cai gà”, gọi cảnh
sát là "mã tà", vì police (cảnh
sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là
matraque, đọc trại thành “mã
tà”. Cũng từ thời thuộc địa, tiếng
Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất
nhiều như: “gác-dang” tức thuê
người làm bảo vệ; tiếng Pháp gardien
đọc trại ra thành gác-dang. Cũng như
nói “de cái đít” tức lùi xe
arriere; tiền bồi dưỡng người phục vụ
tiếng Pháp: pour-bois âm bồi gọi “tiền
boa”, sau này chế ra là “tiền bo”.
Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn
có nhiều cách nói mà đến nay
không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi
ngân hàng là nhà băng, gọi sở
bưu điện là nhà dây thép, mua tem
dán bao thư gọi là “con cò”,
còn nếu gọi “ông cò” là chỉ
cảnh sát trưởng mấy quận ở
thành phố, gọi “thầy cò” tức
là các ông chữa morasse các tòa
báo do chữ correcteur, nhưng nói “cò mồi”
là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền
cò” thì cũng giống như “tiền
bo”, nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch
vụ môi giới.
Thời kinh tế mới phát triển, đi xe
auto gọi là đi “xế hộp”, đi xe
ngựa gọi là đi “auto hí”, đến
thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp
gọi là “xe điếc”, đi nghỉ
mát Vũng Tàu gọi là “đi cấp”,
đi khiêu vũ gọi là “đi bum”,
đi tán tỉnh chị em gọi là đi
“chim gái”, đi ngắm chị em trên phố
gọi là “đi nghễ”, gọi chỉ
vàng là “khoẻn", gọi quần là
“quởn”, gọi bộ quần áo mới
là “đồ día-vía”. Đi chơi
bài tứ sắc các bà gọi là
“đi xòe”, đi đánh chắn gọi
là “múa quạt”, đi chơi bài mạt
chược các ông gọi là “đi
thoa”, đi uống bia gọi “đi nhậu”,
đi hớt tóc gọi đi “húi cua”.
Có một cụm tiếng lóng từ Huế khoảng
1920 - 1950 du nhập Sài Gòn, đó là
“đi đầu dầu”, tức các
chàng trai ăn diện “đi nghễ” với
đầu trần không mũ nón, để
cái mái tóc chải dầu brillantine láng
cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi
là “hết xẩy”, quê mùa chậm chạp
gọi là “âm lịch", hách dịch tự
cao gọi là "chảnh".
Tiền bạc gọi là "địa",
có thời trong giới bụi đời thường
kháo câu "khứa lão đa địa"
có nghĩa ông khách già đó lắm
tiền, không giữ lời hứa gọi là
"xù", "xù tình", tức cặp bồ
rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là
"bắt địa", ăn cắp là
"chôm chỉa", tương tự như
"nhám tay" hay "cầm nhầm" những thứ
không phải của mình.
Ghé qua làng sân khấu cải
lương hát bội, người Sài Gòn gọi
là làng "hia mão", có một số
tiếng lóng người ngoài làng có khi
nghe không hiểu. Tỷ như gọi "kép chầu",
có nghĩa là đào kép đó tuy cũng
tài sắc nhưng vì một lý do nào
đó không được nhập biên chế
gánh hát, đêm đêm họ cũng
xách valise trang phục phấn son đến ngồi
café cóc trước rạp hay túc trực
bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ
có đào kép chính nào trục trặc
không đến rạp được, thì
kép chầu thay thế vào ngay. "Kép chầu"
phải thuần thục rất nhiều tuồng để
đau đâu chữa đó.
Đào chính chuyên đóng vai sầu
thảm gọi là "đào thương",
kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi
là "kép độc". Có một cụm
tiếng lóng xuất phát từ hai nơi, một
là cải lương rạp hát, hai là quanh
các tòa soạn báo chí, đó
là "café à la ... ghi” tức uống
café thiếu ghi sổ ...
Vào làng báo mà tiếng lóng
người Sài Gòn xưa gọi "nhật
trình". Nếu thiếu tin lấy một tin cũ
nhưng chưa đăng báo để đăng lấp
chỗ trống, gọi là "tin kho tiêu”,
các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ
quê ra tỉnh gọi là "tin chó cán
xe", tin quan trọng chạy tít lớn gọi
là "tin vơ-đét" vedette, nhặt từ
tài liệu dài ra thành một bài gọn
gọi là “luộc bài", chắp nhiều
thông số khác nguồn ra một bài gọi
là "xào bài", truyện tình cảm
dấm dớ gọi là "tiểu thuyết 3
xu", các tạp chí bình dân xoi mói
đời tư gọi là "báo lá cải".
Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất
thiệt, lóng gọi là "tin phịa",
nhưng trong "tin phịa" còn có hai mảng
chấp nhận được đó là loan tin
thăm dò có chủ đích, lóng gọi
là "tin ballons" tức thả quả bóng
thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ
được xuất hiện vào đầu
tháng tư, gọi là "tin Cá tháng
Tư".
Có đến bảy tiếng lóng để
thay cho từ chết. Đó là "tịch",
"hai năm mươi", "mặc chemise gỗ",
"đi auto bươn", "về chầu diêm
chúa", "đi buôn trái cây" hay
"vào nhị tỳ”, "nhị tỳ" thay
cho nghĩa địa và "số dách" thay
cho số một ... đều ảnh hưởng từ
ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập
cư.
Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp
của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh
hành, người Sài Gòn đã chế ra
nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi
là "vòng vo Tam Quốc", ai nói chuyện
phi hiện thực gọi là "chuyện Tề
Thiên", tính nóng nảy gọi là
"Trương Phi". Một số tên nhân vật
điển hình của Kim Dung được dùng
để chỉ tính cách của một người
nào đó. Tỷ như gọi ai là "Nhạc
Bất Quần" tức ám chỉ người ngụy
quân tử, gọi là "Đoàn Chỉnh Thuần"
tức ám chỉ đàn ông đa tình
có nhiều vợ bé ...
Sài Gòn là đất của dân nhập
cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn
phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong
phú, trong đó tiếng lóng cũng
"ăn theo" mà ra đời.
Thời Mỹ đến thì một tiếng
"OK Salem", mà các trẻ bụi đời vừa
chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu
thuốc. Thời gọi súng là "sén"
hay "chó lửa", dân chơi miệt vườn
gọi "công tử Bạc Liêu" còn hiểu
được, Sài Gòn xuất hiện cụm từ
"dân chơi cầu ba cẳng" thì thật
không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng
có tên Pallicao, lêu nghêu 3 cẳng cao như
dáng vẻ cowboy trong các phim bắn súng,
nên mới gọi "dân chơi cầu ba cẳng"?
Đó cũng là lúc các tiếng
lóng như "dân xà bát", "anh chị
bự", "main jouer" tay chơi ra đời, chạy
xe đua gọi là "anh hùng xa lộ", bị
bắt gọi là "tó", vào tù gọi
là "xộ khám”. Bỏ học gọi
là "cúp cua", bỏ sở làm đi
chơi gọi là "thợ lặn", thi hỏng gọi
là "bảng gót". Cũng do scandal chàng
nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là
ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại
tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ
đó "đi ăn chè" trở thành tiếng
lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại
ô.
Cũng có một số tiếng lóng do
nói lái mà ra như "chà đồ
nhôm" tức "chôm đồ nhà”,
"chai hia" tức chia hai chai bia bên bàn nhậu,
nó cùng họ với "cưa đôi”.
Lóng thời sự loại này có "tô
ba lây đi xô xích le" tức "Tây ba
lô đi xe xích lô". Trong tiếng lóng
còn chất chứa ân tình. Họa sĩ
chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài
lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than
"buồn như chấu cắn", hay có người
than phiền vì câu né tránh trách nhiệm
với hai tiếng "lu bu" để thất hứa,
nay còn có người nhấn thêm "lu xu
bu" nại lý do không rõ ràng để
trốn việc. Để tạm kết thúc phần
dẫn này, tôi muốn nhắc một số
âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo
chân người Hà Nội vào Nam rồi trở
thành tài sản chung của người Việt.
Bắt quả tang thành "quả tó", gọi
chiếc xe Honda là "con rim", gọi tờ giấy
100USD là "vé", đi ăn cơm bình
dân gọi là "cơm bụi", xuống phố
dạo chơi gọi là "đi bát phố",
gọi người lẩm cẩm là "dở
hơi"...
Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ
cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài
Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại
thay cho cụm từ đi ăn nhà hàng theo
American style - tiền ai nấy trả. Đó là cụm
lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của
"không - ai - mời - ai". Đi KAMA phở một
cái, tức cùng đi ăn phở mà
không ai mời ai, món ăn cổ truyền
nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời
văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh
trở thành phổ biến, giới trẻ
đã chế ra một tiếng khá văn hoa,
như chê một ai đó chảnh, các cô
nói "lemon question" tức chanh hỏi - chảnh.
LÊ VĂN SÂM
(Diễm
Trinh sưu tầm và chuyển)