Rắn
trong đời
sống
và văn hóa Việt
Nam
Từ thời cổ xưa rắn
được xem như biểu tượng linh thiêng.
Theo thần thoại Phật
giáo, mỗi khi Đức Phật ra khỏi hang trong tư
thế "Tham thiền nhập định" th́ lập
tức có bầy rắn hổ mang tụ tập quanh, chúng
phồng mang chụm đầu che nắng cho Người.
Cơ Đốc giáo lại
coi rắn là hiện thân của quỷ Sa Tăng đă quyến
rũ bà EVA ăn quả táo cấm khiến con cháu về
sau mắc tội.
Chữ tượng h́nh của
người Ai Cập cổ xưa cũng có biểu tượng
con rắn. Trong ngôi đền Cơ-nốt-xốt ở
đảo Cretơ có bức tượng nữ thần rắn
nổi tiếng.
Trung Quốc đất nước
có hơn một phần sáu dân số thế giới đă
có chuyện Hán Cao Tổ chém rắn khởi nghĩa, dựng
nghiệp.
Việt Nam, Campuchia đều
có chuyện những anh hùng chém măng xà tinh trừ hại cho
đời (Rắn Naga, Thạch Sanh-Lư
Thông). Người ta c̣n t́m thấy h́nh rắn ngậm chân
voi trên cán dao găm Làng Vạc, một di sản của
người Việt cổ. Nhiều địa
phương có đền, có miếu thờ rắn (Đền
thờ Đức Ông Hoàng Xà) .. Rồi những chuyện ly
kỳ rắn báo oán, rắn hai đầu, rắn thần,
rắn thánh gọi phun mưa giúp mùa màng bội thu.
Ở Ấn Độ người
ta c̣n thổi sáo cho rắn hổ mang nhảy múa theo điệu
nhạc để du khách xem. Thái Lan, Lào có những gánh xiếc
mà "diễn viên" là trăn và rắn, khách thập
phương, khách du lịch rất thích thú.
Câu cửa miệng "theo
đóm ăn tàn" chỉ là chuyện rắn hổ lửa
nhầm lẫn các tia hồng ngoại phát ra từ đốm
lửa gần tàn với các tia hồng ngoại b́nh thường
vẫn phát ra từ thân thể ấm áp của chuột
đồng là mồi ăn
ưa thích của rắn.
Thế kỷ 18 vua Gia Long
đưa Pháp vào xâm lược nước ta bị người
đời coi là "cơng rắn cắn gà nhà". Những
kẻ trong bụng cực kỳ nham hiểm, thâm độc
mở miệng là nói toàn chuyện ân nghĩa cũng
được người đời gán cho cái biệt
danh "tâm xà khẩu phật". "Miệng người
nọc rắn" câu nói dân gian lưu truyền để
chỉ những miệng lưỡi thâm độc, những
phát ngôn bừa băi gieo oan rắc họa cho người khác.
Đất Vĩnh Châu bên Trung
Quốc về thời nhà Đường có giống rắn
ḿnh đen vằn trắng rất độc, nó gặm vào
cây cỏ, cây cỏ chết liền, cắn người,
người không thuốc ǵ cứu nổi, nhưng dùng làm
thuốc sát trùng và trị các chứng phong rất công hiệu.
V́ thế nhà vua ra lệnh bắt dân mỗi năm phải
hiến 2 con rắn để dành. Dân địa
phương thi nhau bắt rắn. Có gia đ́nh ông nội
chết v́ bắt rắn. Cha cũng chết v́ rắn, bản
thân mấy lần suưt chết mà không bỏ nghề bắt
rắn. Hỏi th́ trả lời : "Ngài thấy không, tôi
làm nghề này 1 năm chỉ sợ chết 2 lần, chớ
đâu đến nỗi như người làng tôi hết
ngày này sang ngày khác, lúc nào cũng bị khốn khổ v́
quan lại tàn ác. Giá tôi có chết v́ rắn th́ so với kẻ
xung quanh vẫn thấy c̣n thọ hơn ..". Thế mới biết bọn quan lại
tham ô c̣n ác hơn rắn độc.
Lại những kẻ nhút nhát đớn hèn, tuyệt không
có chí tiến thủ, không biết đấu tranh chống
lại cái các bảo vệ chính nghĩa suốt đời
co ḿnh cầu an th́ câu "len lét như rắn mồng
năm" cũng c̣n chưa đáng.
Viết về rắn, văn
chương tự cổ chí kim cũng có rất nhiều.
Lê Quư Đôn nhà bác học Việt Nam thế kỷ 18 làm bài
thơ tạ lỗi với cha mà trong đó có tên rất nhiều
loài rắn.
Chẳng
phải liu điu cũng giống nhà
Rắn đầu biếng học lẽ không tha
Thẹn
đèn, hổ lửa đau ḷng mẹ
Nay
thét, mai gầm rát cổ cha
Ráo mép chỉ
quen tuồng lếu láo
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da
Tết
nay Trâu Lỗ
xin siêng học
Kẻo
hổ mang danh tiếng thế
gia !
(Năm Rắn, đọc
lại bài thơ RẮN ĐẦU BIẾNG HỌC của
LQĐ)
Người Việt Nam có truyền
thống "lá lành đùm lá
rách" thương yêu giúp đỡ lẫn nhau những
khi hoạn nạn, thiên tai dịch họa như câu ca dao:
"Đôi
ta như rắn liu điu
Nước
chảy mặc nước ta d́u lấy nhau"
Cổng
TT-GTĐT
sưu
tầm
(@ Internet)