Mùa
Xuân kể chuyện chim Quốc
(Hoàng
Long Hải)
Mỵ Châu có hai tội: Phản
quốc, làm tay sai cho giặc, và phản lại gia đ́nh,
nói rơ hơn là phản lại cha, vua Thục, khiến Thục
Phán phải rút gươm tự tử. Cả hai cái tội
đó không có chủ ư, chẳng qua v́ thương chồng,
Trọng Thủy, rồi bị Trọng Thủy lường
gạt.
Lịch sử nhân loại, từ
thượng cổ cho tới bây giờ, không thiếu ǵ mỹ
nhân kế. Đàn ông thường hiếu sắc, dễ
rơi vào cái bẫy của giai nhân, rồi bị hại, kể
ra th́ cũng .. đáng đời. Một cô Mata Hari, nổi
tiếng bên trời Âu trong thế giới chiến tranh thứ
Hai, khiến nhiều người khâm phục. Nhưng
đàn bà mà rơi vào cái "nam nhân kế" như Mỵ
Châu, nếu không lạ đời th́ cũng ít có trong thiên hạ.
Đàn ông v́ đàn bà mà tiêu đời, ít ai thương,
nhưng trường hợp cái chết của Mỵ Châu,
cũng không ít người thương.
Chuyện dùng nhan sắc
đàn bà mà làm địch vận, không mấy ai chê.
Nhưng dùng đàn ông mà làm địch vận, như
trường hợp Trọng Thủy, đâu thấy có ai
khen. Dùng nhan sắc mà lung lạc đàn ông là chuyện
thường t́nh, nhưng lợi dụng ḷng thương
chồng của một người đàn bà để
mưu cầu chiến thắng, như trường hợp
cha con Triệu Đà, chẳng "vinh quang" chút nào,
đâu thấy ai khen hay!
Hành động như Triệu
Đà là quá tàn nhẫn: Cho quân xâm lăng Âu Lạc, sau khi lấy
được cái lẫy nơ, nhắm bộ vua Triệu
không biết làm như thế là cố ư, - cố ư chứ
không phải vô t́nh, v́ biết mà cứ làm là có chủ ư, - là
giết Mỵ Châu hay sao ?! Triệu Đà không quan tâm đến
cái chết-sống của Mỵ Châu! Nhưng Triệu không
ngờ hành động xâm lăng ấy lại giết luôn
cả con trai ông ta, Trọng Thủy. Ông Triệu không biết
Trọng Thủy yêu vợ và chung t́nh với vợ đến
như vậy, thành ra ông Triệu giết luôn cả con trai
ḿnh.
Nh́n lại, cái tham vọng của
bọn vua chúa, - ngày xưa, - và bọn cầm quyền ngày
nay thật là đáng sợ, không có cái ǵ mà chúng không muốn
làm, không dám làm, dù giết luôn vợ con. Về mặt táng tận
lương tâm nầy, người Tàu ít chịu thua ai!
Mỵ Châu lấy cái chết
mà trả món nợ phản bội ấy, làm mất nước
và giết cha, dù không phải Mỵ Châu tự ḿnh t́m lấy
cái chết, mà bằng cái vung gươm giận dữ của
vua Thục, nghĩ cũng là đáng tội cho cô ấy.
Nhưng dù chết rồi, ḷng chung thủy của Mỵ
Châu vẫn không thay đổi, vẫn một ḷng với chồng.
Những con trai ở biển Mộ Dạ, ăn những
giọt máu của Mỵ Châu chảy xuống biển, rồi
nếu ai đem cái hột trai của những con trai ấy,
rửa bằng nước giếng ở thành Cổ Loa,
nơi Trọng Thủy tự tử để chuộc tội
với vợ, th́ hột trai đó sáng hẳn lên.
Tại sao sáng hẳn lên mà
không tối đi. Nó phải tối đi v́ ba cái chết của
ba nhân vật lịch sử trong câu chuyện nầy mới
đúng chứ: Thục Phán, Mỵ Nương và Trọng Thủỵ
Ba cái chết làm u ám cả bầu trời, cả ḷng
người mà tại sao hột trai lại sáng lên?
Sáng lên là v́ ḷng chung thủy đấy. "Lấy máu xương mà
trả nợ núi sông" là trường hợp ông vua Thục.
Sáng lên v́ ḷng chung thủy của Trọng Thủy và Mỵ
Nương, c̣n hơn nợ t́nh Lan và Điệp, lấy
cái chết mà trả cho nhau.
Tôi làm giáo sư môn "Văn
chương B́nh Dân" (Bây giờ trong nước gọi
là "Văn học Dân gian") mười năm,
nghĩa là tôi dạy cho học tṛ chuyện cổ tích, chuyện
thần thoại, v.v.. Tôi thấy một điều rất
kỳ lạ và thích thú. Ấy là cái trí tưởng tượng
của người xưa. Trong đời thực làm ǵ có
chuyện trái tim Trương Chi hóa đá, làm ǵ có chuyện
khi giọt nước mắt của Mỵ Nương nhỏ
xuống chén trà v́ thương cho mối t́nh tuyệt vọng
của Trương Chi, th́ chén trà vỡ tan ra thành nước,
ḥa cùng giọt nước mắt của Mỵ
Nương. Cũng như câu chuyện t́nh trên đây, làm ǵ
có con trai nào ăn giọt máu của Mỵ Châu để
đem cái hột ngọc rửa với nước giếng
trong Loa Thành th́ ngọc sẽ sáng lên.
Chẳng qua là do tưởng
tượng cả. Sự tưởng tượng nói lên
ḷng thủy chung của t́nh yêu, của vợ chồng.
Văn học thế giới cũng không thiếu chi chuyện
thủy chung về t́nh yêu, về chồng vợ như chuyện
cổ tích của ta, nhưng chuyện Tây phương, ở
phần kết thường kèm theo gươm đao, máu me
và thuốc độc. Chuyện của tổ tiên chúng ta ít
máu mà lại nhiều nước mắt hơn, hoặc vui
tươi hạnh phúc cho cả hai vợ chồng "cùng
bay lên trời" như chuyện Chử Đồng tử
và công chúa Tiên Dung. Chuyện của ta nhân hậu hơn nhiều.
Có phải đó là do bản sắc dân tộc?!
Tàn một cuộc chiến, ai
được, ai thua?
Triệu Đà được!
Nhưng ḍng họ Triệu nầy làm vua thêm được
bao lâu nữa? Một trăm năm sau, kể từ năm
208 trước Tây Lịch là năm vua Triệu chiếm Âu
Lạc của vua Thục, đến năm 111 trước
Tây Lịch, nhà Triệu bị nhà Hán tiêu diệt, nước
Việt bắt đầu thời kỳ nô lệ một
ngàn năm. "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu" -
(Trịnh Công Sơn).
Cái được, thua đó,
người đời sau ghi lại khi đọc sử:
Đọc Sử
Giải bể ngàn đông bụi tít mù
Trải qua chớp mắt mấy ngàn thu
Thành Loa vừa thấy xây vua Thục
Ải Lạng quanh co đuổi giặc Ngô
Giấc mộng chẳng lâu mà chẳng chóng
Cuộc đời ai được lại
ai thua
C̣n non, c̣n nước, c̣n thư thả
Chén rượu Trung Sơn hăy gật gù.
(Nguyễn Đỉnh Ngọc)
Chu Mạnh Trinh, vốn là một
"khách phong lưu đa t́nh", xúc cảm sâu sắc
hơn khi nghĩ đến "phụ tử t́nh thâm"
và mối t́nh của Mỵ Nương dành cho chồng:
Cổ Loa hữu cảm
Lang quân t́nh trọng phụ ân thâm
Bất bạch kỳ oan trực đáo câm
Cơ trảo vô linh qui diệc khứ
Minh châu hữu lệ bạng do trầm
Hoàng bi cổ thụ thiên niên quốc
Bích hải dao thiên nhất phiến tâm
Tịch mịch tiên triều cung ngoại miếu
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt
âm âm
Tiên đàm dịch:
T́nh chàng dù nặng nghĩa cha sâu
Ôm ấp oan kia đến tận đâu
Nơ thiếu móng thiêng rùa lẩn bóng
Trai ch́m đáy nước lệ hoen châu
Bia tàn cây cỗi ngh́n thu hận
Bể biếc trời xa một mối sầu
Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt
Trăng mờ khắc khoải quốc kêu
thâu!
Có lẽ với những
người hoài cổ, thích nhất là hai câu cuối của
bài thơ nầy.
Với mỗi cá nhân, việc
được thua không có ǵ quan trọng. Tiền tài, danh vọng,
có nghĩa ǵ cho một đời người ? Ai cũng
biết thế cả. "Càng nhiều danh vọng
càng dày gian nan". Lời ca của Nguyễn
Văn Đông trong bài "Chiều mưa biên giới": "Ḷng
trần c̣n tơ vương khanh tướng, th́ đường
trần mưa bay gió cuốn c̣n nhiều
.." không làm cho ai mơ "công hầu khanh tướng"
suy nghĩ hay sao ?
Nhưng vận nước th́
người ta không thể dửng dưng.
Quả thật là không?
Sau khi chết, vua Thục hóa
thành con chim Quốc. Khi đó, ông tiếc ngai vàng, cứ
đêm này qua đêm nọ, suốt năm canh, con chim cứ
chữ "Quốc" mà gọi. Nhưng hàng trăm
năm sau nữa, cái tiếng "khoắc khoải sầu
đưa .." của con chim quốc mang "Hồn Thục
Đế" không c̣n v́ cái ngai vàng nữa đâu! Và cho
đến bây giờ, hơn hai ngàn năm sau câu chuyện
"Thục Đế mất nước", ḷng người
dân Việt Nam bao giờ cũng "Nhớ nước",
dù họ có biết tới hay không câu chuyện lịch sử
bi thương đó, dù có biết tới tiếng kêu của
con chim Quốc!
Quốc, với người
xưa là Nước, theo cách nh́n của giới sĩ phu
ngày ấy, nó gắn chặt với một triều đại
nào đó trong lịch sử. Do đó, với những
người c̣n "Hoài Lê" thường gọi là "Hoài
niệm Lê triều", mặc dù thời thế đă
đổi thay, ḷng họ vẫn luyến lưu triều
đại cũ, triều đại đă tiêu ma cùng với
"cuộc hư trường":
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh
sương
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch
dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước c̣n cau mặt với tang
thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.
Cảnh đấy người đây luống
đoạn trường
(Thăng Long thành hoài cổ - Bà Huyện Thanh
Quan)
Cái hoài niệm ấy, không phải
chỉ một lần làm thổn thức người
đàn bà ấy, mà tới những mấy lần. Ở một
lần khác nữa, người ta vẫn thấy cái t́nh ấy
nguyên vẹn một mối hoài cảm: "Trấn
Bắc hành cung cỏ dăi dầu, Chạnh niềm cố quốc
nghĩ mà đau .."
"Cố quốc" của
bà Huyện là nhà Lê cũ đấỵ Mặc dù bà đă
làm "Cung trung giáo tập" ở kinh đô Huế, cho
triều đại mới, nhà Nguyễn - Gia Long. Cũng
thêm một lần nào đó nữa, đi về giữa
kinh đô và cố quận, bà vẫn "nhớ nước"
như "Hồn Thục Phán": "Nhớ nước
đau ḷng con quốc quốc, Thương nhà mỏi miệng
cái gia gia .."
"Hoài niệm Lê triều"
là mối t́nh cảm, không phải chỉ một người,
mà c̣n là của một giới sĩ phu ở đất Bắc,
những người sinh ra và lớn lên dưới triều
đại cũ, khi Vua Lê - Chúa Trịnh đang c̣n trị
v́. Họ chứng kiến sự tiêu vong của chế
độ ấy, rồi cuối cùng phải ra hợp tác vối
triều đại mới, như những kẻ "hàng
thần lơ láo". Thân xác th́ c̣n đấy, mà tâm hồn
th́ ở những đâu đâu.
Cái tâm trạng đó, hiện
ra rơ nhất trong truyện Kiều của Nguyễn Du.
Nhưng không phải chỉ ở
truyện Kiều mà thôi đâu!
Văn học sử c̣n kể
lại câu chuyện t́nh giữa Nguyễn Du với một
người ca kỹ tài danh đất Thăng Long, khi cả
hai c̣n trẻ, Nguyễn Du sống với anh là Nguyễn Khản
ở Hà Thành. Thế rồi chiến tranh, bao nhiêu vật
đổi sao dời, khi đă già, Nguyễn Du trở lại
cựu kinh đô, lại gặp người ca kỹ ngày
xưa ấy, nay cũng đă về già. Thấy người
cũ, nh́n lại cảnh xưa, cảm thương cho
thân phận ḿnh, cho thân phận người, - tương tự
như trường hợp Bạch Cư Dị với
người ca kỹ tài danh xưa ở đất Trường
An được mô tả trong Tỳ Bà Hành -, tác giả
Truyện Kiều không khỏi xúc cảm:
Long thành giai nhân
Tính thị bất kỳ danh
Độc thiện Nguyễn Cầm
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung cung phụng
khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ
nhất danh-
(Long thành cầm giả ca)
(Người đẹp Long thành,
Họ tên không ai rơ.
Riêng thạo ngón đàn cầm,
Người trong thành biết tên Cầm từ
đó.
Học được khúc cung phụng trong
cung cấm triều xưa,
Khúc tuyệt xướng nức danh trời
người chưa dễ có)
Sắc đẹp của kỹ
nữ, tài danh của cô chỉ là biểu tượng những
ǵ đó của một triều đại cũ, mà Nguyễn
Du đem ḷng nhớ tiếc không bao giờ nguôi.
Chính v́ cái hoài niệm Lê triều
của đám sĩ phu Bắc Hà, khiến những nhà truyền
giáo đạo Thiên Chúa La Mă lợi dụng nó, muốn dựng
nên một "Nước Bắc hà" phân ly khỏi sự
cai trị của triều đ́nh nhà Nguyễn ở Huế.
Mục đích của họ là chi vậy ? Một "nước
Chúa" mà tất cả con dân là "dân Chúa" với một
ông vua "ngoan đạo". Sự vùng vẫy một thời
của "giặc tên Phụng" chứng minh cái âm
mưu chia cắt Việt Nam ấy của các ông cố
đạo. Đó là lư do tại sao các ông cố đạo
chống lại hiệp ước 1862 giữa triều
đ́nh Huế và Pháp xâm lược. Bởi v́ Rigault De
Genuoilly cho rằng giám mục Pellerin là người nói láo,
không tin vào ông giám mục nầy nữa nên thay v́ tiến ra
Bắc như lời xúi giục của ông giám mục, ông lại
cho tiến quân về Gia Định.
Thế rồi chiến tranh
Pháp Việt ngày càng gay gắt, quyết liệt khiến cho
cái tâm lư phân chia Nam Bắc, cái tâm lư "hoài Lê" hay "phục
Nguyễn" không thể tồn tại. Trước mắt
là kẻ thù xâm lược. Người Việt Nam cần
phải đứng lên chống Tây, đâu cần ai có "hoài
Lê" hay "không hoài Lê".
Con chim Quốc, bây giờ,
không chỉ là "Hồn Thục Đế" mà chính là "Hồn
Nước", "Hồn Tổ Quốc", "Hồn
Dân Tộc". Cái ư niệm ấy được Nguyễn
Khuyến mô tả một cách khéo léo trong bài "Quốc Kêu
Cảm Hứng". Ông mượn câu chuyện cũ để
nói đến cảnh nước mất nhà tan của thời
đại ông:
Quốc kêu cảm hứng
(Nguyễn Khuyến)
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng
lơ,
Đây hồn Thục Đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi?
Hay là nhớ nước vẫn nằm
mơ?
Ban đêm ṛng ră kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn
ngơ.
Đầu thế kỷ 20,
khi cả vua cha (Thành Thái), vua con (Duy Tân) đều bị
lưu đày, th́ "Quốc" không c̣n là "nước
của vua Thục" mà chính là nước Việt Nam
đă bị Pháp cướp mất vậy. Người ta
thấy ư đó trong 10 bài "Tục Khuê Phụ Thán" của
Thượng Tân Thị (Phan Quốc Quang):
Bài thứ 8:
Ba sanh biết có gặp nhau không
Hay lại như người cách trở sông
Non nước tin chờ thưa cánh nhạn
Đá vàng chi quyết nhẹ lông hồng
Kêu hồn Thục Đế chim quyên rũ
Than phận Hằng Nga bóng thỏ lồng
Nghĩ nỗi ḿnh đây thêm lắm nỗi
Nỗi thương con với nỗi
thương chồng.
Người ta cũng không quên
câu hát "đặt tên anh là Quốc" là "đặt
t́nh yêu nước vào nôi" trong bài hát về anh hùng Phạm
Phú Quốc.
V́ đang tiến lên "Chủ
nghĩa Quốc tế Vô sản" nên người Cộng
Sản không thể nào hiểu được ư nghĩa biểu
tượng của con chim Quốc, là quốc gia. Ranh giới
Quốc gia mờ nhạt đi trong cái "Chủ nghĩa
Thế giới Đại đồng" đó, một thứ
chủ nghĩa không tưởng đă làm chậm đà tiến
hóa của nhân loại. Trong viễn tượng đó, họ
không cần phải khơi dậy ḷng "yêu ngai vàng"
hay "yêu nước" của các ông vua, từ Thục
Phán đến vua Duy Tân. Theo "chủ nghĩa quốc tế"
của họ, th́ "chủ nghĩa quốc gia" tất
yếu là "phản động".
Khi đă yêu "chủ nghĩa
xă hội", "thế giới đại đồng"
th́ không thể "yêu một nhà vua yêu nước" bị
lưu đầy và bỏ thân nơi xứ người
như vua Duy Tân. Trong khi đó, ngay chính những người
như vua Duy Tân th́ chỉ "yêu nước" mà "không
yêu cái ngai vàng" của ông ..
Nhưng những người
Việt Nam yêu nước th́ bao giờ cũng dành cho những
nhà "vua yêu nước" một cái "ngai vàng"
trong ḷng họ:
Tưởng niệm vua Duy Tân
(Cải táng về Huế tháng 4/1987)
Ước chi tới bến sông Hương
Đốt nhang mà lạy nắm xương
lưu đày
Thế là đă trở về đây
Một con người tận chân mây cuối
trời
Thịt da phiêu dạt quê người
Linh hồn vẫn ở lại nơi quê nhà
Ngai vàng vừa cũ vừa xa
Ánh vàng vương miện cũng là hư
không
Mặt trời vẫn mọc đằng
đông
Lăng minh quân vẫn dựng trong ḷng người
Bao triều vua phế đi rồi
Người yêu nước chẳng mất
ngôi bao giờ!
(Nguyễn Duy)
Không ít người, sau khi
đi tù cải tạo về, không cần phải có chức
phận ǵ to lớn, nhưng khi đi qua Dinh Độc lập,
khi đi ngang Nghĩa trang Quân đội Biên ḥa, hay ngang qua
một đồn bót cũ, nơi người ta đă từng
trấn đóng ở đấy, hoặc ngay cả một
nơi c̣n "dấu binh lửa nước
non như cũ" họ trở thành "kẻ hành nhân qua đó chạnh
thương". Quả thật ḷng ta có chạnh
thương đấy, khi nghĩ tới những "hồn thu thảo",
những "hồn tử sĩ", ai không khỏi ngậm ngùi!
Nhưng liệu rồi chúng ta
có thể ôm lấy cái "hoài niệm cũ" ấy
đến bao giờ? Thế hệ chúng ta sẽ "với
thời gian lê vết máu qua đi." Con cháu chúng ta sẽ
nh́n lại chúng ta như nh́n lại một quá khứ
đau buồn, nhưng lịch sử đă khép lại một
chương đầy máu và nước mắt của cha
ông chúng.
Con cháu chúng ta sẽ không nh́n lại
quá khứ để hận thù, mà phải nh́n tới
tương lai để sống, để xây dựng một
đất nước Phồn vinh và Tiến bộ, với
Tự do và Nhân phẩm. Đất nước bấy giờ
là của thế hệ trẻ ấy. Bảo vệ Đất
nước và Tổ quốc là trách nhiệm của thế
hệ trẻ ấy. Họ nh́n tới phía trước
để sống, để xây dựng và chiến đấu.
Chế độ Cộng ḥa
miền Nam đă sụp đổ, chế độ Cộng
Sản Hà Nội không thể tồn tại thêm nữa. Thế
hệ trẻ sẽ thực hiện lời như trong câu
hát của Lê Thương, như một lời tiên tri mà Tổ
tiên đă để lại cho họ:
"Cầm chiếc gươm thân phụ di truyền. Chàng bế con trao lại gươm bền. Rồi chỉ vào sơn hà biến cố. Trao nó đi gây lại cơ đồ" ..
Vâng, chính họ là những kẻ
xây lại cơ đồ cho Đất nước và Dân tộc.
HOÀNG LONG HẢI
(Minh
Do sưu tầm và chuyển)