T́nh
không đẹp như thơ
(NGUYỄN THỊ
THANH DƯƠNG)
Chị đến
Mỹ muộn màng và yêu cũng muộn màng. Các anh chị của
chị đến Mỹ từ lâu, họ làm bảo lănh cha
mẹ, rồi đến chị, diện anh chị em không
được ưu tiên cao, nên lá đơn bảo lănh nộp
sở di trú khi chị 25 tuổi, đến 37 tuổi, chị
mới được đặt chân đến Mỹ.
Mười
hai năm chờ đợi ấy, chị đă phải hi
sinh rất nhiều, không dám yêu ai và chẳng dám đáp lại
t́nh ai. Bố mẹ chị đă răn đe "Bất cứ giá nào cũng
phải đợi đi Mỹ để đoàn tụ với
gia đ́nh, con nhé! không được yêu thương thằng
nào hết".
Chị vừa
vâng lời cha mẹ, vừa mộng mơ, tưởng
tượng: "Thôi th́ ráng hi sinh những t́nh cảm bên
này, qua bên ấy, tha hồ lựa chọn một tấm chồng,
cỡ bác sĩ, kỹ sư .. trở lên, thà muộn mà ngon
lành, c̣n hơn sớm, phải ở lại Việt Nam, t́nh
yêu nào cũng sẽ lụi tàn, mà chuyện áo cơm th́ vất
vả cả đời". Và chị hớn hở chờ
đợi.
Qua Mỹ,
đến nay đă 3 năm, chị đă sốt cả ruột
mà chưa t́m đâu ra một ông bác sĩ, hay kỹ sư. Vậy
mà, ở Việt Nam, người ta cứ đồn rằng
qua Mỹ lấy chồng dễ ợt, bạn bè, hàng xóm
khoe con em họ lấy chồng có đủ loại bằng
cấp nọ kia, dù những cô gái may phước đó chẳng
đẹp hơn chị là bao ! Th́ chị cũng có quyền
hi vọng như thế lắm chứ.
Bây giờ chị
mới hiểu rằng, người Việt Nam ở Mỹ,
học hành,thành đạt thật đấy, nhưng con
gái Việt Nam ở đây không c̣n khan hiếm nữa, những
thế hệ sau này đă lớn lên, đủ "cung cấp"
nhu cầu tại chỗ, chưa kể "thị trường"
trong nước Việt Nam th́ vô tận, các cô gái trẻ
đẹp luôn khao khát, chờ mong được Việt
Kiều về cưới và mang họ qua Mỹ.
Thế nên,
chị lạc lơng giữa ḍng đời, giữa xứ Mỹ
và giữa cái tuổi không c̣n trẻ và chưa đủ già
của chị ..
Nước
Mỹ, sau vụ 9-11 kinh tế khó khăn, công ăn việc
làm bị hạn chế, chị không có tay nghề, kinh nghiệm.
Vốn liếng tiếng Anh chỉ lưu loát được
3 chữ: "No, Yes, Thank you", nên chị xin việc hăng
nào là cầm chắc bị hăng đó từ chối. Cuối
cùng, chị cũng được một chỗ làm để
kiếm ra tiền, khỏi sống nhờ vào các anh chị,
là làm may cho một shop của người Việt Nam, họ
chỉ cần chị biết may, thế là đủ! Nên
khả năng nói lưu loát 3 chữ "No, Yes, Thank you"
của chị vẫn dư thừa, để dành đó,
không cần đụng tới.
Cả ngày chị
cặm cụi vào cái máy may, vào những miếng vải cắt
sẵn, và dăm ba câu chuyện vặt với người
bạn may bên cạnh, dần dần cũng thành tẻ nhạt,
người ta có chồng có con, nên cứ nói đến
đề tài này là chị "né", v́ sợ động
vào nỗi đau âm thầm của chị. Chị chỉ
c̣n một niềm vui duy nhất đó là cuối tuần
đi chợ, nh́n đủ các gương mặt lạ,
những hàng hóa, thực phẩm, để nghĩ đến
những món ăn ngon sẽ nấu. Và nhất là xin
được mấy tờ báo, về nhà nằm khểnh
đọc chơi!
Ở thành phố
này, có bao nhiêu tờ báo phát hành, chị đều xăng
xái xin đủ cho bằng được, thiếu một
tờ là chị áy náy. Báo free mà, không mất tiền th́ cứ
hưởng tối đa, không đọc được mục
này th́ cũng đọc mục nọ, mà nếu không đọc
ǵ hết cũng .. chẳng sao, tờ báo sẽ đem ra
lót bàn, đựng rác. Khi gọt trái cây, dùng để đựng
vỏ, đựng hột, và túm lại dễ dàng trước
khi nhét vào thùng rác.Tiện lợi mọi bề!
Thường
th́ chị hay đọc mục "T́m bạn bốn
phương", thấy người ta đăng báo t́m bạn,
chị cũng ham quá, nhưng vẫn thấy ngần ngại,
sợ cha mẹ, anh chị biết rơ "tâm địa"
chị đang muốn lấy chồng, nên chị chưa
bao giờ có ư định đăng lên những lời
khao khát của chính ḿnh.
Một hôm,
chị ngồi buồn, chẳng biết làm ǵ, bèn gọt một
trái xoài ăn chơi. Trải tờ báo ra bàn, chị vừa
gọt vỏ xoài vừa lơ đăng đọc một
bài thơ nằm ch́nh ́nh trên trang báo trước mặt chị.
Bài thơ than thân, trách phận và oán đời, nghe mà năo nề
của tác giả Phong Trần.
Bài thơ
đă làm chị xúc động, cái bút hiệu Phong Trần
càng làm chị xúc động hơn, chị tưởng
tượng nhà thơ Phong Trần dày dạn gió
sương, cũng đang là một kẻ cô đơn,
ṃn mỏi như chị, chị muốn cắt bài thơ
ra để dành, nhưng những vỏ xoài đă dính lên
bài thơ làm ướt nhẹp. Nghĩ mà tội nghiệp
cho nhà thơ, có biết đâu tác phẩm tim óc của ḿnh bị
ngược đăi, ơ hờ như thế. Nếu chị
không vừa gọt trái xoài vừa liếc mắt đọc
bài thơ cho đỡ sốt ruột th́ có lẽ chẳng
bao giờ chị biết đến nhà thơ Phong Trần
cả.
Từ hôm ấy
trở đi, mỗi tuần chị đều chăm chú
giở từng trang, tờ báo mà chị đă "gặp"
nhà thơ Phong Trần trong lúc gọt xoài, để t́m
thơ anh. Chị đọc từng chữ, từng ḍng và
ghiền thơ anh hồi nào không hay. Chị liền bạo
gan, gọi phone tới toà soạn báo để hỏi
thăm và xin số điện thoại của nhà thơ
Phong Trần với tấm ḷng ái mộ. Chị không ngờ,
cú phone đầu tiên chị gọi nhà thơ Phong Trần
được hân hoan đón nhận đến thế,
nghe chị nói rất thích thơ anh, nhà thơ Phong Trần
đă kiên nhẫn chép tay cả chục bài thơ và gởi
bằng bưu điện cho chị.
Từ đấy,
ngành bưu điện đang hồi ế ẩm, bỗng
nhiên vớ được hai khách hàng chăm chỉ viết
thư cho nhau, nhờ bưu điện chuyển giùm, và
cũng từ đấy, mỗi lần thơ anh
đăng lên báo, đều ghi tặng tên chị phía
dưới, những bài thơ anh dịu dàng hơn, t́nh tứ
hơn, làm chị cảm động.
Chị mang
đến shop may một trái tim vui đang yêu, chị ḍ dẫm
để khoe khéo với bà thợ may bên cạnh, mà chị
từng tṛ chuyện mỗi ngày:
- Nhà chị
có hay đọc báo chí Việt Nam không?
- Có chứ,
cả nhà cùng đọc, ở xứ Mỹ buồn thấy
bà. Cuối tuần có báo "chùa" đọc cũng vui.
- Thế chị
có đọc tờ báo ..
Bà kia cướp
lời, nhanh nhẩu:
- Đă nói là
báo nào cũng đọc hết trơn, báo cuốn, báo tờ
có đủ cả. Một mặt ông xă đi lấy, một
mặt tôi đi chợ xin thêm, nên không sót tờ nào. Có khi
c̣n lấy dư, ê hề chật cả nhà ..
Chị vừa
trách vừa thấp thỏm vui mừng:
- Lần sau
lấy báo vừa đủ coi thôi, lấy dư người
khác không có đọc, tội người ta. Thế chị
có đọc thơ của nhà thơ Phong Trần không?
Bà bạn may
khựng lại:
- Ủa! .. thằng
đó là thằng nào?
- Sao chị
bảo báo nào cũng đọc hết? Phong Trần là một
nhà thơ ..
Bà kia lại
nhanh nhẩu:
- Ôi, ai
hơi đâu để ư tới mục thơ thẩn, tôi
chỉ khoái coi mục tử vi hàng tuần thôi hà. Thơ của
thằng Phong Trần hay của bất cứ ai cũng
không nhằm nḥ ǵ với tôi hết.
Chị bực
ḿnh, nghĩ thầm "Con mẹ này trước ở Việt
Nam, chuyên mua bán ve chai, lông vịt, tŕnh độ đâu mà
đọc văn thơ?".
Chị lại
gói niềm riêng, đợi khi nào gặp được
người "cao cấp" hơn sẽ hỏi. Một
hôm, có cặp vợ chồng, bạn của người
anh, đến nhà chị chơi, cả hai đều là kỹ
sư điện, họ rất thân với gia đ́nh chị,
chị liền lân la đến gần người vợ
để chuyện tṛ:
- Chị
ơi, chị có thích đọc thơ của nhà thơ
Phong Trần, đăng trên báo Việt Nam ở đây
không?
Bà kỹ
sư điện trả lời nhanh như điện:
- Chị
không có th́ giờ đọc mấy bài thơ đăng
trên báo chợ đâu em ạ, thơ chẳng ra thơ, vần
một nơi, ư một nẻo, có đọc chỉ thêm bực
ḿnh !
Chị cố
gỡ gạc, giải thích:
- Cũng tùy
chứ chị. Em thấy thơ của nhà thơ Phong Trần
có hồn lắm ..
Bà kỹ
sư vẫn chua ngoa:
- Ở Mỹ
người ta ai cũng lo đi cày để kiếm tiền,
đa số những đứa dở hơi mới rảnh
để làm thơ đăng báo.
Rồi bà
hùng hồn chỉ trích:
- Báo chí ở
Mỹ ai làm chả được! Trước kia ở Việt
Nam, là một anh thợ mổ thịt heo hay đạp xe 3
bánh, sang đây cũng có thể làm chủ báo ngon lành, bài vở
lên internet lấy xuống, hay dịch vớ vẩn từ
báo Mỹ. Lại thêm có những đứa dở hơi
như nhà thơ Phong Trần nào đó, cặm cụi, bỏ
th́ giờ, sáng tác thơ văn, gởi về đóng góp cho
tờ báo.
Chắc bà kỹ
sư ngày xưa thất t́nh một anh nhà báo, nên mới cay
cú thậm tệ giới này? Làm một tờ báo ít nhiều
cũng phải có kiến thức hay năng khiếu về
báo chí, văn thơ, và nhất là ḷng yêu nghề th́ tờ
báo mới sống c̣n. Chị chẳng hơi đâu tranh luận
vấn đề này làm ǵ!
Chị buồn
quá, thế là từ thành phần lao động đến
trí thức, không ai biết đến nhà thơ Phong Trần
của chị cả, nói ǵ đến tên chị, đứng
khiêm nhường, bé nhỏ dưới mỗi bài thơ của
anh? Th́ thôi, ḿnh chị đọc thơ anh, ḿnh chị hănh
diện vậy.
Mối t́nh
thơ của hai người kéo dài được hơn
hai chục số báo, và mấy chục lá thư qua
đường bưu điện, th́ họ bắt đầu
hẹn để nh́n mặt nhau cho thoả ḷng
thương trộm nhớ thầm. Chị đă e ấp
nh́n anh:
- Anh ơi,tại
sao anh lấy bút hiệu Phong Trần, nghe lăng mạn và bụi
đời thế?
Anh trả lời
thản nhiên:
- Có ǵ
đâu, tên anh là Trần văn Phong!
Th́ ra thế!
tên anh Trần văn Phong viết ngược theo kiểu Mỹ
thành Phong Trần, vô t́nh trở nên lăng mạn, rất thích hợp
cho một người làm thơ như anh. Chứ anh có phải
cất công suy nghĩ cho cái bút hiệu của ḿnh đâu!
Chị không
đẹp lắm, độc thân và trinh nguyên nhưng
hơi cứng tuổi, c̣n anh, hơn chị đúng 10 tuổi,
đă một đời vợ, li dị, hai con theo mẹ,
cho nên mấy năm nay anh trở thành người đàn
ông độc thân, đi về một bóng, anh mong có một
người đàn bà cho căn nhà ấm lên, cho ḷng anh đỡ
trống trải.
Thế là họ
không có ǵ để chê nhau cả, mối t́nh thơ đă
đi đến đoạn kết mong muốn: Họ
cưới nhau.
Chị lấy
anh v́ sau 3 năm sống ở Mỹ, chị biết rằng
khó có thể kiếm một tấm chồng bằng cấp
Bác sĩ, kỹ sư, khi tuổi chị đă xế chiều
và nhan sắc chẳng có ǵ đáng nhớ. Như món hàng ế
ẩm, muốn bán được, cần phải hạ
giá đến đại hạ giá. Chị đă "on sale"
cuộc đời chị, lấy một người chồng
chẳng những đă không bằng cấp mà c̣n có một
quá khứ ḷng tḥng vợ con, dù anh hết t́nh hết
nghĩa với người vợ, nhưng hai đứa
con, chắc vẫn đậu lại trong ḷng anh nỗi
thương nhớ xót xa? Trái tim anh có yêu chị cách mấy,
đôi khi cũng tạm ngừng nghỉ để quay về
với hai con. Chị cũng đành thôi, ở đời
có ǵ tuyệt đối đâu?
Khi đọc
một bài thơ, không nh́n thấy tác giả, bài thơ hay sẽ
làm rung cảm ḷng người, nhưng khi nh́n thấy tác giả
th́ những rung cảm ấy sẽ giảm đi một
ít, và nếu sống cùng một nhà với tác giả, th́ bài
thơ bỗng trần trụi như đời thường
của người đă sáng tác ra nó.
Những
ngày, những tháng trôi qua, chị không c̣n thấy thơ anh
hay nữa, dù mỗi khi đăng báo, anh vẫn đề
tặng tên chị, và chị đă ngạc nhiên, không hiểu
sao chị lại thay đổi nhanh chóng thế?
Nhà thơ
Phong Trần mà chị ngưỡng mộ và yêu mến ngày
nào, bây giờ là một thằng đàn ông suốt ngày cởi
trần trùng trục vào mùa Hè, anh mặc duy nhất cái quần
đùi, đôi vai anh gầy, nhô lên, tưởng gió cũng
có thể lung lay, vậy mà trước kia anh đă làm bài
thơ với câu: "Đôi
vai anh sẽ là nơi em tựa". Thơ chỉ là bịa
đặt, chẳng thực tế với người.
Anh thường
ngồi ở ghế, hai chân thô lỗ gác lên bàn, vừa nhâm
nhi ly trà nóng vừa sáng tác thơ, trong khi ngoài bếp, chị
đang nấu nướng, dao thớt khua lên, chảo mỡ
kêu ́ xèo. Và trong pḥng th́ thằng cu Tí bé bỏng của hai
người đang nằm o oe chơi một ḿnh, nhưng
khi nó khóc ré lên, chính anh là người phải vội vàng hạ
chân xuống bàn, cắt đứt ḍng tư tưởng
đang tuôn ra, để chạy lại tủ lạnh lấy
b́nh sữa, nhét vô miệng thằng con, hoặc tệ hại
hơn, anh phải thay diaper cho nó, mất nhiều thời
gian hơn, xong việc th́ ư thơ cũng bay xa. Tác phẩm
bằng xương bằng thịt, đă hại tác phẩm
tinh thần của anh.
Có lần,
anh ngồi ĺ để viết cho xong một ư thơ, không
chạy ra đáp ứng ngay tiếng khóc của thằng Cu
Tí, th́ vợ anh đă lớn tiếng:
- Không ra mà lo
cho nó đi! Thơ với thẩn, để thằng nhỏ
.. chết đói bây giờ.
Anh tức giận
nh́n "nàng thơ" của anh, người đă từng
dịu dàng, âu yếm đi vào những bài thơ của
anh, bây giờ hiện nguyên h́nh là một con mẹ khô cằn
sỏi đá, đầu óc lúc nào cũng toan tính đến
chuyện thực tế, đói no, bạc tiền. Trước
chị ngưỡng mộ anh, coi thơ anh là hương
hoa trong cuộc sống, bây giờ những hương hoa ấy
đă bay đi, đă trở thành những món phụ tùng
không cần thiết.
Một buổi
sáng thức dậy, trời chuyển gió lạnh, ḷng anh bỗng
vu vơ cảm xúc yêu thương khi nh́n ra ngoài trời những
chùm lá cây đẩy đưa trong gió. Anh thèm được
rủ chị cùng anh đi sóng đôi trong cái không gian lạnh
lẽo ấy để t́m hơi ấm của ḷng nhau. Anh
phấn khởi hỏi chị:
- Em ơi,
ngoài kia đang gió lạnh. Em có biết anh đang mơ
ước ǵ không?
Chị
đáp sỗ sàng:
- Mơ ước
có một tô phở nóng hổi với đầy đủ
tương ớt, ng̣ gai, húng quế ngay trước mặt
để ăn cho ấm người chứ ǵ? Hôm nay tôi
không có rảnh mà hầm xương nấu phở cho anh
đâu!
Trời
ơi! Khi không mà anh thấy lạnh cả ḷng, lạnh
hơn cả những chùm lá trên cây đang run lên v́ gió lạnh
ngoài kia.
Nhưng
cũng chưa lạnh, chưa đau bằng những bài
thơ anh đang viết dở dang, những ư thơ chợt
đến, anh đă ghi vội trên tờ giấy để
trên bàn đă bị chị "clean up" vứt vô thùng rác
thẳng tay, không một thắc mắc. Anh tiếc đứt
ruột, trách chị, th́ chị nghênh mặt lên, đe doạ:
- Quư hoá ǵ?
Thơ với thẩn viết lung tung rác cả nhà. Lần
sau anh c̣n để bừa bộn tôi giục thùng rác nữa
đó.
Anh đành ngậm
ngùi ra .. moi thùng rác t́m lại mảnh giấy thơ lẫn
lộn với những tă dơ của Cu Tí, và những thứ
rác rưới khác. Chị đâu biết rằng một cảm
xúc nào đó đă qua rồi đâu dễ ǵ t́m lại
được nếu không ghi vội trên những mảnh
giấy kia.
Thỉnh thoảng
anh gọi phone thăm hai đứa con của đời vợ
trước, một đứa đă lớn, một đứa
c̣n đang học high school, thương con, anh muốn gởi
cho nó một hai trăm làm quà, "Nàng thơ" của anh
đă trề môi mai mỉa:
-
Lương công nhân có là bao, mà hứa hẹn cho nó tiền?
Hăy làm bài thơ tặng nó cho có t́nh nghĩa .. Thế mới
là vô giá.
Anh đau xót
và tủi quá, chẳng lẽ lại căi nhau, lại li dị?
Cuộc đời đâu có đủ dài cho con người,
để họ thử thách lấy nhau, bỏ nhau, như
tṛ chơi trẻ con, thích đó, rồi lại chán chê, muốn
bỏ?
Anh vẫn
đi làm công nhân và vợ anh đi làm ở shop may, thằng
Cu Tí đem gởi bà ngoại chiều tối mới mang về.
Vợ anh đang chạy đua với thời gian, chị
sang Mỹ muộn, lấy chồng muộn, và có con muộn,
nên muốn làm gấp rút, kiếm nhiều tiền để
mua nhà như người ta, ở nhà thuê, trả tiền
tháng nào là mất luôn tháng đó. Ước mơ b́nh thường
thế mà trời cũng không để yên. Anh bị lay
off, anh không có tội ǵ cả, hăng không có việc nên phải
giảm bớt nhân viên. Vậy mà chị đổ tội
cho anh:
- Sao bao nhiêu
người, hăng không lay off mà lại là anh? Chắc tại
anh mải nghĩ thơ nghĩ thẩn, làm không được
việc, nên họ đuổi cho bơ ghét chứ ǵ?
Anh làm
ngơ, chấp chi con đàn bà nông cạn! Anh lo đi làm giấy
tờ xin hưởng tiền thất nghiệp, rồi thủng
thỉnh xin việc làm sau, nhân lúc rảnh rỗi bất
đắc dĩ này, anh nghỉ ngơi và làm thơ. Cuộc
đời là thế, ngay cả khi hoạn nạn, cay đắng
cũng có thể thành thơ. Nhưng con vợ, không để
anh yên, chị đi ra, đi vào, lườm nguưt, thấy
anh vẫn cầm bút, vùi đầu vào trang giấy, chị
chịu không nổi, ghé mắt vào sinh sự:
- Anh đang
làm ǵ đó?
Anh cười
dù thật ḷng chẳng muốn cười:
- Làm thơ!
Chị kêu
lên, như chưa từng thấy anh làm thơ bao giờ:
- Trời
ơi, không lo viết đơn xin việc mà c̣n ngồi làm
thơ? Thơ có ăn được không? Có đổi ra
tiền để đi chợ hay trả bill được
không?
Anh kiên nhẫn:
- Tất
nhiên là không! Nhưng nó cho anh một niềm vui ..
"Nàng
thơ" ngày nào của anh lồng lộn lên:
- Anh sống
không có .. lập trường như thế à?, phải
đối diện với thực tế, phải đi t́m
việc làm chứ.
Rồi chị
nghẹn ngào như một người vợ đau khổ
khi bị chồng phụ rẫy:
- Bây giờ
tôi mới hiểu lời của chị kỹ sư, bạn
của anh tôi, chị ấy nói "Mấy đứa làm
thơ toàn là mấy đứa dở hơi, sống trên
mây .."
- Em cứ
làm như nếu anh không đi làm th́ vợ con chết
đói ngay ấy. Ở Mỹ, chuyện lay off thất nghiệp,
đến với tất cả mọi người, bất
cứ lúc nào, việc ǵ em phải đau khổ thế? rồi
anh cũng sẽ xin được việc làm khác thôi,
nhưng trong lúc rảnh rỗi, anh vẫn có quyền mơ
mộng, làm thơ. Thơ đến với anh những lúc
hạnh phúc và cả khi thất vọng, khổ đau ..
Nh́n vẻ mặt
nghiêm trang của anh, nh́n đôi mắt anh ngời sáng long
lanh đang nh́n thẳng vào mắt chị với sự phản
kháng âm thầm, chị bỗng thấy .. khớp không dám làm ầm ĩ thêm
nữa. Chị chợt nhớ đă mấy lần mẹ
chị khuyên chị rằng: "Mày có thằng chồng hiền
lành, thương vợ thương con là tốt phước
rồi, đừng hiếp đáp nó, con chó bị dồn
đến nước cùng cũng quay đầu lại cắn
chủ. Nó mà tức giận quá, mất khôn, nó li dị, th́
mày chỉ có nước ôm con nuôi tới già. C̣n nó, nếu
ham vui như người ta, về Việt Nam lấy vợ
trẻ, vợ đẹp thiếu ǵ".
Cho nên chị
không dám quát tháo thêm nữa, chị đành bỏ đi làm việc
khác sau khi đă quẳng lại cho nhà thơ một cái nguưt
mắt đầy đanh đá.
Một ḿnh
anh ngồi lại, giận vợ nhưng cũng
thương vợ, đàn bà thường thực tế và
nông cạn như thế. Anh hiểu, cái t́nh yêu thơ mộng
mới ngày nào, đă thay thế bằng những lo âu, toan
tính trong cuộc sống, chị quá lo cho gia đ́nh, cho
tương lai của con, chị sợ tuổi đời
của cả hai người không đủ dài để
làm nên cơ nghiệp như chị mong muốn.
Trên tờ
báo hàng tuần vẫn tiếp tục đăng thơ anh,
thơ anh vẫn t́nh tứ, vẫn ướt át, nhưng nếu
người ta để ư, th́ dưới mỗi bài
thơ, anh không c̣n ghi lời tặng cho chị nữa.
Mục tiêu của
đời chị là có tiền để mua nhà, để
dành lo cho tương lai thằng Cu Tí, làm đến cả
đời chưa chắc xong. Nên chị cần quái ǵ
điều đó, cái tên chị có dính trên báo cũng chả
làm túi tiền chị tăng thêm một xu nào!
Những bài
thơ của anh đă trở thành vô nghĩa, và mối t́nh
thơ của chị đă chết tự lúc nào.
Nguyễn
thị
Thanh Dương
(Rose
Kiên Giang sưu
tầm
và chuyển)