Đi
T́m Vui Thú Điền Viên
(Tràm
Cà Mau )
Truyện
ngắn " Đi T́m Vui Thú Điền Viên" của tác
giả Tràm Cà Mau xem ra rất thật và mang tính hài hước.
Mời quư vị thưỏng thức, xem trong thành phần
quan khách hưởng thành quả "nông trại" của
tác giả có ḿnh không?
Vợ chồng
tôi đến Mỹ gần chẵn mười năm. Những
lo lắng ban đầu v́ sinh kế đă tạm quên. Cũng
đă thực hiện được "cái mộng của
người Mỹ" là mua được căn nhà khá
khang trang. Thêm vào đó, tiền tiết kiệm trong ngân hàng
khá dồi dào. Cũng nhờ công sức hai vợ chồng,
làm ngày làm đêm, làm không quản ngại khó khăn, không ngại
thứ bảy, chủ nhật, đêm khuya, cứ có việc
là có làm, có tiền là có chúng tôi. Chúng tôi chưa biết chê
làm việc phụ trội bao giờ. Một hôm chủ nhật
rảnh rang, thức dậy muộn, c̣n nằm trên giường,
hai vợ chồng nằm gác chân nói chuyện tầm phào. Vợ
tôi hỏi:
"Anh có nhớ câu: Một mai một
cuốc, một cần câu của ông Nguyễn Bỉnh Khiêm
hay của ông Nguyễn Khuyến? Câu nầy tác giả muốn
nói ǵ anh nhớ không?". Được một người
nguyên là giáo sư Việt văn các lớp thi tú tài hỏi về
văn chương, tôi cũng khoái chí , làm bộ hiểu biết,
trả lời:
"Ông Nguyễn Khuyến hay
Nguyễn Bỉnh Khiêm, không cần phải nhớ ai là tác
giả làm chi cho mệt, cứ nhớ là ông Nguyễn thôi cũng
đủ rồi. Câu thơ ca ngợi cái thú thanh nhàn khi sống
nơi thôn dă." Vợ tôi nói tiếp:
"Ngày xưa, anh thường
nói với em về giấc mơ khi đất nước
hết chiến tranh. Chúng ḿnh sẽ về quê, mua mấy mẫu
ruộng vườn, và vui thú điền viên. Sống đời
thanh thản hạnh phúc. Anh c̣n nhớ không?". "Ừ,
th́ nhớ chứ. Giấc mơ ấp ủ suốt một
thời niên thiếu mà. Tiếc thay, sau khi hết mùa chinh
chiến, th́ đến mùa tù tội. Mà không tù tội, th́ cũng
không thể nào vui thú điền viên được trong cái
xă hội vô cùng kỳ lạ, vô cùng g̣ ép con người
đó. Nghĩ cũng tiếc.". Vợ tôi nắm chặt
tay tôi, nói với giọng tha thiết:
"Bây giờ ḿnh muốn vui thú
điền viên cũng đâu có muộn. Cái mộng anh ấp
ủ ngày xưa có thể trở thành sự thực dễ
dàng. Hay là ḿnh bán nhà , mua một nông trại, lấy hết
tiền tiết kiệm ra đầu tư vào chăn nuôi,
trồng trọt. Nuôi các thứ gà vịt thả trong vườn,
bán cho đồng hương Việt nam ḿnh, trồng các thứ
rau ráng mà người Mỹ không sản xuất như rau
muống, bí bầu, bạc hà, tàng ô, rau răm, rau thơm
vân vân, chiếm luôn độc quyền .. Và gởi máy bay chuyển hàng lên miền
đông bắc, tây bắc nước Mỹ mà bán. Không chừng
mau phát đạt, mà lại nhàn nhă, có cơ sở vững
chắc cho con cái sau nầy tiếp nối.
Nghe th́ khoái,
nhưng tôi thở dài:
"Em nghĩ cũng hay lắm.
Nhưng anh tiếc công việc đang làm hiện tại.
Lương bổng cũng khá. Công việc làm đă quen.
Ḿnh trở thành chuyên viên rồi. Bỏ đi cũng uổng.
Vả lại, công việc em đang làm cũng khá bền vững.
Bỏ cái bền vững, đi t́m cái bấp bênh, anh cũng
hơi ngại." Vợ tôi cũng thở dài, tiếng thở
dài dài hơn và năo nề hơn:
"Công ty em đang làm, cũng
chuẩn bị dọn qua một xứ Nam Mỹ, có nhân
công rẻ hơn , để cứu văn t́nh trạng thua lỗ
từ mấy năm nay. Em chưa nói với anh, v́ ngại
anh lo." Tôi hỏi vợ:
"Ai bày cho em cái kế hoạch
lui về làm nông trại, vui thú điền viên nầy? Em
đă nghĩ kỹ chưa, và có chương tŕnh kế hoạch
ǵ trong đầu chưa?" Vợ tôi trả tời tự
nhiên:
"Không ai bày cả. Cách đây
mấy tháng, một đêm mất ngủ, em bật truyền
h́nh lên. Xem một phim kể về đời sống ở
nông trại thời xưa. Sao mà thanh b́nh hạnh phúc như
trong mộng. Đời sống dễ thương quá. Và
những lần đi chợ Á Đông, em thấy họ bán
rau muống, rau màu Việt Nam đắt như vàng. Bán khoai
ḿ đắt như sâm nhung. Em nghĩ ḿnh có một nông trại
sản xuất ra các thứ hiếm hoi nầy mà cung cấp
cho các chợ, th́ có thể hốt tiền thiên hạ
như hốt lá. Anh xem, những lần tiệc tùng họp
bạn, mà có thịt gà tươi chạy bộ , ai ăn
cũng khen rối rít, xít xoa. Đó là chưa kể ḿnh nuôi
vịt bán cho thiên hạ làm tiết canh. Ḿnh cứ đánh
đúng vào thị hiếu của họ, th́ mặc sức
mà hái ra tiền. Chỉ một thời gian ngắn thôi, là
hai vợ chồng ḿnh thanh nhàn sung sướng, thong thả,
và khi đó th́ có thể khi xem hoa nở, khi chờ trăng
lên, chứ không làm việc túi bụi như bây giờ."
Nghe vợ vẽ
vời hay quá, cái lăng mạn đă ngủ yên trong tôi bỗng
dưng thức giấc xao xuyến. Thanh nhàn, sung sướng,
ai mà không ưa, họa là khờ. Và lại c̣n khi xem hoa nở,
khi chờ trăng lên, chao ôi, đẹp quá chừng. Dù khoái
tai với cái mộng tưởng của vợ, tôi cũng
thử vợ tôi thêm:
" Em cũng biết, nhà anh suốt
mấy đời chưa hề làm nông, chưa ai cầm đến
cái cuốc, cái cày. Ông nội anh là nhà nho thất chí, suốt
một đời mang áo dài the, cắp cái dù đi lang thang
nhà bạn bè bàn chuyện cần vương hưng quốc,
ba anh th́ là nhà giáo, anh suốt đời cầm bút làm việc
trong văn pḥng, có biết chi về canh nông, về chăn
nuôi, mà dấn thân vào đó". Vợ tôi hăng hái thuyết
phục thêm:
"Anh cũng đă từng bị
đi tù cải tạo, học tập lao động mấy
năm, cũng đă cuốc đất trồng khoai, cũng
có chút kinh nghiệm phần nào rồi chứ. Việc nào rồi
cũng quen đi. Anh xem, ngày mới qua Mỹ, ḿnh đâu có
biết việc ǵ, mà rồi việc ǵ khó khăn đến
đâu, cũng làm được cả. Đi qua biển với
ngàn hiểm nguy như thế, c̣n làm được, th́ việc
ǵ mà không làm được?" . "Nầy, sao cái luận
điệu của em hao hao giống luận điệu của
những kẻ tự xưng là nhân dân anh hùng, họ thường
bảo rằng vượt Trường Sơn đánh Mỹ
c̣n được, th́ việc ǵ mà không làm được.
Anh nói thêm cho em rơ, học tập lao động trong trại
tù, là học được cái trây lười, cái làm cho có.
Và nếu lao động như thế để kiếm
ăn, th́ đói cho vẫu mỏ ra." Cứ thế, vợ
tôi nhẹ nhàng thuyết phục tôi về một cuộc
đời vui thú điền viên, về cái hạnh phúc
đơn sơ trong thanh nhàn, cái an b́nh trong tâm tưởng,
được làm chủ lấy ḿnh, không tùy thuộc vào
công ăn việc làm của người khác, không lo kinh tế
nay lên mai xuống, bấp bênh sụt trồi.
Thấy vợ tha thiết với
nông trại, mà những vẽ vời của nàng cũng
đẹp thật, tôi cũng muốn làm vui ḷng vợ một
lần. Vợ tôi đă khổ, đă chịu nhiều cay
đắng trong đời khi chồng đi tù, khi chồng
về tù , và đă theo tôi đi qua bao đoạn đường
chông gai khó khăn của cuộc đời. Mơ ước
của vợ tôi về cuộc sống nông trại, cũng
rất chính đáng. Tôi bằng ḷng bán nhà, mua đất làm
ăn.
Chưa bán được nhà, mà
chúng tôi đă được mấy ông hành nghề địa
ốc lôi chạy. Chạy đôn chạy đáo theo mấy
ông từ vùng nầy, qua vùng kia, để xem đất,
để xem các bảng tính toán lỗ lời do các ông
đưa ra. H́nh như cuộc đất nào cũng tốt,
cũng đem lại một tỉ suất lời cao. Cuối
cùng, chúng tôi cũng mua được một sở đất
năm mẫu, cách thành phố Dalas bảy mươi dặm
về hướng bắc. Lái xe chừng hơn một giờ
th́ đến thấu.
Năm mẫu đất nằm
giữa đồng không mông quạnh, gió thổi vun vút, mùa
hè bụi lốc xoáy mù. Chủ đất và người
hành nghề địa ốc dẫn tôi đi, lội cỏ
lút đầu gối để chỉ các cột mốc
ranh giới. Tôi và vợ đi theo, mà thở hồng hộc,
vấp té mấy lần.
Học theo các chủ nông trại
đi trước, chúng tôi mua một căn nhà tiền chế
có ba pḥng ngủ, hai pḥng tắm và thuê xe kéo về đặt
trên thửa đất. Căn nhà trông bên ngoài cũng rất
mỹ thuật, đẹp đẽ. Pḥng ốc bên trong xếp
đặt rất hợp lư và sáng sủa. Ngồi trong nhà,
không có cảm giác chi là căn nhà tiền chế. Vợ tôi
khen, căn nhà nầy c̣n mới, và rộng không thua chi
căn nhà cũ của chúng tôi. Nh́n cái xe của hăng sản
xuất nhà tiền chế kéo cái nhà về đặt trên sở
đất mà ngán. Cái nhà dài ḷng tḥng, và rộng bề ngang,
kéo đi choán hết bề rộng mặt đường.
Hăng phải xin giấy phép đặc biệt để kéo
đi. Cái nhà về đến trước đường
cái, chiếc xe từ từ nhích vào nơi chúng tôi muốn
đặt căn nhà, mới chạy được một
đoạn ngắn, th́ bánh xe lún xuống đất bùn nhăo
nhẹt và quay tít. Lui không được mà tiến cũng
không xong, tiếng máy xe gầm lên từng hồi như con
thú bị thương. Th́ ra v́ trời mưa suốt tuần
trước, làm đất mềm và nhăo, không đủ sức
cho bánh xe cán lên. Ông tài xế râu ria xồm xoàm và ăn mặc
áo da, giống như mấy tay găng tơ trong phim xi nê nhảy
xuống xe và chửi thề om x̣m, làm như chính tôi là thủ
phạm làm xe ông mắc lầy. Tôi lăng ra nơi khác, không muốn
thấy cái thái độ thiếu lịch sự của gă.
Ông đ̣i mượn ván gỗ để chêm bánh xe, tôi làm
sao có được, y chạy lui chạy tới như gà
mắc đẻ, rồi hét lớn; "Tại sao không cho
biết đất c̣n mềm, bây giờ làm sao mà lui ra
đây?". "Tôi làm sao mà biết được đất
cứng hay mềm mà nói? Đâu phải là chuyện của
tôi?". "Thế th́ cái nhà nầy của ai đây? Không
phải của anh chắc?". Ông tài xế lên xe, dùng
điện thoại kêu về công ty và ngồi chờ. Chừng
hơn một giờ sau, có chiếc xe khác tới phụ,
lôi chiếc xe bị lún bùn ra. Cái nhà bị đẩy giật
tới, giật lui, lúc lắc. Cuối cùng, cái nhà được
tạm thời hạ xuống bên đường lề
đường, và lấn ra, choán gần hết mặt lộ.
Cái nhà nằm khơi khơi trên con đường trông rất
chướng mắt. Ông tài xế bảo tôi:
"Cứ để tạm
đó, chờ khi nào đất khô rồi kéo vào". Tôi vô
cùng bối rối. Cái nhà choán mặt đường, xe cộ
ngược chiều đi qua không thấy nhau, và phải
nhường cho nhau đi qua trong một phần nhỏ hẹp
của ḷng đường c̣n lại. Mà chẳng có bảng
hiệu, bảng thông báo trước để xe chuẩn
bị mà tránh nhau.
"Thế th́ bao giờ cái nhà mới
được đem vào bên trong". Tôi lo ngại hỏi
anh tài xế.
"Không biết. Chờ". "Để
ngoài đường như thế nầy rất nguy hiểm
cho người lái xe. Lỡ họ tông hư nhà th́ làm sao". "Anh không phải lo". Ông tài
xế trả lời tôi như nói với đứa con
nít..
Không biết làm ǵ hơn, tôi cùng
vợ lái xe về, mà trong ḷng không yên. Hôm sau, chúng tôi đến
lại cuộc đất, th́ thấy cảnh sát đă gài
giấy phạt, và hăm phạt tăng nhiều lần nếu
c̣n để cái nhà choán đường lưu thông. Tôi
đem giấy phạt về công ty bán nhà và than phiền với
hăng. Ông chủ hăng nầy không tiếp tôi, mà giao cho người
khác giải quyết. Anh chàng nầy nói năng rất từ
tốn, bảo là hăng sẽ giải quyết ngay, đừng
lo. Thế nhưng cả tuần sau, cái nhà mới
được đưa đúng vào vị trí mong muốn.
Tôi tưởng đặt nhà là ở được.
Nhưng không. Đi tiêu đi tiểu và nước thải
đổ vào đâu? Không lẽ lấy cuốc đào chút
đất trong vườn, sau khi đi tiêu, lấp lại
như ở nhà quê sao? Thế là phải chạy đi mua
cái hầm tiêu tự hoại. Mua th́ dễ, mà giấy phép
đặt hầm cầu, th́ có những chi tiết kỹ
thuật bắt buộc phải cung cấp cho văn pḥng
quận. Lại mất thêm tiền cho công ty kỹ thuật
lập hồ sơ. Cái nhà tiền chế bị dịch
lui dịch tới nhiều lân, làm găy các ống nhựa bắt
sẵn bên trong, cho nên khi nối đường nước
vào, th́ nước chảy tung tóe. Ướt hết từ
trong ra ngoài. Tôi đứng nh́n mà ngao ngán. Phải chờ
thêm mấy ngày để chờ thợ ống nước
đến sửa chữa.
Khi
tôi đến công ty điện, công ty nước để
xin nối điện, nối nước vào nhà, tôi mới
giật ḿnh thấy cái bảng ước tính chi phí bắt
điện, bắt nước. Nhà tôi xa đường
dây điện chính, phải trồng thêm nhiều trụ
điện khác, mới chạy được đường
dây vào. Tôi phải chịu phí tổn đó. Không ai nói trước
cho tôi điều nầy. Dù chi phí cao đến mấy, tôi
cũng phải cắn răng mà kư tên vào tờ giao kèo, thỏa
thuận. Không lẽ phải mua máy điện riêng, lôi thôi
chịu chi nổi. Đă đâm lao th́ phải theo lao, chứ
làm sao bây giờ. Đường nước, th́ tôi may mắn
hơn, nước đă đến cách cuộc đất
chúng tôi không xa lắm, nhưng cũng phải chi tiêu khá nhiều
để chuyển nước từ ống chính vào. Công
ty nước đào đất, chuyển ống đến
đồng hồ mà thôi, sau đồng hồ nước
là ḿnh phải tự lo lấy. Thợ ống nước
tính tiền ngọt lắm, đào xới, lắp ráp, sửa
chữa, chút chút là đ̣i bạc trăm, bạc ngàn, ḿnh
không có dụng cụ, và không có kinh nghiệm, nên cứ cắn
răng mà trả, có kêu ca cũng vô ích. Tôi đứng quan
sát các anh thợ, để học lóm nghề, th́ ra cũng
dễ dàng như chơi. Chịu khó mua một ít dụng cụ,
th́ cũng có thể tự làm được. Nhờ học
lóm, mà sau nầy, tôi tự chạy đường nước
tưới cây trong vườn.
Bốn góc nhà, tôi bắt thêm bốn
ṿi nước, để dễ câu ra vườn. Đất
mùa mưa nhăo nhẹt, không chạy xe vào nhà được,
tôi kêu xe đổ sạn trắng, làm thành một ṿng cung
ngay trước nhà. Cái đỉnh ṿng cung là cửa vào nhà,
hai chân ṿng cung nối ra đường. Phải đặt
ống cống cho nước trong mương bên lề
đường thông thương. Khi xe vào vườn, chỉ
cần chạy một chiều, vào bằng một cửa,
ra bằng cửa khác. Vợ tôi ví cái đường ṿng
cung nầy với sân ṭa Bạch Ốc, cũng sang trọng
và đẹp không kém.
Vợ tôi sung sướng ngâm nga
"Ta dại ta t́m nơi vắng vẻ. Người khôn
người t́m chốn lao xao". Ngâm đi ngâm lại măi.
Vợ tôi bàn rằng, làm thêm một cái bệ gỗ bên cạnh
nhà, che song gỗ bên trên , mùa hè ban đêm cả gia đ́nh ra
ngồi ngắm trăng, uống trà ăn kẹo ngọt,
để nhớ miền quê Việt Nam. Cũng để
xem ông thi sĩ miền Bắc nước ta, bốc
thơm đàn anh Trung Quốc rằng "Trăng nước
Mỹ không đẹp bằng trăng Trung Quốc" có
đúng không. Nghe đă lỗ tai, tôi mua gỗ về h́ hục,
cưa đóng cả tuần mới xong. Tốn tiền, mà
sau nầy v́ công việc nông trại tối mắt, tắt
mày, chưa bao giờ có th́ giờ rảnh ra ngồi ngắm
trăng uống trà, chỉ có những khi mệt vă mồ
hôi, ngồi bệt lên sàn nghỉ một chốc mà thôi.
Bây giờ th́ phải làm hàng rào
bao quanh khu vườn lại. Tôi mua cọc sắt, và
lưới làm hàng rào. Loại cọc mà bên Việt nam ḿnh
kêu là cọc sắt ấp chiến lược, và loại
lưới gọi là lưới B40. Nh́n vào bảng ước
tính giá mua cọc và lưới mà mặt vợ tôi nhăn lại
như ăn dấm chua. Cũng mất mười mấy
ngàn đồng. Không thể chịu đựng nổi chi
phí nầy, tôi quyết định chỉ rào khu chăn nuôi
thôi, c̣n khu trồng trọt th́ cứ để trống. Ai
mà chạy xe ra đến đây để ăn cắp hoa
màu của ḿnh. Nước Mỹ chớ đâu phải châu
Phi mà lo. Hăng bán cọc sắt và lưới đổ cho
tôi một đống lớn trong vườn. Ḿnh phải
tự làm hàng rào lấy, chứ thuê th́ tiền đâu mà chịu
nổi. Tôi mua búa tạ và thang xếp, làm thành cái dàn. Con gái
tôi mới mười bốn tuổi, giúp bố giữ cây
cọc, tôi leo lên, dùng búa giáng xuống. Sức dộng của
búa rung cây cọc sắt, làm tay con tôi đau buốt và buông
cọc ra mà kêu thét lên. Tôi phải làm một nùi vải, chêm
vào tay cho nó cầm. Cứ đóng vài ba búa, là thấy cọc
có chiều nghiêng nghiêng, không đứng thẳng được.
Tôi phải leo xuống, dùng dây dọi điều chỉnh
rất khó khăn. Vợ tôi dứng nh́n và nói:
"Đóng cọc theo lối nầy,
th́ không chừng tốn cả năm trường mới
xong được." Hai bàn tay tôi đỏ và sưng
lên. Con gái tôi cũng nhăn nhó mặt mày v́ cái tṛ chơi
không mấy hứng thú nầy, và phải đứng ngoài nắng
gió cả buổi. Để việc rào dậu chóng hoàn tất,
tôi phải tính đến chuyện thuê người làm phụ.
Tôi bàn với vợ, thuê một anh người Mễ. Vợ
tôi ngại sẽ bị lôi thôi với pháp luật, v́ thuê
người nhập cảnh bất hợp pháp. Tôi bảo
rằng, tôi không ra ứng cử dân biểu, nghị sĩ,
th́ sợ ǵ, có ai mất công mà tố cáo tôi thuê người
nhập cảnh bất hợp pháp.
Sáng hôm sau, tôi lái xe về phía Nam
nông trại, đi mất chừng hơn nửa giờ,
đến gần khu có cây xăng, nơi đây các thanh niên
người Nam Mỹ thường hay tụ tập, đứng
lóng ngóng chờ người đến thuê đi làm. Xe tôi vừa
đậu lại, th́ có hơn hai chục thanh niên vây kín,
lao nhao đ̣i đi làm. Có vài anh c̣n nhảy lên thùng xe ngồi
đó. Không ai biết tiếng Anh, mà tôi th́ mù tịt tiếng
Mễ. Họ biết tôi cần người làm, tôi biết
họ cần việc làm, nhưng không ai nói cho ai hiểu là
phải làm việc ǵ. Tôi nhảy xuống xe, đứng
cong lưng, hai tay đưa lên đưa xuống, ra dấu
đóng cọc. Họ à à gật đầu và cười,
nói "Ô kê, ô kê". Tôi ra dấu,đưa một ngón tay
lên, bảo là chỉ cần một người thôi, thế
mà bốn năm người nhảy lên thùng sau xe ngồi,
và chục người khác bu theo nhao nhao, nói ǵ tôi không hiểu.
Tôi chán quá, la lên và khoát tay, và lắc đầu, có ư bảo
họ là không thuê ai nữa cả, đồng thời ra dấu
cho mấy người ngồi trên xe tôi đi xuống. Phải
lâu lắm, tôi mới rời được đám người
nầy. Khó quá, ḿnh không biết nói, mà họ cũng không hiểu
ḿnh, và cứ đeo theo đ̣i đi làm. Tôi lái xe đi, giả
vờ như không thấy những người Mễ hai
bên đường đang ra dấu, hỏi tôi có thuê họ
hay không. Dừng xe lại là họ nhào đến, không
đi được. Tôi đang phân vân, chưa biết phải
làm thế nào, th́ thấy có một anh Mễ to lớn, mập
mạp, đang đi một ḿnh trên đường, tôi chạy
xe chậm lại, và hất đầu làm dấu như hỏi
anh ta có muốn đi làm viêc hay không. Anh vui vẻ gật
đầu, tôi mở cửa cho anh lên xe, th́ thấy có nhièu
người khác chạy gấp về phía tôi, và la lên, có
người níu xe. Tôi phải xua tay, và rồ máy chạy thẳng.
Đến một góc đường xa, tôi dừng xe lại.
Hỏi anh Mễ muốn tôi trả bao nhiêu một ngày. Hai
bên không hiểu nhau, anh Mễ cứ đực mặt ra,
như người điếc. Tự nhiên tôi cảm
thương anh Mễ , v́ anh làm tôi nhớ tới thời mới
tới Mỹ, ai nói ǵ cũng không hiểu và chỉ cười.
Tôi lấy giấy ra, ghi số tiền tôi muốn trả
cho anh ngày hôm nay, cao hơn lương lao động tối
thiểu chừng mười lăm phần trăm. Anh Mễ
lắc đầu, ghi số tiền gấp đôi. Tôi ra dấu
cho anh xuống xe. Anh lấy giấy ghi số tiền thấp
hơn. Tôi lắc đầu. Cuối cùng, anh bằng ḷng
làm việc với số tiền công tôi ghi ban đầu.
Đi bốc người, vừa
đi vừa về mất hơn hai giờ, rồi buổi
chiều phải mang trả anh ta tại chỗ cũ nữa.
Nhưng không thể làm việc một ḿnh được.
Tôi dẫn anh Mễ vào, dắt
đi quanh vườn, ra dấu cho anh biết là tôi sẽ
đóng cọc hàng rào quanh khu nầy. Hai người nói chuyện
với nhau bằng tay, ra dấu, và tôi nói tiếng Anh, anh ấy
nói tiếng Mễ. Tôi cầm cọc sắt cho anh Mễ
đóng. Tôi nghĩ là với cái tướng dáng to lớn vạm
vỡ đó, anh chỉ đóng ba búa cho mỗi cọc, là
đi tuốt xuông đất sâu. Nhưng không ngờ, anh Mễ
dáng búa lên, và gơ nhẹ xuống cây cọc, như sợ cây
cọc đau, cứ từ từ chầm chậm búa xuống,
thong thả nhàn nhă và nhẹ nhàng. Đóng măi mới xong
được một cây cọc. Vợ tôi đứng
nh́n. Khi đóng qua cây cọc thứ hai, th́ vợ tôi hỏi:
"Anh ơi, ông Mễ múa thể
dục Tài Chi hay sao mà yểu điệu và khoan thai thế.
Đóng cọc theo lối nầy, th́ biết đến thuỡ
nào mới xong được?". Tôi cũng nóng ruột với
cái dáng điệu khoan thai của anh Mễ, kêu anh xuống
thang, và bảo anh cầm cây cọc cho tôi đóng. Anh cầm
cây cọc chắc lắm, tôi cứ đóng xuống là thẳng
đứng. Ừ th́ ít ra cũng xử dụng được
cái sở trường của anh nầy. Tôi tự an ủi
là dùng người như dùng gỗ, dùng cái ưu điểm
của anh ấy thôi. Chưa lao động quen, mồ hôi cứ
vă ra như tắm, và tôi uống nước liên tục. Cứ
nửa tiếng, là tôi nghỉ ngơi một chốc. Vợ
tôi phàn nàn rằng, thuê người để họ làm, chứ
đâu phải thuê người về vịn cây cọc. Sau
nầy tôi mới được các bạn bè cho biết, họ
làm theo đồng tiền được trả, khi cho là
ít tiền, th́ họ làm ít. Tiền nào của đó, và một
lư do nữa, là họ làm chậm, th́ hy vọng công việc
làm được nhiều ngày hơn.
Buổi chiều, trả tiền
cho anh Mễ, anh kỳ kèo đ̣i thêm, cứ đưa tay ra
măi. Bực quá, tôi cho thêm năm đồng, anh vẫn ch́a
tay ra, tôi lắc đầu cương quyết không là
không. Vợ tôi thấy tôi cho thêm tiền, tiếc của la
lối:
"Không làm được ǵ mà
anh c̣n cho thêm tiền ư?" Vợ tôi kéo tôi ra nói nhỏ:
"Em nghĩ anh Mễ nầy
không được lương thiện lắm. Cứ nh́n
trộm em hoài., làm em sợ. Chắc ḿnh phải mua súng,
để tự vệ. Chứ nơi đồng không mông
quạnh nầy, có chuyện ǵ xẫy ra chẵng biết
làm sao." Tôi cảm thấy lo, nói cho vợ yên ḷng:
"Ừ, để rồi tính
sau. Dễ mà, xứ nầy mua bao nhiêu súng cũng được,
bất cứ loại súng nào. Tôi ra dấu cho anh Mễ lên
xe, để tôi chở trả anh về nơi cũ. Khi
đến gần nơi xuống xe, anh nói: "Mà nha na, mà nha na" ( manăna:
ngày mai), có ư muốn ngày mai làm việc nữa. Tôi chỉ hiểu
tiếng ngày mai thôi. Lắc đầu, tôi n"i 'Nô mà nha
na."
Chẳng thể không thuê
người phụ đóng cọc được, hôm sau
tôi lái xe về nơi cũ. Khi đi ngang chỗ các anh Mễ,
tôi gia tăng vận tốc chút xíu, thế mà cũng có những
cánh tay đưa ra ngoắt tôi. Ḷng tôi lại chợt chùng
xuống, và thương những người ĺa bỏ quê
hương đi kiếm ăn. Tôi nghĩ đến thân
phận ḿnh may mắn hơn, được vào Mỹ hợp
pháp ,được đi làm và cũng có cơ hội đồng
đều như người Mỹ sinh trưởng tại
đây. Tôi liếc mắt t́m những anh Mễ đứng
đơn độc, và chạy xe chậm lại kềm
sát một người đang đi ngược chiều.
Tôi hất đầu làm dấu, anh Mễ gật đầu.
Tôi mừng v́ anh nầy biết lơm bơm tiếng Anh. Tôi
đưa giá, anh bằng ḷng ngay. Anh nầy cao, gầy, rắn
chắc, tên là Pedro.
Rút kinh nghiệm ngày hôm qua, tôi
không nói trước là phải làm bao nhiêu hàng rào để họ
khỏi tính chuyện câu giờ. Tôi giữ cọc sắt
cho Pedro đóng xuống. Anh đóng ào ào, mỗi nhát búa tạ
của anh làm cây sắt đâm sâu xuống đất, sâu gấp
hai lần mỗi nhát búa của tôi. Tôi bằng ḷng lắm.
Vợ tôi đem nước cam và thức ăn, cùng trái cây
ra đăi trong khi chúng tôi nghỉ xả hơi. Ngày hôm đó,
chúng tôi đóng được gần ba lần ngày hôm
trước. Vợ tôi vui ra mặt và nói với tôi:
"Sao anh không đề nghị
cho Pedro làm khoán , có lẻ ḿnh đỡ mệt, mà đi lo
việc khác." Tôi cố gắng lắm mới nói cho
Pedro hiểu. Anh bằng ḷng làm, và cho một cái giá thấp
mà tôi không ngờ được. Tôi chở Pedro về, và hẹn
hôm sau trở lại đón lúc bảy giờ sáng. Hôm sau
Pedro đem theo một người bạn, hai anh thay phiên
nhau đóng cọc, và làm măi cho đến khi trời tối
mịt mới nghỉ. Tôi đăi hai anh nầy cơm nước,
bánh trái rất hậu. Vợ tôi nói "Ngày xưa Tào Tháo
đăi Quan Công e cũng chỉ đến thế mà thôi."
Chỉ mấy ngày, Pedro và bạn anh đă hoàn tất cái
hàng rào. Họ c̣n nhổ lên và đóng lại những cái cọc
xiên xẹo, những cái tôi đă đóng lúc đầu.
Hôm hoàn tất hàng rào, tôi làm tiệc
đăi Pedro, thịt nướng ăn với rau, có mấy
chục lon bia trợ lực. Trả tiền, và tính lại
th́ tiết kiệm được rất nhiều tiền
công, nếu thuê hăng chuyên môn rào, th́ tiền nhân công đắt
gấp ba lần.
Xong cái hàng rào, tôi mua hai trăm
con vịt xiêm, ba trăm con gà, thả vào vườn. Cho
chúng mặc sức mà đi lại, chạy nhảy và phá
phách khu cỏ chưa trồng trọt. Vịt th́ ban đêm
nó chui vào gầm nhà tiền chế mà ngủ, tránh
sương tránh gió. Cứ đầu hôm, chúng kêu om ṣm. Có
khi nửa đêm giật ḿnh v́ tiếng vịt kêu. Con tôi
cho rằng có lẽ vịt nó nằm mơ và la hoảng.
Tôi nghĩ là vịt nó núp dưới sàn nhà rất tiện
lợi, đỡ tốn tiền làm chuồng. Nhưng chỉ
mới mấy ngày, vợ tôi la các con, hỏi có đứa
nào đạp phân gà vịt và mang vào, làm dính thảm nhà hay
không, sao có mùi hôi măi. Tôi giật ḿnh, th́ ra vịt nó phóng uế
đầy ngập dưới gầm nhà. Thế là tôi phải
lái xe đi mua vật liệu, về h́ hục đóng chuồng.
Đóng một ḿnh th́ không được, phải có thợ
phụ. Vợ tôi giúp, và con gái đi học về cũng
ra phụ. Tôi phải dùng ṿi nước, ḅ vào gầm rất
thấp của căn nhà mà rửa cho sạch phân. Vừa
chật, vừa hôi, vừa khó chịu, tôi nghĩ ḿnh dại
quá, không nghĩ ra sớm cái chuyện vịt phóng uế.
Thôi th́ phải trả nợ cái tội thiếu nghĩ xa.
Tôi định rào lưới che
hầm sàn nhà, th́ có nhân viên của thành phố đến,
cho tôi biết rằng, theo luật thành phố, th́ cái nhà phải
mặc quần, nghĩa là che kín phần dưới chân lại,
không có quyền ở truồng, v́ mùa đông sợ lạnh
bụng. Thế là phải đi đặt hàng, mua vật
liệu để che kín cái chân nhà lại. Tôi cũng mất
cả tuần mới hoàn tất cái quần cho căn nhà.
Thức ăn gà vịt, phải qua thành phố bên cạnh
mà mua, chất đầy cả chục bao trên xe, chạy về.
Cũng chỉ có một ḿnh tôi lăn xuống xe hơi , bỏ
lên xe kéo, và mang vào chất trong kho. Nặng nề, mệt lử
và bụi bặm. Không quen lao động, khi nào tôi cũng
thở ph́ pḥ, có khi quáng mắt, thấy đom đóm giữa
ban ngày.
Phân gà phân vịt tràn đầy
cả sân cỏ, cả lối đi, nhăo nhẹt và dơ bẩn.
Tôi dùng ṿi nước xối rửa mỗi ngày. Sau nầy,
nh́n biên lai tiền nước, tôi giật ḿnh không dám rửa
ráy thường xuyên và xài phí nhiều. Có tháng phải trả
cả năm trăm đồng tiền nước, mà
chưa bán được đồng nào nông phẩm.
Gà cũng thả rong, vịt cũng
thả rong. Nhiều lúc chú gà trống lớn vô t́nh lăng văng
đi gần đàn vịt mái. Ông vịt xiêm đầu
đàn hiểu lầm, phóng đến đánh đuổi
chú gà. Thế là có cuộc đọ sức , như hai vơ sĩ
thượng đài. Chú gà đâu có chịu thua dễ dàng,
nhảy lên, cắn vào mồng ông vịt, dùng hai chân đạp
thốc vào ngực vịt, có lẽ hai cái cựa nhọn cũng
đâm sâu vào địch thủ. Ông vịt dong hai cánh đập
tạt vào, mạnh như roi quất. Có khi làm chú gà lộn
ngược nằm lăn ra đất. Cuộc chiến
kéo dài, tôi và thằng con trai ngồi coi khoái lắm, toét miêng
cười, và có khi la hỗ trợ cho cuộc chiến. Vợ
tôi th́ nhảy đổng lên mà gào:
"Anh không ra mà can chúng ra, để
chúng bị thương, có con chết đấy". "Con
nào chết th́ đem nấu cháo ăn". Tôi trả lời.
Ông vịt hạ cái đầu
xuống thấp , thẳng ra phía trước như vơ sĩ
đi xà quyền. Chú gà ngóc đầu lên cao mổ xuống.
Ông vịt hất ngược cái đầu lên, thọc mạnh
vào dưới hàm con gà, và hai cánh vịt đập vào
như trời giáng, chú gà ngă lăn quay. Đứng dậy,
bỏ đi mà không chạy trốn, rồi đập cánh
bồm bộp, gáy hai tiếng dài, như thổi kèn chiến
thắng. Ông vịt chắc cũng thấm đ̣n, gờm,
không dám đuổi theo.
"Sao con gà mà đấu thua con
vịt hở Ba?" Thằng con trai tôi hỏi.
"V́ con gà thiếu chính nghĩa.
Léng phéng gần đám đàn bà của con vịt. Vả lại,
theo luật quyền Anh, đây là một cuộc đọ
sức không cân xứng, con vịt nặng gần gấp
đôi con gà? ..". Tôi trả lời chưa xong, th́ thằng
con cắt ngang:
"Chính
nghĩa là ǵ Ba?". Vợ tôi nghe con hỏi, nạt tôi:
"Thôi ba nó ơi. Đừng
đầu độc con cái. Thấy gà vịt đánh nhau,
đă không can mà c̣n ngồi xem, tán thưởng. Làm con nó quen
với cái ác, hư đầu óc thơ ngây của chúng."
Đám gà vịt nầy, ăn mạnh
và lớn mau, đẻ trứng lung tung đầy vườn.
Chúng tôi phải đi nhặt cất vào thùng lớn, mua hộp
có ngăn đựng trứng mà chứa. Bây giờ th́ phải
nghĩ đến cách tiêu thụ trứng nầy. Vợ
tôi bàn rằng, mua một cái máy ấp, bán hột gà lộn
hai mươi mốt ngày, và bán luôn hột vịt lộn.
Cái máy ấp đem về, mỗi
lần ấp được ba trăm trứng. Ấp
xong, tôi lựa những cái trứng lớn cho gia đ́nh
dùng. Trứng ấp tại nhà, ăn ngon vô cùng, Nước
trong trứng ngọt lịm. Tôi ăn một lúc sáu cái.
Đứa con gái tôi rùn vai ghê sợ, không dám ăn. Thằng
con trai bắt chước bố, cũng ăn được
năm cái, và bị śnh bụng suốt đêm nằm rên
ư ử. Trứng ngon quá, đem đi bán th́ uổng, tôi
bàn với nhà tôi, chủ nhật nầy, đem về thành
phố tặng cho các bạn bè bà con, mỗi người
vài chục hột ăn chơi, hưỡng cái thành quả
đầu tiên của nông trại chúng tôi.
Thế là chúng tôi mất thêm một
ngày chủ nhật, chạy từ nhà nầy qua nhà kia, chia
cái vui của nông trại cho bà con. Ai cũng khen, vồn vă
tiếp đón, v́ mấy khi có trứng lộn tươi
như thế nầy trên đất Mỹ. Chúng tôi ra về,
dù đường xa mệt nhọc và tốn xăng, tốn
sức, nhưng ḷng vui như hoa nở.
Tôi đi ngoại giao, gặp các
chủ tiệm bán thực phẩm Á Châu, hứa sẽ cung
cấp cho họ rau tươi, bầu bí, gà vịt
tươi, trứng lộn, với giá rẻ. Đa số
đều vui vẻ, và bảo tôi đem hàng đến cho
họ xem, rồi họ sẽ mua. Về sau, trứng ấp
được đem bỏ mối cho các chợ , ban đầu
th́ bán rất khá, nhưng càng lúc, th́ càng ế ẩm, v́
người ta ăn cho vui, ăn để nhớ
hương vị quê nhà, không phải ăn v́ ngon, và muốn
ăn thường xuyên. Trứng không để lâu
được, các tiệm bán không hết trả lui, tôi phải
ôm về, c̣n phải năn nỉ bạn bè để tặng
không cho họ. Thế mà có người từ chối, và
nói thẳng thừng là không muốn ăn các thứ đó nữa.
Đám gà vịt, cũng không bán được bao nhiêu,
trong nhà ăn măi cũng ớn. Đem cho bạn bè th́ nhiều.
Người th́ làm tiết canh vịt,vịt xáo măng, gỏi
gà, cháo gà, phở gà. Gà tươi nuôi trong vườn th́
ăn ngon. Cho th́ họ ăn, nhưng mua th́ không mua. Tiền
bán gà vịt gom lại, không bằng tiền thực phẩm
mua cho chúng ăn trong vài tháng. Ấp trứng th́ lỗ vốn
lớn, có lẽ tiền bán được chưa đủ
tiền điện, tiền xăng, chưa kể công vận
chuyển.
Khi nuôi vịt, tôi nghĩ vịt
là phải có nước cho chúng tắm, tôi chưa biết
vịt có thể ở khô. Tôi thuê xe ủi đất, h́ hục
đào một cái hồ lớn, cái hồ chứ không phải
là ao. Mấy ngày ṛng ră. Tôi vật lộn với cái máy ủi
đất. Đào, xới hắt lên cao. Khi đào xong cái hồ,
th́ tôi chợt nhận ra là cái xe ủi đất đang nằm
dưới ḷng hồ, mà bờ hồ th́ cao, dốc đứng,
xe không lên được. Tôi phải h́ hục đào một
đường dốc xiên cho xe đi lên. Thế là vợ
tôi có dịp để cười và chế nhạo.
Đào hồ xong, th́ phải xả nước vào , và hy vọng
mùa mưa khỏi phải tốn nước. Cuối tháng
đó, đọc cái biên lai tiền nước mà tôi hoa mắt,
chóng mặt. Tôi phải dấu cái biên lai tiền nước,
không cho vợ biết, v́ sợ vợ buồn. Cái ao đă
đào lỡ rồi, mỗi ngày nước bốc hơi,
phải châm thêm cho đầy. Nghe tiếng nước chảy,
mà tôi đau như máu ḿnh đang thất thoát. Bỗng tôi
đâm ác cảm với bầy vịt, ăn th́ như hạm,
phóng uế vung văi, bán th́ khó. Để già th́ thịt dai,
không ai ăn, và họ có lỡ mua một lần, th́ lần
sau không dám đụng đến nữa. Vịt già cũng
sẽ làm hại uy tín kinh doanh. Làm thịt bỏ tủ lạnh,
th́ tôi không đủ can đảm đầu tư thêm cái
máy làm gà vịt, không đủ vốn, mà từ đó sinh
ra nhiều chi phí khác nữa.
Cứ nghĩ ra thêm một cái ǵ,
th́ tốn kém thêm tới đó. Có người mách tôi, cứ
đem gà vịt ra chợ trời mà bán vào các ngày họp chợ,
từ thứ sáu đến chủ nhật. Lại biết
thêm nghề bán chợ trời. Bán ở chợ trời th́
chịu nắng nôi, nhưng nhiều người mua. Về
sau, tôi bán sỉ với giá rẻ cho những người
bán lẻ. Như thế th́ mau hơn, đỡ tốn
công, đỡ mệt nhọc.
Tôi dựng giàn trồng bầu
bí, chưa kịp đi mua gỗ đóng giàn, th́ có người
mách bảo: "Hăy mua ống
nước bằng nhựa, mua thêm các khúc ống nối thẳng,
nối cong, nối chữ T, chữ L. Cứ thế mà ráp
vào thành giàn, làm mau như gió. Tội chi mà đóng ǵan gỗ
cho khổ công mà mau mục ải.". Tôi nghe theo lời thầy
bàn, nghe th́ có lư lắm, nhưng khi vào thực tế th́ gặp
không biết bao nhiêu vấn đế. Thứ nhất là quá
tốn kém, thứ hai là giàn không vững, khi gió thổi th́ mấy
cái giàn cứ đu đưa nhún nhẩy theo chiều gió.
Thế là phải mua thêm ống nước lớn mà chống
chỏi, mà đâu phải là dễ chống, v́ ống
nước nhựa trơn lu, không có nơi tựa, mà đóng
đinh th́ xộc xệch lỏng lẻo. Lại tốn
thêm bộn tiền. Phải mua thêm lưới mắt cáo
trùm lên cho bầu bí leo. Mỗi ngày, buổi chiều đi học
về, con gái tôi ra vườn tưới cây. Bầu bí lớn
mau như thổi, chẳng bao lâu dàn cây lá sum sê xanh mướt,
ra hoa vàng rực, và những nụ trái nhú ra đẹp
như những nậm ngọc. Lũ ong bướm kéo
đến nhởn nhơ. Tôi nh́n mà ḷng vui không xiết. Rồi
những trái bầu bí dài tḥng, nặng chĩu, phải buộc
dây treo chúng lên.
Vợ tôi bàn rằng, nên thuê
người đổ đất làm một con đường
chạy từ ngoài vào đến cuối vườn, để
mai đây, khi nông phẩm nhiều, xe vận tải lớn
có thể vào chuyên chở thẳng ra chợ. Tôi thấy có
lư quá, đi giao thiệp,và giao cho nhà thầu đổ
đất, cán đường, làm mương thoát nước
hai bên đường. Lại tốn kém thêm ngoài dự trù,
nhưng nghĩ lại, mai đây, đỡ tốn công thuê
người khuân vác từ nhà ra đường. Sau nầy,
con đường chưa được hân hạnh
đón chiếc xe vận tải nào đi qua, v́ chúng tôi
ước tính th́ nhiều, mà thành quả nông nghiệp không
gặt hái được bao nhiêu.
Những trái bầu non, nấu
canh tôm ngọt nước, ban đầu th́ ngon lắm, vợ
chồng khen tấm tắc và như ăn canh thay cơm,
nhưng ăn măi th́ cũng chán. Bạn bè bà con xa gần cũng
hưởng được thành quả của chúng tôi.
Chúng tôi đem bầu bí ra bỏ mối ở các chợ Việt
Nam, có bao nhiêu bán được hết bấy nhiêu.
Nhưng đó là thời gian đầu mùa, về sau, dù xuống
giá rẻ rề, cũng không bán hết, phải mang các thứ
trái cây héo về, đổ xuống làm phân xanh. Tôi lại
chuyển bầu bí ra chợ trời, bán sỉ cho các gian
hàng, người ta trả giá nào cũng phải bán tháo
đi. Bạn bè bà con, ăn măi cũng chán bí chán bầu,
không ai muốn nhận các món quà nầy,v́ ngoài chợ cũng
rẻ rề.
Chúng tôi tính toán sai cả, th́ ra cái
tưởng tượng khác xa thực tế. Chưa có
kinh nghiệm, chưa từng trải, cứ vẽ vời
trong trí tưởng tượng mà đem ra thực hành.
Đôi khi tôi có cảm tưởng như vợ tôi là vị
bí thư tỉnh ủy, cứ vạch hết kế hoạch
nầy, đến kế hoạch kia, mà tôi là nhân dân, chỉ
biết thi hành,và sai th́ sửa, và càng sửa th́ càng sai.
Mùa đông đầu tiên, một
buổi sáng thức giấc , dậy đánh răng rửa
mặt, mở nước không chảy. Tôi tưởng hăng
cung cấp nước tạm thời khóa nước để
sửa chũa. Tôi định sẽ kêu điện thoại
than phiên v́ khóa nước mà không báo trước. Nhưng
sau tôi mới biết là thời tiết lạnh, đă làm
đông đá nước trong ống. Mấy đứa con
tôi không chịu đi học v́ chưa đánh răng súc miệng.
Tôi cũng chịu thua. Ống nước bị lạnh
đông đá, làm nhiều nơi bị vỡ, khi đá tan,
nước chảy lênh láng. Lại phải nhờ mấy
ông thợ ống nước đến sửa chữa với
tiền công chém rất ngọt. Nhà tiền chế, tường
mỏng, mái mỏng, mùa hè th́ thiêu đốt như ḷ lửa,
mùa đông th́ lạnh căm căm. Tôi lại phải tốn
thêm tiền mua hệ thống sưởi, hệ thống
điều ḥa không khí.
Chỉ một thời gian thôi,
tiền tiết kiệm, tiền bán căn nhà, đă đổ
hết vào cái nông trại. Thấy cạn tiền đầu
tư cho mùa tới,vợ tôi bàn chuyện đi vay ngân hàng,
đem cái nông trại nầy ra mà cầm cố. Thôi th́ cũng
liều - Sống trên xứ nầy không có nợ, th́ không phải
là người tốt - Một anh bạn tôi bảo vậy.
Tôi chở vợ ra ngân hàng làm giấy tờ vay mượn.
Chỉ mấy hôm sau, được giấy báo là ngân hàng
đă chấp thuận. Chúng tôi hớn hở, cứ c̣n
nước th́ c̣n tát, để cứu văn cái nông trại nầy.
Nhưng khi nh́n vào bản chiết tính chi tiết các phí khoản
vay, đủ các thứ chi phí, vay th́ ít, mà nợ tốn kém
th́ nhiều. Vợ tôi nhăn nhó, nói tiếng Việt Nam với
tôi, trước mặt ông nhân viên cho vay:
"Bọn nầy là tụi
ăn cướp ngày, ăn cướp có giấy tờ,
ăn cướp có pháp luật che chở. Vay chừng
đó, mà chi phí chừng đó, có chết th́ thôi, tôi không
mượn đâu. Thôi đi về." Không mượn
được tiền, chúng tôi lo lắng lắm. Thôi th́ tạm
thời chi tiêu bằng thẻ nhựa, chịu lăi suất
cao, cũng c̣n đỡ hơn. Tôi thức khuya, dậy sớm
chăm nom lũ gà vịt, lũ rau ráng. Có khi đến
mười giờ khuya mà vẫn c̣n vác nặng trên vai những
bao thức ăn súc vật, c̣n xối nước tưới
cây. Những lúc nầy, tôi cũng bắt chước vợ
mà hổn hển ngâm nga: "Ta dại ta t́m nơi vắng
vẻ, người khôn người t́m đến chốn
lao xao ..", và thấy ông Trạng Tŕnh Nguyễn Bĩnh
Khiêm viết sấm kư giỏi quá, dự đoán
tương lai cho tôi đúng phóc. Quả không có ai dại bằng
ḿnh., t́m đến nơi vắng vẻ nầy mà lao động
khổ nhọc, đốt hết tiền tiết kiệm
trong bao nhiêu năm.
Một hôm nửa khuya thức giấc,
vợ tôi nhẹ nhàng hỏi:
"Anh có nhớ chuyện Tam Quốc
Chí không? Khi đánh nhau, họ hay lập thế trận ỷ
dốc. Anh có biết thế trận ỷ dốc là thế
nào không?". "Trời
ơi, nửa đêm mà nói chuyện Tam Quốc Chí, anh lao
động quần quật từ sáng đến khuya, ră
người, em để anh ngủ cho có sức để
mai c̣n lao động tiếp." Tôi nghe tiếng thở
dài năo nuột của vợ mà động ḷng, trả lời
ấm ớ cho vợ khỏi buồn:
"Anh không biết chắc ỷ
dốc là cái khỉ khô ǵ. Nhưng có lẻ họ chia quân
đóng hai vị trí khác nhau, một nhóm tác chiến, c̣n nhóm
kia yểm trợ" .
Vợ tôi như bắt
được ư, hăng hái nói:
"Em nghĩ, ḿnh cũng nên bắt
chước người xưa, lập thế trận ỷ
dốc mà cứu văn cái nông trại nầy. Có nghĩa là anh
xin việc đi làm bên ngoài, đem lợi tức về bù
đắp, yểm trợ cho khu nông trại của chúng ta.
Nếu một năm sau nữa , mà c̣n không nên cơm cháo ǵ,
th́ bán quách, chúng ta đi làm công cho người khác. Nếu
thành công, th́ anh nghỉ việc bên ngoài, trở về với
nông trại." Nghe vợ bàn mà tôi tỉnh ngủ. Ừ,
giản dị thế mà cũng nghĩ không ra. Cứ lo lắng
hoài. Đàn bà cũng có nhiều cái suy nghĩ thật hay.
Tôi nhẹ nhàng hỏi vợ:
"Nhưng một ḿnh em, có kham
hết công việc trong nông trại nầy chăng? Việc
th́ bề bộn, nặng nhọc, làm hoài không hết.".
" Những việc thường thường, th́ em có thể
làm được, những việc nặng nhọc, th́ chờ
anh đi làm về giúp". Tôi nghe mà ngao ngán. Thế nầy
là vui thú điền viên trong tuổi xế chiều chăng.
Ngày đi làm toàn thời gian, đêm về làm việc nặng.
Nhưng có lẽ không c̣n giải pháp nào tốt hơn. Ráng
thêm vài năm nữa, may ra thời vận đến.
Nhờ có chuyên môn, tôi xin
được việc làm có đồng lương khá. Mỗi
tháng đem tiền lương về nuôi lũ gà vịt, lũ
rau ráng bí bầu. Công ty tôi làm đang đến đến
hồi phát triển mạnh, mỗi ngày tôi làm việc từ
mười đến mười hai giờ, mỗi tuần
làm sáu ngày. Mịt mờ trời đất, thế mà
đêm về cũng phải lo thêm việc của nông trại
nữa. Vợ tôi thỉnh thoảng phải thuê người
phụ làm trong vườn. Lương tôi cũng tạm thời
đắp đỗi chi phí của nông trại. Ngày chủ
Nhật tôi phải lái xe đưa nông phẩm ra chợ
bán. Nghĩa là không có một ngày nghỉ nào trong tuần.
Thỉnh thoảng nghe vợ tôi
than phiền về chồn cáo bắt mất một số
gà vịt, tôi chỉ cười bảo:
"Chia cho chúng tha bớt, mất
càng nhiều, th́ em càng đỡ mệt." Chồn cáo xứ
nầy khôn ngoan lắm, chúng biết con chó săn trong nhà
đêm đêm đi tuần rảo quanh hàng rào, rồi vào nằm
nghe ngóng canh chừng. Chúng lập kế đánh du kích ,
để vài ba con kêu chí chóe xa xa về hướng
đông, con chó chạy về hướng đó mà sục sạo.
Thừa thế, chúng lẻn vào hướng tây mà bắt gà
vịt lôi đi. Khi lũ gà vịt kêu lên thất thanh, con
chó quay lại, th́ chồn cáo đă đem theo được
chiến lợi phẩm mà cao chạy xa bay, ra khỏi ṿng
rào.
Mấy hôm, thấy lũ vịt
không xuống hồ bơi lội mà đứng trên bờ
ngơ ngác, lông lá tả tơi. Tôi ra xem, thấy mặt hồ
đóng váng, như có ai đổ dầu, và quanh bờ th́
có những vờ bọt đen đặc quánh. Tôi vớt
bọt, dùng cây mà quậy, th́ thấy như có chất dầu.
Đem đốt th́ cháy ra khói đen đặc và hôi mùi dầu.
Tôi tái mặt, và nhảy cẫng lên mà chạy mau vào nhà la lớn:
"Em
ơi, ḿnh sắp thành tỷ phú rồi em à. Dưới
đất của ḿnh có vàng đen. Dầu, dầu hỏa,
ḿnh sắp thành phó vương dầu hỏa rồi. Thôi, dẹp
hết, bỏ hết, chẳng có bí bầu gà vịt chi nữa.
Bỏ ra công sức th́ nhiều, mà thu hoạch chăng bao
nhiêu. Bỏ ra cả trăm ngàn bạc mà thu lại chưa
được vài ngàn. Trời thương chúng ḿnh, trời
đăi chúng ḿnh." Vợ tôi chưa tin, tôi ra hồ nước,
vớt dầu vào làm thí nghiệm chứng minh. Vợ tôi thấy
dầu cháy, ôm lấy tôi hôn mà kể công, rằng đó là nhờ
nàng đưa ư kiến làm nông trại, mà nay thành tỉ phú.
Cả tuần, chúng tôi bỏ không tưới cây, gà vịt
th́ cho ăn cầm chừng. Kêu bạn bè đến, bảo
muốn bắt bao nhiêu th́ bắt. Giàu rồi, th́ kể chi
mấy con gà, con vịt lẻ tẻ. Nhiều đêm hai vợ
chồng tôi nằm mơ chuyện sang giàu, gởi con qua Anh
Quốc cho học trường lớn nhất., chuyện
ngao du khắp thế giới. Tôi chạy ngược chạy
xuôi t́m hăng khai thác dầu. Và niềm vui của tôi xẹp xuống,
khi nghe người ta nói về việc khai thác dầu. Hăng
dầu c̣n xem trữ lượng được bao nhiêu, có
đáng khai thác hay không, và khi biết mỏ dầu có trữ
lượng cao, th́ họ chỉ thuê một khu đất
nhỏ,với giá rẻ mạt, không đáng vào đâu. Thế
là giấc mơ tỷ phú của chúng tôi xẹp xuống thảm
hại.
Việc trồng trọt và nuôi
gà vịt quá nhọc nhằn, chúng tôi không kham nổi, vợ
tôi bàn chương tŕnh nuôi dê, ḅ. Chúng tôi bán tháo hết
đám gà vịt, mua hai mươi lăm con dê cái, có con
đă chửa bụng lưng lửng, và một anh dê đực
râu xồm, có hai cái sừng quăn lại, xỉa ra
đàng trước. Mua thêm bốn con ḅ, ba con cái, một
con đực. Bọn dê tạp ăn, lá ǵ cũng bứt
và nhai nuốt, thật là dễ nuôi. Thả chúng long rong
trong vườn. Cách nuôi thật nhàn hạ, không cần
chăm sóc chi nhiều. Bốn con ḅ cũng vậy. Mỗi
ngày, con dê đực làm t́nh với bọn dê cái liên miên, làm
vợ tôi ngượng. Con chó, cũng to lớn không thua ǵ
con dê, nhưng sống độc thân, mỗi lần thấy
con dê đực nhảy cái, th́ nó ghen, chồm lên mà sủa
om ṣm. Có khi nó nhảy lên, tấn công sau mông con dê đực.
Con dê dực tức giận v́ kẻ phá đám, quay lại,
dùng sừng ủi đại vào cho chó. Có khi con chó tránh
đ̣n không kịp. Cũng lăn kềnh ra. Vợ tôi đứng
la lớn, bảo tôi can chúng ra. Sợ con chó bị
thương v́ cái sừng nhọn của dê. Tôi cũng nạt
nộ, la hét mà hai bên không ngưng chiến. Tôi phải dùng
cây roi da, vụt túi bụi vào cả dê lẫn chó, chúng mới
chịu dang ra.. Vợ tôi nói:
"Con dê nầy hung tợn quá,
có ngày con chó bị sừng dê đâm đổ ruột".
Tôi cười:
"Lỗi tại con chó. Trời
đánh c̣n tránh bữa ăn. Huống chi nó đang làm cái việc
truyền giống thiêng liêng, mà con chó nhảy vào phá đám.
Ví như tụi ḿnh đang vui vẻ, có đứa nào phá
đám, ḿnh có nổi điên lên không.". "Thôi ông ơi, ăn nói đàng
hoàng một chút có được không?" - Vợ tôi cằn
nhằn.
"Mà con chó nó ghen tức cũng
phải, nó th́ chay tịnh, mà con dê th́ cứ làm t́nh lia lịa,
không ngứa mắt sao được?". Mấy con dê
cái bắt đầu sinh con, những con dê con như cục
nhung mềm, môi đỏ hồng, hai mắt long lanh, dáng
đi yếu đuối. Mấy đứa con tôi cưng
chúng lắm. Cứ ẵm bồng hoài. đi học về
là ra vườn ẵm dê con vuốt ve.
Chị tôi từ Úc Châu qua Mỹ
thăm, anh chị thấy tôi ở giữa đồng
không mông quạnh gió hú vi vu mà ái ngại. Cứ lắc đầu
măi. Cứ nói măi câu:
"Cậu mợ tính như thế
nầy là trật lất rồi. Ḿnh đă xa quê
hương, thiếu t́nh đồng bào, phải sống
nơi nào phồn hoa đô hội, cho bớt nỗi cô
đơn. Lại gần chợ búa, gần bệnh viện,
gần các tiện ích công cộng, có bạn bè, có bà con láng
giềng, khi đau ốm, khi trái gió trở trời có nhau.
Lại khi muốn ăn tiệm Việt Nam cũng phải
lái xe đi về hơn hai giờ , phí công quá. Phải tính
lại đi." Một buổi sáng sớm, cả nhà ngồi
uống cà phê nh́n qua cửa sổ, thấy con dê đực
đứng trước cửa chuồng, chổng râu dê lên
đón bọn dê cái. Mỗi khi có con dê cái đi ngang qua, th́
dê đực nhảy lên lưng làm t́nh. Liên tiếp mười
mấy lần, mà thấy chàng dê vẫn tỉnh táo như
thường. Chị tôi phát mạnh vào vai anh rể tôi
cười mà nói:
"Ba mầy chẳng bằng một
phần nào của con dê cả." Anh rể tôi b́nh tĩnh
nói:
"Em xem, con dê đực thay
đổi nhiều con dê cái khác nhau, chứ nếu chỉ
có một con dê cái thôi, th́ nó cũng chỉ làm một lần,
chứ không làm đến lần thứ hai. Nếu có hai chục
bà khác nhau, th́ anh đâu có thua anh dê kia chút nào." Trưa hôm
ấy, một người bạn cũ của anh rể
tôi ghé nhà thăm, thấy bầy dê và nghe kể lại chuyện
tiếu lâm buổi sáng, mắt anh sáng lên, rủ chúng tôi
đi đến tiệm bán thịt dê của người Ấn
Độ nằm về phía Bắc của thành phố.
Đi mua thịt dê về nhậu chơi, tăng cường
sức khỏe mà bổ dương. Mấy bà ở nhà,
chúng tôi ba người đàn ông lái xe đi. Tiệm rộng
lớn, có hai căn, như một căn chợ. Nồng nặc
mùi cà ri, mùi hương vị. Đủ loại cà ri, đủ
loại hương vị trong bao ni lông, chất đầy
trên kệ. Bên kia th́ dê dă lột da treo ḷng tḥng nhiều con
trần truồng. Khách hàng muốn mua cẳng, đùi, ngực,
th́ cứ việc chỉ vào đó. Anh Ấn Độ
đầu quấn khăn chà chóp đem cưa đến,
cắt ào ào gọn nhẹ lắm. Chúng tôi mua nguyên cái
đùi sau con dê, hơn mười cân Anh. Anh rể tôi thấy
nhiều cặp ngọc dương (dái dê) tṛn trĩnh, trắng
tươi, gói trong giấy bóng rất bắt mắt, xuưt
xoa, đ̣i mua đến năm cặp. Tôi hỏi ai mà
ăn hết, anh bảo không ai ăn th́ để cho anh. Mấy
khi mà có thứ quư báu nầy trên miền đất văn
minh. Anh th́ thầm: "Ăn thứ nầy vào, th́ phải
biết. Không có hiệu quả sao có ghi trong sách thuốc
người Tàu?" Chúng tôi mua thêm một ít hương liệu,
rồi hớn hở chạy xe về. Ông bạn anh rể
tôi dành làm bếp, nấu các món đặc biệt, mà ông nói
đùa là món "Ông ăn bà khen". Ông bạn đem ướp
ngọc dương rồi xào với hành tây, đem ra nhậu
trước. Mấy bà biết đó là cái ǵ, th́ cứ la
oai oái ngoảnh mặt đi. Mười viên xào tṛn trịa
nằm trên dĩa, có hành xắt lát, có tiêu rắc lấm chấm
đen. Trông thật ngon. Tôi bắt chước ông anh, gắp
một viên đưa vào miệng, mới cắn sơ,
đă có mùi thum thủm, tôi muốn nhả ra. Trong lúc ông bạn
của anh tôi th́ gắp bỏ vào mồm, nhai nuốt ực
ngon lành, c̣n hít hà khen ngon. Ông anh rể tôi cũng thưởng
thức tận t́nh và nói:
"Bổ lắm đấy
nhé. Cứ ăn vào là nghe máu chuyển rần rật , mặc
sức mà rượt các bà chạy có cờ. Người Ấn
Độ và Trung Hoa biết món ăn nầy nên đông con
là phải". "Nếu có thêm rượu thuốc toa
Minh Mạng nữa, nhấp vào, th́ là một phối hợp
hết sẩy" - Bạn ông anh tôi tiếp lời - "Hồi
c̣n ở bên nhà, tôi thấy mấy ông già trộn huyết dê
với rượu, uống vào th́ như thần dược."
Thịt dê được nấu càri, thêm nhiều
hương vị khác, nước cà ri vàng màu đỏ sền
sệt, chấm với bánh ḿ mà ăn. Bà chị tôi nói:
"Vẫn c̣n mùi mồ hôi dê. Nghe
đâu khi làm dê, để thịt khỏi hôi, người
ta cho dê uống nước, rồi cột dây, đánh nó chạy
quanh một cái cọc, cho vă mồ hôi ra. Xong xối nước
tắm cho nó. Bao nhiêu mùi hôi đều ra hết." Vợ
tôi xen vào:
"Ở Mỹ mà làm thế là
đi tù sớm, v́ mang tội hành hạ súc vật. Ngon
đâu không thấy, đi tù mệt lắm". Mấy hôm
sau, có con dê cái trong vườn bị thương tích, ông bạn
của anh tôi đề nghị làm dê thui mời bạn bè
ăn chơi. Ông nhận trách nhiệm thọc huyết và lột
da dê. Cái chậu đựng rượu Vodka được
chôn lưng chừng xuống mặt đất, ông thọc
dao vào cổ dê mà ngoáy. Máu dê tuôn ra kêu ọc ọc. Các bà khiếp
sợ la lên và bỏ chạy cả. Mổ bụng ra, mối
biết con dê có chửa. Cái tử cung chứa bốn con dê
con đă tượng h́nh. Ông bạn anh tôi xuưt xoa, bảo rằng
thứ nầy quư lắm, để ông làm dê "hà nàm" cho mà ăn. Cái bọc
tử cung để nguyên, đổ vào nồi, đặt
lên bếp hầm với nhiều vị thuốc bắc.
Khi cnhí đem xuống, vớt ra dĩa, dùng dao mà cắt từng
khoanh, thịt dê con mềm nhũn, nuốt vào cổ như
ăn đông sương. Con dê được xuyên qua cây cọc,
quay trên đống lửa than đá.
Tôi điện thoại mời
đám bạn bè xa gần đến tham dự buổi tiệc
thịt dê. Nghe có tiết canh dê, dê thui, dê "hà nàm", ông nào cũng hớn
hở, đ̣i mời thêm các bạn bè khác nữa.
Đám đàn ông ăn uống nhồm
nhoàm, miệng môi đầy máu tiết canh, nói chuyện tiếu
lâm bao quanh vấn đề t́nh dục, không kiêng cữ ǵ cả,
và cười ha hả, làm nhiều bà nhăn mặt bất
b́nh.
Buổi tiệc thịt dê thật
vui, anh em ra về hỉ hả, và hẹn có ngày trở lại
làm một chầu khác. Tối hôm đó, tôi nằm chờ kết
quả của dê "hà nàm" và tiết canh dê, nhưng
không thấy ǵ cả, và ngủ quên cho đến sáng. Vợ
tôi nh́n tôi cười hỏi:
"Có thật thịt dê làm
tăng cường năng lực sinh lư không?". "Toàn cả chuyện tào lao, tiếu
lâm chơi thôi, đàn ông ưa ăn tục nói phét, bịa
chuyện cho vui bữa rượu ấy mà". Bọn dê
sinh sản nhanh, mau lớn, và ăn tạp, phá trơ trụi
cả khu vườn. Chúng biết đứng lên trên hai
chân sau, mà bứt lá những cành cao. Làm cho khu nông trại
tiêu điều trống trải. Mỗi chủ nhật,
tôi đẩy dê lên xe, đem ra bán ở chợ trời. Thấy
ḿnh giống mấy anh nông dân Âu Châu tả trong tiểu thuyết
của Pháp, mà ngày xưa thường hay đọc ..
Đem dê bán cũng không phải là chuyện giản dị,
đứng chờ, trả giá, c̣ cưa. Loại người
như tôi không thích hợp với công việc thương
măi, nên cảm thấy chán lắm.
Một lần đứng bán dê, có
cô thư kư trong sở đi chợ trời, thấy tôi, nhảy
đến ôm chầm như gặp cố nhân - Mà ngày nào
không gặp nhau chứ - Cô cười nói huyên thuyên và ôm hôn
mấy con dê như người Mỹ thường hôn chó.
Thấy cô thích quá, và hỏi chuyên dê tíu tít, tôi cho cô một
con. Lấy cái áo cũ bao mông nó lại, đẩy lên
băng sau chiếc xe hơi sang trọng của cô thư
kư. Con dê phá tan cả vườn hoa của nhà cô và hai vợ
chồng gây nhau, suưt li dị. Cô dem con dê trả lại cho
tôi ngay tại sở. Tôi lại phải khổ sở kiếm
vải bọc mông con dê, cho lên băng sau chiếc xe ḿnh, chở
về. Vợ tôi thấy con dê la lên:
"Dê bán không hết, anh mua thêm
về làm chi?"
Vợ tôi nhọc nhằn v́ cái
nông trại quá, bàn với tôi bán đi, về lại thành phố
ở. Phải gần nửa năm mới bán được
đám đất nông trại. Bán lỗ vốn, v́ chúng tôi
muốn phủi tay cho xong. Căn nhà tiền chế, người
mua đất đ̣i chúng tôi trả thêm tiền họ mới
nhận. C̣n không th́ phải dẹp đi. Chúng tôi năn nỉ
măi, họ mới nhận với điều kiện tất
cả trang bị về máy sưởi, máy lạnh, điện
nước để nguyên. Vợ tôi nói:
"Ai đời cho không căn
nhà mà phải năn nỉ người ta. Lại c̣n đ̣i
hỏi đủ điều." Chúng tôi thở phào, thoát
ra được cái "vui thú điền viên" nhọc
nhằn đó, dọn về phố, thuê nhà ở. Dù c̣n nợ
nần nhiều, nhưng chúng tôi cảm thấy như trút
được gánh nặng ngàn cân trong ḷng. Hai vợ chồng
đi làm công , chiều về ngồi xem truyền h́nh,
đọc sách đọc báo. Buổi tối ngủ thẳng
giấc không lo lũ chồn cáo du kích tấn công. Ngày nghỉ
rủ nhau đi chơi, đi phố, thăm bạn bè bà
con. Thảnh thơi không lo lắng nhiều. Suốt ba
năm làm nông trại, tôi chỉ có được một lần
vui toàn vẹn, là lần mời bạn bè cùng ăn thịt
dê. Tôi chưa có một lúc rảnh rang để ngửng
đầu lên trời nh́n trăng, chứ khoan nói là khi xem
hoa nở khi chờ trăng lên.
Tôi bảo với vợ rằng:
"Mấy ông thi sĩ, văn sĩ,
cứ vẽ vời ra cảnh thơ mộng để gạt
gẫm tụi ḿnh.. Tiêu phí sạch cả tiền bán căn
nhà, tiền tiết kiệm, mà lại ngày đêm đầu
tắt mặt tối trong mấy năm. May mà thoát ra
được. Sướng quá. Thôi nhé, từ nay em đừng
vẽ vời thêm chuyện thơ mộng nữa nhé.".
Vợ tôi cười:
"Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm có
nói rồi: "Ta dại ta t́m nơi vắng vẻ". Lỗi
tại ḿnh, không chịu hiểu nghĩa đen mà cứ hiểu
nghĩa bóng. Nên mới ra nông nỗi."
TRÀM
CÀ MAU
(Diễm
Kiều
sưu
tầm
và chuyển)