Home | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | HU'U~ ÍCH 3 | HU'U~ ÍCH 4 | HU'U~ ÍCH 5 | HU'U~ ÍCH 6 | HU'U~ ÍCH 7 | LINKS | CU'̉'I CHÚT CHO'I | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TÀI T̀NH | DANH NHÂN | THÚ VI. | GIA -D̀NH | GIA -D̀NH [tt] | DÊ~ THU'O'NG | LA. ! | KHÔ? | KHÔ? [tt] | SU'U TÂ`M TÊ'U

TA.P GHI 1

 

 

Thấp thoáng lời kinh : TÙY HỶ

(Bác sĩ Đ Hng Ngc)

 

 

Lúc bấy giờ Di Lặc Bồ tát bèn bạch Phật: «Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ th́ đặng bao nhiêu phước đức?»

 

Ối trời, các phẩm trước của Pháp Hoa đều chỉ nói đến chuyện «thọ tŕ đọc tụng biên chép giảng nói» kinh .. mới có được phước đức, bây giờ Bồ tát Di Lặc hỏi kỳ cục: ch tùy h không thôi th́ s đặng bao nhiêu phước đức?

 

Bồ tát Di Lặc quả là vị Phật của tương lai, biết trước loài người sau này ngày càng ham danh ham phước mà lại làm biếng, chỉ muốn người ta làm sẵn rồi .. «ăn theo»! Có lẽ v́ thế mà Di Lặc Bồ tát thuở xưa có tên là Cầu Danh, làm biếng có tiếng, đến nỗi bị Bồ tát Văn Thù chê trách: «tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất»!

 

Nhưng thật bất ngờ, Phật hỏi lại: Giả sử có một đại thí chủ bố thí cho khắp chúng sanh mọi thứ tiền tài của cải trong tám mươi năm, rồi bố thí pháp giúp chúng sanh đó đắc A-la-hán, thiền định, tự tại «đủ tám món giải thoát» th́ công đức đó có nhiều không?

 

Di Lặc đáp: Rất nhiều. Rất nhiều. Vô lượng vô biên công đức! Nào tài thí, nào pháp thí .. cho chúng sanh đạt quả A-la-hán, Vô sanh, Niết bàn, c̣n ǵ hơn!

 

Phật nói: Không ăn thua chi đâu! Chỉ cần một người nghe kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ rồi đem kể lại cho người khác, rồi người đó lại tiếp tục tùy hỷ kể cho người khác nữa .. cứ thế cho đến người thứ năm mươi th́ «công đức tùy hỷ của thiện nam tử, thiện nữ nhơn thứ năm mươi đó .. gấp trăm ngh́n lần, gấp trăm ngh́n muôn ức lần .. đại thí chủ kia, không thể tính đếm được!»

 

Người thứ năm mươi đó mà c̣n phước lớn như vậy huống là người được nghe kinh Pháp Hoa trong buổi hôm nay mà có ḷng tùy hỷ th́ «phước đó lại hơn vô lượng vô biên a tăng kỳ không có thể so sánh đặng»! Phật c̣n dặn Di Lặc: «Nghe cho kỹ nha!» Nghĩa là không phải chuyện chơi!

 

Rồi Phật c̣n cho thí dụ cụ thể hơn: Chỉ cần trong chốc lát nghe nhận, cũng đủ .. ở thiên cung, chỉ cần né qua một bên cho người khác ngồi ké để cùng nghe đủ để làm Phạm Vương, Đế Thích .. ! Cho đến một người chỉ cần truyền miệng, rỉ tai nói với người khác rằng: «Có giảng kinh Pháp Hoa ḱa, nên cùng nhau tới nghe đi!» Vậy thôi là đă công đức lớn đến nỗi thân thể đâm ra tuyệt mỹ, trí tuệ sáng láng ..

 

Tin được không? Chỉ một chút «tùy hỷ» mà được phước đức lớn như vậy sao? Nhưng rồi Phật kết luận: Một chút tùy hỷ mà đă vậy huống là một ḷng nghe, đọc, tụng, giảng nói, «đúng như lời dạy mà tu hành»  th́ phước đức biết chừng nào ! Nhớ nhé. «Đúng như li dy mà tu hành». Th́ ra cái «bí quyết» nằm ở đó. Chứ nghe loáng thoáng tưởng bở th́ nguy tai. Đọc tụng suông ngàn lần cũng vô ích. Một là phải  đúng như lời dạy v́ Phật thừa biết nạn «tam sao thất bổn», thậm chí xuyên tạc, truyền đi một lát đă hoàn toàn sai lạc huống chi truyền tới người thứ năm mươi! Và hai là phải tu hành,  nghĩa là không phải chỉ nghe suông, đọc suông, tụng suông, giảng nói suông mà c̣n phải tuphải hành nữa! Chính cái đó mới đem lại phước đức.

 

Phẩm tùy hỷ công đức này lạ. Mục đích vẫn là khuyến khích động viên cho các vị có cơ hội ngồi nghe Phật nói kinh Pháp Hoa buổi hôm nay có thể trở thành một vị «pháp sư» chân chánh, ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi ṭa Như Lai để truyền đạt tinh chất Pháp Hoa cho muôn đời sau - một khi Phật đă diệt độ - từ thế hệ này đến thế hệ khác, ít nhất 50 thế hệ, tính ra cũng phải ngh́n năm! Cái bí kíp đó, cái bí mật đó, cái kho tàng Như Lai đó, cái Như Lai tạng đó .. đă bày ra, chỉ ra cho mọi người thấy, nhưng liệu có bao nhiều người sẽ chịu thấy chịu biết? Bao nhiêu người sẽ «nghe nhận», nghĩa là sẽ tin theo để phụng tŕ đọc tụng biên chép giảng nói chính xác, «đúng như lời dạy». Chính xác ở đây không phải từng chữ từng câu, mà là ở cái cốt lơi, cái tinh túy. Bỏ một chữ cũng trật mà bám theo từng chữ cũng trật! Bao nhiêu người đă không tin mà bỏ đi ? Bao nhiêu người ngờ vực, thắc mắc đến khi hiểu ra th́ rơi lệ, hớn hở vui mừng? Các vị A-la-hán đă vô sanh, đă đặt gánh nặng xuống, phạm hạnh đă tṛn đầy mà bây giờ biết ḿnh cũng sẽ thành Phật cũng đă mừng vui hớn hở, nước mắt nước mũi ràn rụa đó sao?  Cũng bởi xưa Phật nói khó lắm, khó lắm, phải trầy vi tróc vẩy, nào Tu-đà-hườn, nào Tư-đà-hàm, nào A-na-hàm rồi A-la-hán vô cùng gian khó, mà nay bảo Niết bàn đó là giả, là «hoá thành», là trạm dừng chân, chơi cho vui thôi chớ Niết bàn thiệt th́ đă ở ngay đây rồi, có sẵn nơi mọi người rồi, chỉ cần ngộ nhập «Tri kiến Phật» để mà thấy biết! Mà tri kiến Phật th́ ai cũng sẵn có đó rồi. Nó chẳng đến chẳng đi. Nó vậy đó. Đời đời kiếp kiếp. Nhưng tại sao trong cái cơi Ta bà kỳ cục này có người hạnh phúc có người khổ đau. Tại sao cùng một sự việc, kẻ cười ha hả, người bứt tai bứt tóc? Tại sao có khổ? tại sao có sanh bệnh lăo tử, oán tắng hội, ái biệt ly .. Th́ ra cũng tại các «món t́nh» của chúng sanh bày vẽ đó thôi.  Nếu ai cũng nh́n ra Như Lai, thấy biết Như Lai th́ đă sống cùng, sống với Như Lai đó rồi. Sẽ không c̣n vô thường, khổ, vô ngă, bất tịnh mà đă trở thành Thường, Lạc, Ngă, Tịnh. Thấy biết như vậy rồi chỉ c̣n có việc tủm tỉm cười thôi! Cái bí mật đó bây giờ Phật mới nói ra. Cho nên nói Pháp Hoa chỉ có một mục tiêu duy nhất là «khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật», làm sao cho tất cả chúng sanh có được cái tri kiến đó vốn là bản hoài của chư Phật từ lâu xa và măi măi về sau.

 

Từ một sự khiếp sợ, lo lắng, u sầu bỗng thênh thang con đường giải thoát, nh́n cuộc nhân sinh ngộ nghĩnh của chính ḿnh chẳng cũng khoái ru? Hỷ lạc sẽ đến khi nhận ra «hành tŕnh» của Như Lai, không sanh không diệt, không thêm không bớt, không đẹp không xấu. Như một tṛ chơi puzzle của đứa trẻ con, lắp ghép các mảnh rời để tạo nên khi th́ con voi khi th́ con sư tử, khi vịt khi gà, khi thằng hề chú cuội, chiếc xe, máy bay, tàu thủy .. rồi xóa đi rồi lắp lại cũng với chừng ấy mảnh vụn, với các h́nh tướng không có thật - giả tướng - mà nếu nh́n xa hơn nữa, thậm chí cũng chẳng có những mảnh ghép rời rạc kia nữa, bởi chúng đă làm từ những miếng cạc-ton, miếng plastic, rồi tới phiên nó đă từ gỗ, từ cao su, từ nắng từ gió từ đất mà ra .. , rồi xa hơn nữa là từ những nguyên tử, từ hạt từ sóng! Tri kiến Phật đă sẵn có trong ta, chỉ cần một chút giật ḿnh: Ngộ. Như chớp. Huệ Năng chỉ nghe «ưng vô sở trụ» đă thấy ngay «bổn lai vô nhất vật». Cho nên trong phẩm này, nhiều lần nhắc «trong chốc lát nghe nhận» ..  Phải, trong chốc lát nghe nhận.

 

Nhưng câu hỏi đặt ra là tại sao chỉ cần tùy hỷ, chỉ cần «vui theo» là đủ?

 

Tưởng «tùy hỷ» dễ mà thực ra chẳng dễ chút nào! Trong tứ vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả th́ Hỷ có vẻ .. là «món» khó nhất! Thương người (Từ), giúp người bớt khổ (Bi), xả bỏ những vướng mắc, chấp thủ, tham ái .. (Xả) có lẽ c̣n dễ, c̣n có thể huân tập được, thực hành dần dần rồi cũng biết bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn .. C̣n Hỷ, tùy hỷ hả? C̣n lâu! Bởi ấy là lúc phải triệt tiêu ḷng ganh tị, ghen ghét, đố kỵ trong chính bản thân ḿnh, tự trong thâm tâm ḿnh,  một ḿnh ḿnh biết một ḿnh ḿnh hay. Ganh tị, ghen ghét, đố kỵ đó nó cắn rứt, nó nghiến ngấu, nó làm rơi nước mắt giữa đêm khuya, nó gây căm  thù buổi sáng sớm, nó tạo hận ḷng không thể nói ra, không thể sẻ chia .. nó gần như là một «bản năng gốc» ở mỗi con người. Nó sẵn sàng d́m người ta xuống chín tầng địa ngục, âm ỉ đốt cháy niềm vui, làm tan nát cơi ḷng mà bề ngoài vẫn phải nói nói cười cười, tỏ ra từ, bi, buông xả!

 

"Hỷ" là ḷng vui, tùy hỷ là vui giùm người, vui theo người. Khi thấy người khác hạnh  phúc hơn ḿnh, thành công hơn ḿnh, ta vui cho họ, thậm chí trong khi ta thất bại đắng cay, khổ đau chồng chất ..  Ôi, «tùy hỷ» khó quá chứ! Làm sao đội banh ta đá thua mà ta hoan hỉ vui theo người thắng trừ phi ta .. bán độ!

 

Nhưng tùy hỷ mà thực hiện được th́ như một suối nguồn tươi mát chảy măi trong tâm hồn.  Hỷ thực ḷng th́ không có mặc cảm tự ti, tự tôn. Nó lâng lâng rộng mở. Nó có nụ cười rộng, cái bụng to, chấp nhận tất cả. V́ thế mà ta hiểu tại sao Bồ tát Di Lặc xuất hiện ở phẩm này! «Tùy hỷ» giúp ta giải thoát tự trong gốc rễ, thứ «món t́nh» âm thầm mà thâm độc, cắn rứt ta từng phút giây. Thoát ra, là đă đến bến bờ của yêu thương, của hạnh phúc.

 

Từ Bi mà chưa Hỷ Xả th́ chưa xong. Cho nên không phải vô cớ mà Pháp Hoa dành cả một phẩm cho Tùy Hỷ, dành hẳn một đoạn mô tả kẻ tùy hỷ th́ «mặt sáng, mắt trong, miệng tươi, môi thơm .. »

 

Không tùy hỷ được th́ ta sẽ sống cô độc, sẽ tự ḿnh làm khô héo ḿnh, nỗi khổ cứ đeo bám, không thể đến với niềm vui, hạnh phúc.

 

Hỷ được nhắc như tấm ḷng mẹ cha, nh́n con ḿnh khôn lớn, thành đạt, có cái «vui theo» mà không ganh tỵ, không mong cầu báo đáp. Hỷ do vậy là một niềm vui sâu đậm, tự bên trong. Người ta không thể giả đ̣ hỷ, không thể giả đ̣ hồ hởi, hớn hở, không thể «vui là vui gượng kẻo mà»!

 

 

 

ĐHN

 

Phật đản, 2557

 

(N.K. sưu tm và chuyn)

 

 

website counter