CỔ THỤ LÙN
(Quư Thể)
"Kể lại câu
chuyện đau thương không riêng cho ông, cho tôi mà cho tất
cả những kiếp người bị đày đoạ
trên mảnh đất này trong thời kỳ tối tăm
nhất của lịch sử đau thương".
***
Nhát cuốc
cuối cùng làm bật lên tảng đất màu vàng mỡ
màng, ḿnh đất phô ra những hạt cát thạch anh lấp
lánh trong vắt. Làn hơi đất nhẹ như khói
vươn lên cao lan toả trong trong nắng mai lộng gió
đỉnh đồi hoang vắng. Tôi cẩn thận
đập vỡ chiếc chậu đất nung đă hóa
sành màu da lươn, nhẹ nhàng gỡ từng chiếc rễ
non nớt bám chặt trong ḷng chậu. Tôi đặt cây LIM
mà bấy lâu nay bị nhốt trong ḷng chiếc chậu nhỏ
vô cùng chật chội, vào cái hố mới đào, lấp một
lớp đất màu mỡ lên. Tôi gọi thầm: "Cây
ơi, từ nay giải thoát rồi !" - Trên đỉnh
đồi, trong một buổi mai hoang vắng, vang lên từ
ḷng tôi, vọng lại đất trời lời kinh cầu
tha thiết. "Hăy cắm sâu những chiếc rễ vào
ḷng đất hào phóng trù phú này. Thân ơi hăy vươn cao
hơn hết thảy, tỏa bóng râm che khuất loài cỏ
cây bụi bờ tầm thường, xứng đáng là vua
của rừng mưa nhiệt đới. Từ nay cây
đă vĩnh viễn thoát ra khỏi mảnh đất ngục
tù rồi !"
Tôi vừa
đập vỡ chậu đất bứng cây "cổ
thụ lùn" trồng trên đỉnh đồi. Tôi làm việc
này hoàn toàn do ư ḿnh. Tôi muốn giữ riêng sự bí mật.
Tôi tin, nếu ông biết ông cũng sẽ bằng ḷng. Ngày
trước khi c̣n phong lưu ông rất hâm mộ nghệ
thuật Bonsai của người Nhật. Sau này tôi
nghĩ, người thâm trầm kín đáo như ông c̣n muốn
gởi gấm tâm sự ḿnh vào tṛ tiêu khiển chẳng hợp
thời này. Tội nghiệp ở cái chốn nghèo nàn khốn
khổ có ai hơi đâu t́m hiểu tâm sự người
khác. Tôi c̣n nhớ trong một lần đi làm rẫy về,
qua một khu rừng cháy nham nhở, trên nền đất
đen tro bụi, một cây nhỏ vừa mọc lên với
hai lá mầm đầu tiên mở ra đón chào ánh nắng.
Ông ngồi xuống nâng niu, ông hỏi cây ǵ, tôi nói cây Lim,
loài cây cho gỗ rất quí và cũng là vua của những
khu rừng mưa nhiệt đới. Ông thích lắm, bứng
lên đem về trồng trong chậu. Từ đó cây và
người thành đôi bạn, ra vào có nhau. Thế nhưng
những năm qua cây chỉ sống lây lất, không lớn
lên, nó già nua cằn cỗi dáng dấp của một cây cổ
thụ tí hon.
Sau biến cố
tang thương, đất nước đổi chủ
cả hai chúng tôi bị đày vào chốn hoang sơ cùng cực
này, tôi t́m được ông và ông bắt được
tôi. Tôi cho rằng trong cuộc hội ngộ này có bàn tay sắp
đặt của vị ác thần. Một cơ hội
tàn nhẫn cho cả hai phải chứng kiến số phận
của nhau. Tôi bỗng dưng hoá thành nhân chứng và là
người tham dự một phần trong cuộc đời
đầy thử thách gian nan, long đong ḱ dị, tối
tăm cùng cực của một nhân cách sáng trưng tuyệt
vời. Chúng tôi nương tựa vào nhau để tồn
tại, t́m chút hơi ấm t́nh người để không
mất niềm tin vào con người.
Cuối
năm 74 ông trở về Việt Nam để chịu tang
mẹ và bị kẹt lại. Ở nước ngoài ông
được biết như một nhà bác học với
tất cả cái nghĩa đích thực. Năm 60 ông đỗ
tú tài và nhận học bổng Colombo du học ngành y ở
Pháp. Ra trường, ông là bác sĩ nội trú tại bệnh
viện Saint-Louis ở Paris. Sau ông dạy tại trường
Y khoa Paris. Ông là một giáo sư danh tiếng chuyên ngành cấy
ghép. Rồi ông không đi dạy nữa mà nghiên cứu ngành
ghép tuỷ chữa ung thư máu thuộc viện Pasteur. Ông
có quốc tịch Pháp, vợ Pháp và hai con. Cả đời
ông làm khoa học và phục vụ loài người. Ông không
quan tâm đến chính trị. Thế mà ông lại t́nh cờ
rơi đúng vào tâm cơn băo tồi tệ mùa xuân 75. Ông bị
cuốn phăng đi như chiếc lá khô. Tai hại thay,
cái tính ngây thơ chuyện đời kiểu bác học khiến
ông hành động như trẻ con. Ông kể lại cho tôi
nghe về những ngày đầu tiên:
Mẹ tôi bị
ung thư đến giai đoạn cuối, theo y học
th́ khó ḷng chờ đợi đứa con thân yêu từ
phương trời tây trở về để vuốt mắt.
Thế mà bà vẫn sống ngoài qui luật sinh học và sự
tiên liệu của tất cả bác sĩ, chờ gặp
tôi rồi mới ra đi. Làm khoa học cả đời
tôi không tin vào điều huyền hoặc. Song lần này hiển
nhiên quá mà tôi lại là người trong cuộc, làm sao không
tin ngoài cái thế giới vật chất này c̣n có thế giới
của tâm linh? Bà ra đi nét mặt thần thái toát lên vẻ
thanh thản nhẹ nhàng. Chôn cất mẹ xong tôi ră rời
cả thân xác lẫn tâm hồn. Lúc đó t́nh h́nh chiến sự
ở Huế đă nghiêm trọng. Tôi vô Đà Nẵng,
nơi đây c̣n hỗn độn hơn, ngoài đường
đủ mọi sắc lính, dân chúng người chạy
ra bắc kẻ kéo vào nam. Tôi đi lùng một chiếc vé
máy bay đi Saigon, nhưng mọi chuyện đă trễ. Bằng
đủ mọi phương tiện di chuyển tôi chạy
vào Nam với hy vọng mong manh sẽ kiếm được
máy bay qua Pháp. Nhưng đoàn người hàng vạn kéo nhau
đến Nha Trang th́ quân giải phóng tràn vào, chận lại.
Như thế là hết. Tôi phải làm ǵ ? Tôi làm khoa học,
không theo phe phái nào. Tôi nghĩ chẳng ai làm ǵ ḿnh. Song nhiều
người quen biết tôi họ nói: Trong cao trào này, một
con người như ông, được đào tạo ở
nước ngoài, cả đời sống ở nước
ngoài, mới ở nước ngoài trở về, quốc tịch
Pháp, da dẻ trắng trẻo hồng hào, nội cái đó
cũng đủ cho đi tù rục xương. Tôi nghe có
lư. Làm sao để được yên thân? Tôi hành động
theo kiểu tôi nghĩ và cho là đúng. Trước tiên tôi
đốt mọi thứ giấy tờ có liên hệ xa hoặc
gần với tôi. Đốt một cách bí mật hồi hộp.
Đêm lại , tôi lấy cớ đun nước, tôi ṃ xuống
bếp khơi lửa cho vào đó cái passport, cái căn
cước, nhiều giấy tờ, hàng trăm tấm danh
thiếp. Số giấy tờ cần thiết cho cả một
đời người chỉ vừa đủ đun sôi ấm
nước nhỏ. Tôi c̣n lén mang ra khỏi nhà một quăng
thực xa vất chiếc va li áo quần và bao nhiêu vật
dụng cần thiết, làm như tất cả chúng mang mầm
bệnh dịch hạch. Sau đó tôi chẳng c̣n ǵ thuộc
về dĩ văng nữa.
Tôi suy
nghĩ, hăy làm như mọi người và tuân theo mệnh
lệnh của người cầm quyền th́ sẽ
được yên thân. Lúc này người ta kêu gọi bỏ
thành phố về nông thôn tăng gia sản xuất. Ai không
có đất th́ xung phong đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Tôi nhờ cô em bán giùm tôi một cái biệt thự sang trọng
được hai ngàn tiền cụ Hồ. Gồm toàn những
tờ giấy bạc màu đỏ mệnh giá mười
đồng mà thời đó ai cũng thèm thuồng và
ngưỡng mộ. Số tiền này cũng chỉ vừa
đủ mua một cái cḥi tranh, với mảnh rừng
phát nham nhở làm cái rẫy. Nghĩ lại thật buồn
cười vi la đi đổi cḥi tranh, đất thành
phố đem đổi đất rừng. Tôi th́ rất
măn nguyện, hăm hở tăng gia sản xuất.
"Mơ-xơ
Bec-trăng" cầm rựa phát rẫy thực. Mới
có nửa buổi tay ông đă phồng. Ba ngày sau lên thăm
ông anh, cô em thấy thân thể ông anh ḿnh đỏ như
con tôm luộc. Và cái cảnh cười ra nước mắt:
Một vị bác sĩ danh tiếng nằm sấp cho một
lăo nhà quê cạo gió chữa bệnh. Lăo già tên là Mười
Cuốc, lăo là người bán cḥi bán rẫy cho ông. Lăo lấy
cái muỗng nhôm cũ mèm đen ś, cạo dọc sống
lưng, luôn miệng than:
- "Gió"
nhiều chi lạ. Chỗ mô cũng có "gió". Từ
thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ tui chưa thấy
người đàn ông nào da trắng mỏng c̣n hơn da con
gái như anh Hai Sâm này ..
Lăo bắt
ông há miệng lè lưỡi ra cho lăo bôi dầu cao sao vàng, thứ
thuốc chữa bá bệnh trong thời ḱ ấy. Dầu
cay, nước mắt ông trào ra. Lăo c̣n hối mụ vợ
nấu nồi nước lá xông. Bây giờ người ta
thấy ông giáo sư danh tiếng, ngồi trên chơng tre trùm mền
rách run lập cập. Mấy ngày sau ông cũng qua khỏi,
và mấy tháng sau làn da hồng hào miền ôn đới
cũng từ giă ông nốt. Anh chàng hớt tóc dạo cắt
đi mái tóc bềnh bồng bác học. Lúc đó có ai thấy
ông, đầu đội nón cời, mặc cái áo bà ba mốc
thếch ngồi chồm hổm cạo nồi cơm cháy
không thể nhận ra ông được. Cách mạng đă
đổi thay h́nh dạng gốc rễ của ông rồi.
Lần đầu
tiên tiếp xúc với chính quyền cách mạng là một
kinh nghiệm, thú vị, nhớ đời. Ông cầm lá
đơn tới miếu thổ thần, phía trước
có treo lá cờ nửa xanh nửa đỏ, trụ sở
uỷ ban quân quản hành chính lâm thời. Cùng với ông c̣n
có nhiều người dân chờ đợi. Nửa tiếng
đồng hồ sau có một thanh niên gầy g̣, thấp
bé chỉ đứng đến vai ông. Anh thanh niên có làn da
màu ch́, ửng vàng, dấu hiệu rơ ràng của bệnh sốt
rét ngă nước kinh niên. Anh ta mang trên vai cây súng dài lượt
bượt, loại súng tên là Ga-Răng (Grant) súng Mỹ,
dùng từ thời chiến tranh Pháp Đức. H́nh như
khẩu súng này đă bị chôn nhiều năm trong đất.
Cái báng súng mối ăn như củ khoai sùng, ṇng súng và nhiều
bộ phận khác han gỉ cả. Khẩu súng như thế
chưa chắc bắn đă được. Thế
nhưng h́nh như nó là món trang sức không thể thiếu
được của bọn thanh niên ham súng ống. Con
người này, và vũ khí kia, khiến cho ông thêm băn
khoăn. Cái ǵ làm cho họ chiến thắng nước Mỹ
giàu có hùng mạnh ? Cái vóc dáng của anh chủ tịch uỷ
ban quân quản là thế song cách làm việc của anh thực
nhanh chóng giản dị. Anh cầm lá đơn ông, h́nh
như không đọc, thấy anh ta lật qua lật lại
rồi ghi bên lề hai chữ "nhất trí", chữ
rất xấu, giống như người mới biết
viết. Ông hoang mang chưa hiểu nhất trí là sao, có
người giảng, là điều ǵ ông ghi trong đơn
đều được chính quyền cách mạng chấp
thuận. Trời ơi, những công việc hệ trọng
kiểu này, ở nước khác, người ta phải mở
cả phiên toà, hoặc hàng bộ trưởng nội vụ
mới có quyền kư tên thay đổi. Thời gian cũng
phải mất ít nhất mấy năm. Từ giờ phút
đó ông mang tên mới, Nguyễn Văn Sâm, với ngày sinh
nơi sinh do ông tự nghĩ ra, quốc tịch mới là
người Việt Nam, nghề nghiệp làm nông, chỗ ở
làng Cận Sơn .. Nghĩa là tất cả những ǵ cần
thiết cho một con người chỉ được
giải quyết chóng vánh trong một phút. Ông bắt đầu
có cảm t́nh với nền hành chính cách mạng, quân quản.
Đă là công
dân, phải có nghĩa vụ. Nghĩa vụ đầu tiên
của ông là đi làm thủy lợi mười ngày. Ông chẳng
hiểu thủy lợi là ǵ. Sau mới biết là đi
đào mương. Riêng đối với ông, thủy lợi
c̣n đơn giản hơn nhiều. Ông chỉ việc nhận
tảng đất người bên phải đưa, trao lại
cho người bên trái. Việc này có khi lại vui vui. Nhờ
người ta xếp ông đứng gần cuối cái gọi
là một "dây chuyền sản xuất". Tức là một
dăy mười mấy con người, nên khi tảng đất
đến tay ông, nó đă rơi rụng dọc đường
gần hết, c̣n lại nhỏ như cái bánh bao, chỉ cần
nắm một tay ném lên bờ mương. Đi làm thủy
lợi về ông nhận được tờ giấy
khen. Ông nghĩ họ thực là hào phóng. Ở các nước
tư bản, làm việc cả đời như ông chẳng
được tờ giấy khen nào. Về sau ông mới
hiểu đây là cách tốt nhất, ít tốn tiền nhất
để khuyến khích người dân, c̣n ḥng điều
động nhiều lần nữa. Cũng có một điều
lạ, rất nhiều người, nhất là thanh niên, thấy
ông đi nghĩa vụ lao động mười ngày lại
tỏ ra thèm thuồng, ước muốn được
như ông. Sau này ông mới hiểu, đi lao động dù
sao cũng được cơm no ngày ba bữa, ở nhà
chỉ có cơm độn, một phần gạo, chín
mười phần độn, nói như mọi người
củ khoai củ sắn cơng vài hạt cơm. Về sau ông
mới thấy chính quyền cách mạng chơi sang hơn
tư bản nhiều. Người ta động viên hàng
ngàn hàng vạn con người trong nhiều tháng trời
để làm một công tŕnh hoàn toàn vô ích. Đào một con
mương dài hàng cây số, lồi lơm quanh co, chỗ cạn
chỗ sâu và cuối cùng con mương thuỷ lợi
đó chưa một lần có nước chảy qua, mấy
năm sau trở thành b́nh địa. Hỏi th́ người
ta biện bạch, không cần kết quả, cái chủ yếu
là giáo dục dân chúng miền nam biết thế nào là ư thức
lao động. Ôi hoá ra đây cũng là một tṛ chơi.
Thời gian
đó nhiều sự trớ trêu của số phận
đùn đẩy ông trở về với cái nghiệp y.
Ông cũng được nhiều lần ra vào "trung tâm
y tế" và trong một thời gian dài được cầm
con dao mổ. Có lần tôi nh́n thấy bàn tay vàng của nhà
phẫu thuật tài hoa Âu châu cầm dao mổ nhưng không
phải trong pḥng mổ ở một bệnh viện danh tiếng
nào mà ở phía sau nhà lăo Cuốc. Ông đang thiến cho con
ḅ tơ, cột đứng giữa hai gốc cau. Chỉ một
vết rạch và vài mũi khâu, trong chốc lát chú ḅ non,
chưa nếm mùi đời đă trở thành vị hoạn
quan, thái giám. Về sau nơi nào cần thiến heo, trâu ḅ
gà chó đều kêu ông. Đừng tưởng những cuộc
phẫu thuật kiểu này là không quan trọng, ai cũng
làm được. Thời ḱ này sinh mệnh con vật có
khi c̣n lớn hơn con người. Có nhà con cái đau ốm
chỉ ra vườn hái lá làm thuốc, mà con heo nái bỏ
ăn lại lên tỉnh mua thuốc trụ sinh ngoại về
chữa. Họ hành động thế cũng chỉ v́ con
heo nái là tài sản quư giá duy nhất và nó nuôi sống cả
gia đ́nh. V́ thế mỗi khi dù cầm dao thiến heo ông
cũng hồi hộp vô cùng.
Lần khác
giữa mùa lụt, vợ Tám Ḥa chuyển bụng đẻ.
Mụ này sinh khó v́ đă bốn mươi bốn tuổi
rồi con sinh thêm đứa con thứ chín. Suốt thời
ḱ mang thai mụ thiếu ăn, c̣n bị sốt rét rừng
hành hạ. Mụ bị phù thủng nặng, bàn chân húp không
c̣n thấy mắt cá, thiếu máu nặng màu da vàng như
con tằm bủng và vạch mi mắt ra thấy trắng
nhợt. Nước lụt dâng ngập con đường
về huyện về tỉnh. Không có cách nào di chuyển sản
phụ. Mụ ta chuyển bụng một ngày một
đêm rồi mà đứa con không chịu sổ ra. Tám Hoà
nài nỉ ông cứu. Ông liều ra tay. Mụ ta vừa
đau đẻ vừa mắc cỡ, chửi chồng:"Bộ
ông muốn giết tui hay răng mà kêu cái thằng cha thiến
heo về đỡ đẻ ! ..". Trong cơn vật
vă, mụ này níu cái thanh giường gần găy, ông cầm
tay mụ giữ lại, mụ cắn cánh tay ông. Ông gồng
ḿnh cho mụ đàn bà hung giữ đau đẻ cắn.
Cuộc sinh nở mẹ tṛn con vuông. Sau này có lần kể
lại cho tôi nghe ông nói, bên Tây mấy con đầm đau
đẻ hung dữ lắm, họ la thét chửi chồng,
có khi c̣n đánh cả chồng. Nh́n vết răng mụ
Tám trên cánh tay ông nhiều ngày chưa lặn tôi mới hiểu
thế nào là lương tâm người thầy thuốc.
Cuộc quay
về ngành y của ông c̣n nhiều chuyện cười ra
nước mắt. Xă cất cái cḥi làm trạm y tế, ông
được triệu đến không phải để
làm việc ǵ liên quan ngành y tế mà để dọn dẹp
vệ sinh, phát cỏ, hốt rác. Trạm này giao cho một
anh binh nh́ trước ở ngành quân y quân đội cộng
hoà cũ. Đoàn tiêm pḥng về ông cũng được
kêu tới nấu nước luộc kim tiêm, c̣n nước
sôi làm thịt gà, đăi đoàn. Ông c̣n phải đứng hầu
bia rượu cho mấy thằng y tá nhóc con trên tỉnh về.
Sau này người
ta nói ông là tiên bị đọa. Có điều dù làm việc
ǵ ông cũng hết ḷng, cần mẫn, không oán than bất
măn với bất cứ người nào, công việc ǵ. Tôi
c̣n nhớ vào giai đoạn ấy thường có cái kiểu,
trước khi động viên dân chúng vào công việc ǵ,
luôn luôn phải họp dân năm lần bảy lượt,
dân chúng đi làm rẫy về mệt mỏi, tối lại
chỉ muốn đi ngủ sớm, chiều nào cũng có
tiếng loa đầu xóm cuối xóm : "Ngay từ bây giờ
đồng bào tập trung tại trụ sở để
quán triệt mục đích yêu cầu .. ai không đi họp
mất quyền lợi ..". Không ai biết quyền lợi
là quyền lợi ǵ. Họ chỉ sợ không đi họp
sẽ không yên thân. Mục đích yêu cầu cần quán triệt
có khi là những chuyện rất vớ vẩn như
đào hố xí hai ngăn hay trồng bèo hoa dâu, được
thổi phồng như hai phát kiến vĩ đại của
những nhà khoa học tài ba của nước ta cho nhân loại
..
Ông ăn ở
gần như được ḷng mọi người. Mấy
thằng cha sồn sồn cán bộ hợp tác xă có lần
xúc lúa trộm đem bán lấy tiền kéo nhau về thành phố
ăn chơi. Bọn họ rủ ông đi gọi là "nếm
mùi đời" cho biết. Ông từ chối, nói ḿnh quê
mùa không biết ăn chơi kiểu đó. Mấy chị,
thấy ông sống cô độc ai cũng dành làm mối kiếm
vợ cho ông, ông nói không dám đèo bồng, một ḿnh nuôi
không nổi thân.
Có lần tôi
xúi ông về tỉnh khai hết sự thật về ḿnh và
liên lạc với ṭa Đại sứ Pháp để
được phục hồi. Ông nói, họ không tin
đâu, giấy tờ đốt cả rồi. Với lại
cần thêm một thời gian nữa cho ḷng người tỉnh
lại, mọi giá trị sẽ được khôi phục.
Bây giờ th́ chưa. Nghe thế tôi không dám xúi nữa. Tôi thấy
cả đời ông chưa một lần dối trá.
Đây là lần dối trá đầu tiên về thân phận
của ḿnh và ông phải trả giá. Cái giá thực là tàn nhẫn.
Ông nói cần chờ một thời gian nữa. Nhưng số
phận lại có cách giải quyết của nó. Vở bi
hài kịch đă tới hồi kết thúc.
Cuối hạ,
buổi chiều thường bắt đầu bằng những
cơn mưa giông. Đây cũng là thời ḱ dậy lên bệnh
sốt rét. Cỏ cây bờ bụi lớn cao lên vùn vụt.
Mỗi khi phát rựa vào muỗi túa ra cắn rát mặt. Một
cơn sốt rét ác tính quật ngă ông chỉ vài giờ. Tôi
d́u ông tới trạm y tế xă, không một viên thuốc. Họ
bảo tôi đưa ông về bệnh viện tỉnh. Tôi
dẫn ông đi được một đoạn th́ ông
đă hôn mê. Không có cách ǵ đưa ông về tỉnh. Ông
không ngồi lên xe đạp cho tôi đạp chở ông ra
tới đường cái nhờ xe đ̣ đưa về
phố. Giờ đó bọn trai tráng c̣n đang ở trong rẫy
cả. Cuối cùng tôi phải cơng ông ra đường cái,
con đường dài hơn hai cây số.
Suốt
đời tôi không thể nào quên được buổi chiều
thê thảm đó. Gió giông gào thét không ngừng trong khu rừng
mọc toàn cây chà rang cao chưa quá đầu người.
Cả khu rừng bị đè bẹp run rẩy dưới
cơn thịnh nộ của đất trời. Mưa lất
phất lẩn trong gió. Tôi cơng ông như cơng khối lửa
trên lưng. Ông sốt rất cao, gió mưa thế vẫn
không làm giảm nhiệt độ cơ thể. Tôi nhớ
lần đầu tiên gặp ông, lúc ấy ông như một
người ngoại quốc, to cao hồng hào khoẻ mạnh.
Nay chỉ sau mấy năm bị lưu đày khắc nghiệt
ông gầy g̣, quắt queo, đen đủi, một ông già
nhà quê với hàm râu lưa thưa. Bây giờ ông nhẹ hổng,
cơng ông tôi không thấy nặng nề mệt nhọc ǵ cả.
Lên tới đỉnh đồi, nh́n thấy chân trời
mây đen đùn lên ngồn ngộn. Từ trên tầng mây
thấp, rất thấp, cảm như có thể đưa
tay lên chạm tới mây được, một tia chớp
với cái bộ rễ cây ánh sáng, đánh ầm thẳng xuống
khu rừng, rất gần chỗ tôi. Có mùi khét giống
như mùi điện chập, bên cạnh tôi ngọn lửa
lập loè cháy lên trong mưa. Chưa bao giờ tôi chứng
kiến hiện tượng tự nhiên nào kinh khủng
đến thế. Tôi vẫn chạy lúp xúp, cố sao cho kịp,
chuyến xe về tỉnh cuối cùng. Một lúc sau ông tỉnh
lại, bảo tôi đặt xuống, cho ông đi, ông kêu
khát nước. Tôi dừng lại, mới nghiêng người
xuống th́ ông lại quị ngă, không đứng lên
được nữa. Ông lại rơi vào cơn hôn mê. Ra
đến đường cái, may sao có chiếc xe lam dừng
lại cho chúng tôi lên xe. Đây không phải chiếc xe chở
khách mà là xe chuyên chở súc vật. Sàn xe đầy phân heo.
Tôi ngồi xổm bế ông như một đứa bé. Gă
tài xế say rượu, hắn điều khiển chiếc
xe chạy điên đảo như người say. Khổ
quá, tôi thầm mong cho xe rơi xuống vực cho cả ba
chết quách đi cho rồi.
Tới
nơi tôi chạy thẳng vào khoa cấp cứu. Họ chận
tôi lại, nói là để làm thủ tục nhập viện,
nhưng kỳ thực hỏi han đủ thứ làm
như công an hỏi cung tội phạm, và cuối cùng
đ̣i tiền. Tôi nói láo cấp bách quá quên mang theo tiền.
Cứu giùm đi rồi tiền nong tính sau. Cả một
giờ sau ông mới được truyền dịch. Mấy
cô y tá trẻ cùng với mấy cậu y sĩ hay bác sĩ
ǵ đó vừa làm việc vừa cười đùa bỡn
cợt nhau. Họ chăm sóc bệnh nhân c̣n thua cả ông
chăm sóc con vật. Tôi đứng một bên, cầm cánh
tay ông, mạch ông mong manh như tơ nhện. Cái lối mạch
mà mấy ông lang sợ nhất gọi là mạch chim sẻ
mổ thóc. Mạch nhảy vài cái rồi ngưng, đập
vài cái rồi ngưng. Giống như tiếng gơ cửa của
tử thần.
Mấy
người thầy thuốc kéo nhau đi chơi, tôi nghe họ
hẹn nhau ra biển. Tôi ngồi cạnh ông. Tôi đưa
tay sờ trán, thấy ông không c̣n sốt cao nữa. Trán ông
đầy một thứ mồ hôi lạnh, nhớp nháp và
trơn như mỡ. Tôi mừng quá tưởng ông qua khỏi.
Sau này tôi mới nghe người ta nói đó là "Xuất
hạn". Nghĩa là chỉ c̣n chốc lát nữa thôi. Tôi
thấy mấy ngón chân ông cứng đờ như
được đẽo ra từ gỗ mít ḷ ra khỏi tấm
ra trắng, sờ thử, thấy lạnh ngắt. B́nh
sérum không chịu nhỏ giọt nữa. Tôi mở khoá lớn
hơn nhưng nó vẫn không chịu nhỏ giọt. Hoá ra
máu trong người ông đă đông cả lại rồi.
Ông chợt mở mắt nh́n tôi, cặp mắt lờ đờ,
tṛng con mắt như được tráng qua một lớp
nước vôi, song cái nh́n vẫn c̣n đằm thắm dịu
dàng. Rồi bỗng nhiên hai mí mắt cứng đờ,
không khép lại, nhanh chóng hoá đá, đôi mắt người
chết.
Lúc này tôi mới
có dịp nh́n kỹ khuôn mặt ông. Ông chết yên như ngủ.
Trước đây tôi có nghe chuyện về khuôn mặt
người chết. Tôi không tin vào những chuyện huyền
hoặc, bây giờ th́ tôi tin. Sau khi ông ngừng thở, có một
quăng thời gian ngắn, hiện ra một khuôn mặt
đẹp, vẻ đẹp thánh thiện của cả cuộc
đời sống lương thiện sáng ngời hào quang
nhân ái, vẻ đẹp tuyệt vời .. Nhưng chỉ
vài phút sau vẻ đẹp ấy phai mờ dần, tắt
hẳn, c̣n lại lạnh lẽo khuôn mặt người
chết .
Giường
bên, thêm một người nữa ra đi. Đó là một
người Thượng. Không biết khi sống trông hắn
thế nào, lúc này trông thấy hắn gầy g̣, đen thui,
rướn người cong lên như thân cây cháy nám trong mùa
đốt rẫy. Vợ hắn ngồi cạnh chốc
chốc vén cái váy lên chùi mắt, tay quạt muỗi cho chồng.
Chị ta tưởng mấy con muỗi đói bệnh viện
vẫn c̣n bu vào đốt cái thân thể lạnh giá. Bọn
muỗi có con lầm tưởng bay đến sà xuống
đốt cái thân xác lạnh giá, vụt bay lên. Đôi mắt
người phụ nữ Thượng ánh lên một niềm
yêu thương hoang dă giống như cặp mắt con thú
trong bẫy. Nửa đêm trong căn pḥng nhỏ, hai
người chết và hai người sống nhưng tâm hồn
cũng đă chết. Có tiếng thét lơ lớ rợn
người:
- Thôi bỏ
con ma đó chạy đi!
Chị này
đứng lên dáo dác, cầm cái gùi toan chạy. Tôi chưa kịp
hỏi bỗng lại có tiếng chân người và tiếng
thét hách dịch:
- Con mọi
kia chạy đi đâu ? Tiền giường tiền thuốc
chưa thanh toán.
Tôi biết
chị ta phải khó khăn khổ nhọc lắm mới
mang được người chồng bệnh hoạn từ
trong rừng thẳm về tới chốn phồn hoa
đô hội này với niềm tin, khỏi bệnh, cùng chồng
đi bộ về buôn, qua khu rừng hướng
dương vàng rực bạt ngàn. Nhưng nay th́ hết rồi,
phải bỏ anh ta lại trốn về thôi, nhưng
cũng không xong. C̣n tôi khổ sở chẳng thua người
kia. Sáng sớm hôm sau tôi trốn ra khỏi bệnh viện.
Tôi không có lấy một xu trong túi làm sao đưa ông về?
Chỉ c̣n cách đi xin kêu gọi t́nh thương đồng
loại. Nhưng h́nh như vào thời ḱ khốn khó chung cho
cả nước, con người để cho thú tính lấn
áp, t́nh người hiếm hoi làm sao. Ở vào cái thời mà
sự dối trá tràn lan, một ḿnh tôi nói thật, ai tin. Có
một con mụ vàng đeo đầy tay đang ngồi
trong quán chỉ mặt tôi nói:"Bà con đừng có tin mấy
cái thằng xạo lưu manh này. Xin tiền chở bà con chết
ở bệnh viện về quê. Ngày nào tôi cũng thấy
cái mặt hắn lảng vảng ở bến xe với mấy
cái quán nhậu .." Cuối cùng tôi phải đi bán bộ
quần áo mặc trong người để thuê xe chở
ông về. C̣n tiền viện phí tôi phải làm tờ cam
đoan kí tên điểm chỉ, khai rơ ngọn nguồn quê
quán địa chỉ, mới được đem xác ông
về.
Người
ta đóng cho ông cái quan tài bằng gỗ thùng đạn,
chôn ở chân đồi, lấy cái lon sữa ḅ rỗng làm
bát nhang.
Năm sau,
vào một buổi trưa có đoàn xe du lịch sang trọng
tiến vào xă. Dân chúng chạy theo coi. Trong xe có cả người
nước ngoài. Bọn trẻ con chạy theo xe hô to :"Liên
Xô ! Liên Xô !"
Xă tiếp
đón rất niềm nở, họ hy vọng sẽ
được ngọai quốc cho tiền, hay liên doanh với
địa phương. Khi hiểu ra chuyện đó là gia
đ́nh của Hai Sâm, họ giao đoàn cho tôi hướng dẫn.
Buổi
trưa nắng chang chang cả đoàn kéo lên đồi. Có
một điều rất lạ, không thể giải thích
nổi. Hai đứa con ông, một trai một gái cỡ
chín mười tuổi, chúng rất xinh đẹp và giống
ông như tạc, và như có điều ǵ mách bảo, chúng
thân thiện với tôi, một người hoàn toàn xa lạ,
ngay lúc đầu gặp gỡ. Hai đứa nắm chặt
tay tôi. Ngang quán chị Liễu tôi ghé mua đôi nến trắng,
bó nhang, tấm vải trắng lớn xé làm nhiều mảnh
khăn tang quấn cho vợ con ông, một vài người
trong đoàn và cả tôi. Tôi để giành một chiếc
khăn tang dài và lớn , chẳng ai biết để làm
ǵ.
Tôi đứng
trong bóng mát cây Lim mà giờ đây sau mười mấy
năm thoát khỏi ngục tù chật chội đă trở
thành tráng sĩ cổ thụ đại ngàn hùng vĩ. Tôi
nh́n vợ con ông sang trọng, xinh đẹp, dễ
thuơng qú mọp sát đất theo đúng lễ nghi
đông phương bên nấm mộ thấp lè tè tồi
tàn mà cỏ xanh đă úa màu. Tôi không khỏi chạnh ḷng
rơi nước mắt. Cúng xong. Tất cả mọi
người kéo nhau đến đứng trong bóng mát cây
Lim. Tôi cẩn thận quấn mảnh khăn sô cho cây, Mọi
người lấy làm ngạc nhiên. Tôi khấn: "Ông
ơi, không ai biết chuyện đời ông, xin phép ông cho
tôi được làm nhân chứng lịch sử, kể lại
câu chuyện đau thương không riêng cho ông, cho tôi mà cho
tất cả những kiếp người bị đày
đọa trên mảnh đất này trong thời kỳ tối
tăm nhất của lịch sử đau thương"./.
QUƯ THỂ
(Huôn Trinh sưu tầm và chuyển)