MỘT CHUYẾN THĂM NUÔI
(Hoàng Yến)
Tiếng chuyển
động rì rì của máy chiếc xe đò loại nhỏ
đang chạy trên tuyến đường từ Qui Nhơn
đi Pleiku-Kontum.
Hành khách trên
xe bắt đầu chập chờn vào giấc ngủ. Dù
có mệt mỏi cho một chuyến đi xa, tôi không thể
nào ngủ được, mắt nhìn ra khung cảnh ngoài cửa
sổ xe, nhà cửa lui dần khỏi cảnh ồn ào bụi
bậm trong thành phố. Nhìn xa xa, những ngọn núi nối
tiếp ẩn hiện nhấp nhô, được bao phủ
lớp sương mù như mây như khói.
Xe bắt
đầu tăng ga để leo dốc, con đường
dốc ngoằn nghèo thật cao, một bên là vách núi đá một
bên là vực sâu, chiếc xe như chênh vênh đang bò bên bờ
vực, phía dưới vực rừng cây mờ mờ thật
sâu. Tôi không dám nhìn xuống phía dưới, đưa tay áp
lấy ngực miệng lâm râm cầu nguyện, cứ
tưởng tượng không biết lúc nào chiếc xe sẽ
lao xuống vực.
Xe leo gần
tới đỉnh đèo, ngay khúc quẹo hình chữ V
độ dốc thẳng và cao. Đột nhiên xe khựng
mạnh và dừng hẳn. Những người trên xe bừng
tỉnh nhốn nháo vì đầu máy xe đang bốc khói mù
mịt, sợ xe cháy ông tài xế nhảy vọt ra khỏi
cửa sổ xe.
Chiếc xe
không người lái lùi lại từ từ, mọi người
trong xe hoảng hốt tìm cách nhảy ra ngoài. Tôi ngồi
hàng ghế bên trong, kẹt cứng giữa đám người
đang chen nhau thoát ra khỏi xe. Chiếc xe lùi lại thật
nhanh. Thất thần mắt nhìn thấy bờ vực cận
kề tôi hét to "Lậy Chúa tôi". Trong lúc chú lơ xe cầm
cái cục gỗ chận bánh xe lại, với đà đổ
dốc bánh xe trườn trên cục gỗ nẩy mạnh
lên và càng lùi nhanh hơn, chú lơ xe không kịp chạy theo.
Tiếng la khóc, tiếng kêu cầu cứu Chúa và Phật,
Tôi nhắm mắt phó linh hồn trong tay Chúa, biết chắc
sẽ chết nơi đây. Giây phút cuối cùng, hình ảnh
thân yêu của mẹ và chồng con tôi lóe nhanh trong đầu.
Một tiếng
"rầm" thật lớn cùng sức dội mạnh
như muốn vỡ lồng ngực, mọi người
đổ ngã chụm vào nhau, mọi sự chìm trong im lặng,
nửa tỉnh nửa mê, không biết mình còn sống hay
đã chết.
Một phép lạ,
chiếc xe đang lùi thật nhanh thì đuôi xe quay ngang
đâm vào vách núi và khựng lại, bánh xe kẹt vào khe rãnh
thoát nước. Nhờ ơn Trên, mọi người sống
sót nhưng vẫn còn thất kinh hồn vía biểu lộ
trên khuôn mặt. Chúng tôi được chuyển qua một
chiếc xe khác.
Qua cơn hiểm
nghèo, ai cũng nguyền rủa ông tài xế không có
lương tâm, không có trách nhiệm, nắm giữ hơn
50 sinh mạng, chỉ biết cho mình, còn những người
khác coi như cỏ rác. Tôi không nguyền rủa ông ta mà tôi
đau cho cả xã hội này, đã đào tạo con người
ông giống như CS. Nếu họ có trái tim, người
dân đâu chịu khổ, chồng tôi đâu bị đày ải
tù tội như thế này.
Nhớ tới
chồng, tới giây phút vừa thoát hiểm nguy, tôi bật
khóc, nếu chiếc xe rớt xuống đèo, tôi không bao giờ
còn thấy chồng, đau thương hơn nữa, tôi
chết ngay địa danh gần nơi giam giữ chồng
tôi, mà anh đang ngóng chờ mong mỏi được gặp
tôi.
Xe qua khỏi
mấy cái đèo nguy hiểm như đèo An Khê, đèo
Măng Giang. Bớt lo sợ, tôi đưa mắt quan sát những
hành khách còn trong xe. Bốn người tôi mới quen ở
bến xe Qui nhơn tối hôm qua, cùng đồng cảnh
đi thăm nuôi như tôi, họ ngồi rải rác những
hàng ghế phía khác, mắt tôi chăm chú nhìn một ông lão ngồi
ngoài đầu hàng ghế bên kia, cách chỗ tôi ngồi là lối
đi giữa của hai hàng ghế.
Ông trạc
tuổi bố chồng tôi, dáng người nhỏ còm cõi
trông rất hom hem. Ông không ngủ, trên khuôn mặt khắc
khổ, thỉnh thoảng môi ông nhếch lên mỉm cười,
ánh mắt lộ vẻ hân hoan như sắp nhận
được món quà quí, hoặc sắp gặp lại gia
đình sau một chuyến đi, đôi lúc lại thấy
ông tư lự đăm chiêu như đang suy nghĩ một
vấn đề gì, hai bàn tay ông ôm chặt cái giỏ vào
lòng như sợ nó vuột mất.
Bất giác
tôi cười thầm nhìn xuống tay mình thì cũng như
ông lão thôi, tôi có hai cái giỏ lúc nào cũng bên cạnh không
dám rời xa nó, hở một tý là bị lấy cắp. Bất
chợt ông lão nghiêng mặt qua phía tôi, bắt gặp ánh mắt
tôi đang nhìn ông. Tôi nhoẻn miệng cười chào hỏi
làm quen:
- Dạ chào
bác! Bác là người ở trên miền này hả bác?
Ông lão quay hẳn
qua phía tôi cười. Răng ông đã rụng gần hết,
miệng móm mém. Nhìn ông tôi có cảm tình ngay với đôi mắt
và nụ cười hiền hòa phúc hậu của ông. Ông trả
lời:
- Không! Tôi
không phải người trên miền này cô à.
Ông thân thiện.
- Tôi ở xa
lắm! Cô có biết Saigon không? Nhà tôi còn ở xa hơn nữa,
mãi tận Rạch Giá cô à.
Thấy ông
lão vui vẻ, tôi tò mò hỏi tiếp:
- Vậy bác
đi thăm con cháu ở trên này à?
Trong ánh mắt
ông lão thoáng buồn, nhưng môi ông lại mỉm cười
tạo trên khuôn mặt ông nét vừa buồn vừa vui, nửa
khóc nửa cười. Tôi không thể nào đoán được
ông lão đang nghĩ gì.
Thấy ông
im lặng, tôi than thở dùm ông lão:
- Trời
ơi! Bác lớn tuổi rồi, sao không để con cháu về
dưới thăm bác, đường đi xa xôi, lại
nguy hiểm bác ngồi xe như thế này mệt lắm.
Miệng ông
đang cười, câu nói của tôi như chạm vào nỗi
niềm riêng tư của ông, mắt ông nhuốm màu
sương khói ngấn lệ. Tôi cảm thấy áy náy cho
câu hỏi thăm tự nhiên nhưng vô ý của mình, định
ngỏ lời xin lỗi và an ủi ông, thì ông cất lên lời
tâm sự cùng tiếng thở dài:
- Cô ơi!
Tôi già cả rồi, đi lại rất khó khăn, đâu
muốn đi xa như thế này đâu, vì thương con
tôi phải đi thôi.
Nghe tới
đây tự nhiên trong lòng tôi thật bất mãn người
con của ông, thầm trách trong bụng: "Bố già rồi
không về thăm bố, lại để bố lặn lội
đường xa đi thăm mình, loại con gì vô tâm bất
hiếu vậy".
Tôi đang tức
dùm cho ông lão. Ông đưa mắt ngó tôi, chép miệng thở
than:
- Tội nghiệp
thằng con tôi lắm cô ơi! Nó bị nhốt mấy
năm nay rồi, nó là lính VNCH cô à.
Nói tới
đây giọng ông nhỏ lại, đưa mắt lấm
lét nhìn xung quanh như sợ người khác nghe. Có thể
ông cảm được tôi đồng cảnh đồng
thuyền nên ông dễ dàng tâm sự, nhìn tôi ông rỉ rả:
- Nó chưa vợ
cô à, nên tôi cứ phải lê thân già đi từng trại tù
thăm nó.
Tôi thật
xúc động. Ông lão cùng cảnh ngộ với tôi, như
một luồng giao cảm, tôi nghiêng người chồm hẳn
gần ông lão hỏi nhỏ
- Bác! Vậy
chuyến đi này có phải bác đi thăm nuôi ở trại
tù Gia Trung không ạ?
Mặc dù lần
đầu tiên tôi đi đến vùng này, không biết con
trai ông có cùng chung trại tù với chồng tôi không?
Vừa nghe
đến tên trại tù Gia Trung từ miệng tôi, ông lão mở
to mắt mừng rỡ:
- Đúng! Tôi
đi thăm con tôi ở đó.
Ông bỏ lửng
câu nói, mắt nhìn tôi ngập ngừng, e dè nói khẽ:
- Cô là người
ở đây hay sao mà biết trại tù đó?
Tôi mỉm
cười với tay xoa nhẹ vào tay ông:
- Thưa bác!
Cháu không phải người trên này mà là cháu đi thăm
nuôi nhà cháu ở trại tù đó.
Mắt ông
lão sáng lên. Thế là một già một trẻ cùng cảnh ngộ
như nhau trở nên thân thiết. Nhích người chụm
đầu vào nhau rủ rỉ chuyện thăm nuôi, chuyện
gia đình, thời cuộc đất nước, chuyện
khổ cực nghèo đói của mọi người sau
ngày mất nước.
Ông tâm sự,
người con của ông hiện giờ bị giam ở
K3. Tôi đoán chắc không xa nơi giam giữ chồng
tôi,vì chồng tôi ở K1. Đã mấy năm trời ông
lăn lội đi từng trại tù thăm nuôi con trai
ông. Trước ngày miền Nam mất vào tay CS, người
con ông có vị hôn thê sắp làm đám cưới. Thời
điểm đó đất nước trong cơn hỗn
loạn, nơi con ông đóng quân đánh nhau dữ dội
nên không thể về làm đám cưới.
Ngày 29/4/1975
người vợ chưa cưới theo gia đình xuống
tàu trốn chạy CS. Vài tuần sau con ông bị đưa
đi tù cải tạo. Bà cụ thì quá già yếu bệnh tật
liên miên, muốn đi thăm để nhìn thấy mặt
con trai mà cũng không sao đi được. Ông chỉ lo
bà cụ chờ không được tới khi con ông về.
Giọng ông run run thở dài lo sợ: "Hoặc là con ông
không bao giờ có ngày về" .
Lời ông
đều đều bên tai như muốn tôi chia sẻ nỗi
buồn niềm đau với ông. Ông cứ kể , tôi vẫn
nghe để cho những gì đang chất chứa trong ông
hòa vào với khổ đau tủi cực của tôi. Cùng một
cảnh đời, lòng tôi nhói lên theo từng lời kể
của ông. Ông lại chép miệng nỉ non:
- Còn hai
người con gái lớn đã có gia đình. Thời buổi
cuộc sống khó khăn, tất bật kiếm miếng
ăn chưa đủ nuôi mấy cháu ngoại của ông,
làm sao có thể giúp đỡ ông hoặc đi thăm con
trai ông. Ông bà chỉ còn tí mảnh vườn sau nhà, trồng
mấy liếp rau nuôi bầy gà lấy trứng, sống
lây lất rau cháo qua ngày.
Nước
mắt ông rưng rưng ứa tràn khóe mắt, giọng ông
đứt quãng nghẹn lại. Ông nhận được
giấy thăm nuôi của con ông mấy tuần rồi
nhưng ông không thể đi thăm con ông sớm được,
vì không có tiền, ông biết con ông rất mong ông. Vừa kể
ông vừa lấy tay áo chấm nước mắt làm tôi
cũng mủi lòng.
Hoàn cảnh
gia đình ông và gia đình tôi đều giống nhau. Sống
trong một xã hội mới không tự do, bơi lội
trong khổ đau khốn nghèo và người thân bị
đày ải trong lao tù chẳng biết ngày về.
Ông chỉ
vào cái giỏ đang ôm trong tay, bờ vai vẫn còn rung nhẹ
theo cảm xúc:
- Cô biết
không! Tôi phải chờ thêm vài tuần lễ để bầy
gà lớn thêm lên mới bán được, rồi mua đồ
thăm con, còn tiền xe đi đường tôi được
người hàng xóm tốt bụng cho mượn.
Lồng ngực
của ông hít thật sâu, thả mạnh trong tiếng thở
dài như xả những ưu phiền khổ đau, giọng
ông não nuột: "Không biết về nhà xoay đâu ra tiền
mua lại bầy gà".
Giấu nỗi
buồn lo, ông quay mặt qua hướng cửa sổ, nhìn
nghiêng khuôn mặt ông, tôi thấy khóe mắt ông ươn
ướt. Tôi cảm được những lo lắng,
buồn phiền nhớ thương trong đôi mắt ấy.
Chợt ông
quay sang cười với tôi, miệng ông móm mém kéo theo những
đường nhăn nhúm hai bên má như thể những
nhăn nhúm của cuộc đời hằn nặng trên
khuôn mặt ông. Ông lại rỉ rả :
- Tội nghiệp
con tôi! Chắc là đang mong và mừng lắm khi thấy
tôi đi thăm. Ông ngó xuống cái giỏ nhỏ để
trên đùi, tay vẫn nắm chặt hai quai giỏ. Ông gật
gù cái đầu:
- Vợ chồng
tôi chỉ lo liệu ít đồ ăn trong cái giỏ này
thôi, dọc đường phải đổi mấy
lượt xe, tôi lo lắm chẳng dám ngủ nghê, sợ bị
giật giỏ con tôi chẳng có gì ăn.
Ông chép miệng:
- Khổ quá nỗi, thời buổi làm ăn khó khăn mà
trộm cắp mọc lên như rươi, chỗ nào
cũng có.
Ông nói giọng
Bắc như tôi, cách nói chuyện thật thà miền quê.
Tôi cảm thấy thật gần gũi với ông và tội
nghiệp cho ông, đường sá xa xôi, thân già lặn lội
đi thăm con. Tôi lại nghĩ tới tôi có khác gì ông
đâu.
Xe chạy xuống
khỏi mấy cái đèo. Ông cụ thấm mệt mắt
lim dim, có lẽ ông đang nghĩ đến người
con trai mà ông sắp được gặp, và niềm vui con
ông nhận được những món quà nhỏ nhoi mà ông
dành dụm chắt chiu như một gia tài của ông. Nhìn
ông lòng tôi thương chồng, như ông đầy vơi
nghĩ đến người con của mình.
Quang cảnh
hai bên đường đồi núi chập chùng, con
đường đến trại tù xa vời vợi.
Nghĩ tới chồng, tới sự thoát chết vừa
qua, cùng nỗi khổ hiên tại của tôi, nước mắt
tôi ứa ra .. Nếu không có ngày đen tối quái ác 30 tháng
4 năm 1975, mọi người dân đâu phải khốn
khổ đói rách, chồng tôi đâu bị đi tù cải
tạo khổ nhục xa xôi như thế này mà không biết
ngày về. Nếu đừng có xã hội như thế
này, nếu tôi có tiền, nếu tụi du kích CS đừng
tịch thu hàng mua bán của tôi. Nếu tôi đừng dùng
phương tiện bằng xe lửa đi thăm chồng
và còn nhiều cái nếu trong đầu làm lòng tôi quặn
đau, khổ thương quay quắt.
Hơn 4
năm rồi, chồng tôi đã chịu bao tủi nhục
khổ cực qua hai trại tù, bây giờ Cộng Sản lại
đưa chồng tôi đi trại khác. Gần một
năm bặt tin tức của anh, tôi chẳng dò hỏi
được gì về anh và chẳng biết tìm kiếm
anh ở đâu. Phần sống trong một xã hội khốn
khổ chẳng chút tự do, chỗ nào cũng chận bắt
tịch thu giam giữ.
Trong khó
khăn lầm than, tôi bôn ba vật lộn tìm miếng
ăn cho gia đình và cho chính mình thật gian nan vất vả,
còn tâm trí lúc nào cũng nghĩ và lo sợ cho số phận
chồng trong lao tù CS chẳng biết giam giữ nơi
đâu. Tâm hồn tôi bất an phập phồng không thôi,
đôi khi tưởng rằng mình đang rơi xuống
đáy vực thẳm của cuộc đời. Nhờ
tình yêu anh tôi cố bám víu ngoi lên, mong nhìn thấy tia hy vọng
về anh dù chỉ là mong manh.
Ngày nhận
được thư chồng, không chỉ mình tôi mà cả
gia đình và hàng xóm, ai cũng vui mừng, cả xóm huyên náo ồn
ào vì biết chồng tôi vẫn còn sống, mọi người
đến nhà hỏi thăm, họ cũng như tôi nôn nao
mong được gặp anh. Tất cả đều khó
khăn nghèo khổ, họ không có gì làm quà để gửi
cho chồng tôi, nhưng sự ân cần quan tâm lo lắng của
họ đối với chồng tôi cả là niềm an ủi
xúc động cho gia đình tôi.
Địa
chỉ trại tù giam chồng tôi thật xa lạ và quá xa
xôi. Đọc thư chồng nước mắt tôi ngắn
dài đầy vơi. Tội nghiệp chồng tôi, trong
thơ vỏn vẹn vài câu kín đáo hỏi thăm gia
đình và cho biết đã được phép thăm nuôi.
Thơ anh viết ngắn, tôi đọc và cảm
được biết bao tình cảm của anh gói ghém trong
đó dành cho tôi. Anh không dám xin những thứ mà anh cần,
mặc dù anh rất cần. Tôi biết anh rất
thương tôi. Bố mẹ anh đã già, mọi việc
mình tôi cáng đáng lo liệu với hoàn cảnh và xã hội
hiện tại.
Còn tôi dù cuộc
sống khó khăn vất vả, tôi cũng cố xoay sở
lo cho chồng, chút an ủi giúp anh thêm nghị lực, và cho
tôi chút niềm vui hạnh phúc trong tình nghĩa vợ chồng.
Số tiền tôi cực khổ dành dụm chắt chiu
để đi thăm nuôi chồng, số tiền đó
cũng bao lần đã muốn lấy mạng sống của
tôi.
Trong một
chuyến hàng tuần trước, tôi đã trở thành trắng
tay, cũng may mạng sống tôi vẫn còn. Những lần
bị bắt bị tịch thu, chị em bạn chúng tôi
thường than thở với nhau: "Ký ca ký cóp cho cọp
nó tha", rồi lại lăn lộn bôn ba bất chấp
nguy hiểm làm lại từ đầu, được tý
vốn lại bị tịch thu, cứ xoay vòng trong cuộc
sống XHCN. Vậy mà chỗ nào cũng thấy cái bảng
tô đỏ hàng chữ "không có gì quý hơn độc lập
tự do".
Trại tù
giam chồng tôi mãi tận Pleiku - Kontum có tên là trại Gia
Trung, một địa danh tôi chưa bao giờ biết
đến. Trước ngày đi thăm chồng, tôi dò hỏi
được biết mỗi ngày bến xe Saigon - Miền
Trung có hai chuyến chạy suốt về Pleiku. Giá chính thức
được bán ra từ 15 tới 20 vé, còn lại bán với
giá chợ đen rất mắc, mà phảỉ đứng
xếp hàng từ đêm tới sáng may ra mới mua
được vé. Tôi ở miền quê ngu ngơ làm sao mua
được. Thật khó khăn và tốn kém. Tôi đành
chọn giải pháp đi bằng tàu lửa, giá rẻ mà dễ
đi .
Ga xe lửa
tôi đi gần chợ Long Khánh cách nhà tôi khoảng gần
30 cây số. Nhớ tới giây phút giành giật chen nhau
để lên toa xe lửa, bất giác tôi cảm thấy sau
gáy và bả vai vẫn còn đau, đưa tay lên rờ phía
sau đầu cục sưng u vẫn còn, vì tôi bị những
bó củi họ quăng ném vào người.
Trời
ơi! Tôi không thể nào tưởng tượng được
cảnh chen lấn hỗn loạn tại ga xe lửa lúc bấy
giờ. Không giống như ga xe lửa trong phim ảnh, kẻ
đi người về, kẻ tiễn đưa người
đi đón sao êm đềm cảm động nên thơ
đến thế.
Ga xe lửa
này cũng người lên kẻ xuống nhưng trong cảnh
xô đẩy chen lấn giành giật cùng tiếng chửi
thề xen lẫn tiếng la hét inh ỏi hỗn loạn.
Bao nhiêu hàng hóa vừa bao vừa túi, bao than, giỏ đựng
gà vịt, bất cứ vật gì cũng đều
quăng ném vào toa theo lối cửa sổ, có người
quăng cả đứa con nít như quăng một món
đồ, kẻ tung lên người ném xuống.
Tôi chen lấn
trong đám người xô đẩy, kéo lê hai giỏ đồ
tới gần cửa lên xuống, tay cố bám vào thành cửa,
hy vọng đu được người vào bên trong,
nhưng thân người tôi như tàu lá chuối vật vờ
đong đưa giữa đám người hỗn độn.
Tay tôi bị giật thốc ra khỏi thành cửa làm tôi
ngã chúi theo đà xô đẩy, tôi ngồi xuống ôm lấy
hai giỏ đồ vừa khóc vừa năn nỉ mọi
người:
- Bà con
ơi! Tôi có mua vé mà, hãy để tôi lên toa đi.
Mặc cho
tôi khóc năn nỉ, họ chẳng để ý, cứ vô
tình bước đạp trên hai giỏ đồ và cánh
tay tôi làm đà bước lên toa xe, còn quay lại mắng
tôi:
- Bộ
tưởng một mình cô có vé thôi sao, tụi tui cũng có
vé vậy.
Người
họ khỏe bám trèo lên bằng lối cửa sổ, tôi
thân đàn bà chân yếu tay mềm nên không thể bám và leo
lên như họ, còn hai giỏ đồ thăm nuôi tôi làm
cách nào đưa lên bằng lối đó.
Tiếng còi
xe lửa hú lên từng chập như báo hiệu sắp khởi
hành, tôi càng quýnh quáng, mọi người càng vội vã chen lấn
hơn trước. Sợ lỡ chuyến tàu sẽ trễ
ngày thăm chồng, tiếng còi xe lửa hú lên càng làm tôi hốt
hoảng. Ôm hai giỏ đồ, mắt đỏ hoe ngó
lên toa xe, tôi hết hy vọng vì bánh xe lửa bắt đầu
chuyển động trên đường sắt cùng những
người còn đang chạy theo bám lấy.
Trong những
người xô đẩy vô lương tâm đó, cũng
còn một người có chút lương tri. Người
đó là một thanh niên, ngồi trên nóc xe nhìn cảnh hỗn
loạn phía dưới, thấy tôi ngồi khóc, mặc cho
xe lửa đang chuyển bánh, nhảy xuống đất
cầm vội hai giỏ đồ của tôi quăng vào lối
cửa sổ, không cần biết có trúng ai bên trong hay không
và nâng người tôi lên đẩy vào cửa sổ.
Tôi chưa kịp
cám ơn, người thanh niên đã xa tầm mắt của
tôi, ngoái cổ nhìn với theo bên hông tàu, người thanh
niên đang tìm cách nhảy lên toa xe và rồi những tàng cây
bên đường làm khuất mất hình ảnh người
thanh niên đó. Tôi vui mừng không bị lỡ chuyến
tàu, thở phào nhẹ nhõm, nhưng nghĩ tới người
thanh niên trong lòng tôi lại áy náy, thấp thỏm không biết
người thanh niên tốt bụng đó đã lên
được tàu chưa hay là đã lỡ chuyến?
Tìm một chỗ
dưới sàn tàu ngồi xuống, người tôi mỏi
mệt đau nhừ, nhất là trên đầu phía sau ót và
bả vai, tôi bị những bó củi ném trúng làm đau buốt.
Thấy mặt tôi nhăn nhó, tay xoa xoa phía sau đầu, một
bác ngồi gần bên lấy hộp dầu cù là đưa
cho tôi xoa bóp. Yên trí ngày mai gặp chồng làm tôi nôn nao, những
mỏi mệt đau nhừ tan biến nhanh, nhường
cho tâm tư sắp đặt những gì muốn nói với
anh. Đừng như những lần trước, gặp
được anh mừng quá chẳng nói được
gì, hết giờ thăm lúc đó mới ngẩn người
nuối tiếc.
Ừ nhỉ!
Nếu ngày mai tên cán bộ có đứng xa xa nơi vợ
chồng tôi như ở trại tù Hốc Môn, những
người đi thăm nuôi như tôi cùng tâm trạng, họ
cũng biểu lộ tình cảm như tôi. Tôi sẽ ngả
đầu vào vai anh, thủ thỉ với anh bao nỗi nhớ
niềm thương, bao buồn phiền tủi cực,
bao vất vả đắng cay và biết bao điều muốn
nói với anh. Nhưng tôi biết anh không cần nghe tôi nói,
chỉ cần nhìn thấy tôi là anh hiểu và nghe nặng cả
bao nghĩa ân tình yêu thương, giúp anh thêm nghị lực
vượt qua tất cả. Tôi vẫn biết rằng ý
chí của anh rất mạnh.
Theo lịch
trình 6 giờ chiều xe lửa sẽ tới ga Nha Trang, và
chuyến xe lửa từ Nha Trang đi Qui Nhơn khởi
hành lúc 6 giờ 45 phút. Tôi thở phào yên trí đủ thời
gian mua vé đi Qui Nhơn và tôi cũng không lo ngại nếu
có cảnh chen lấn như ở ga Long Khánh. Quá mỏi mệt,
tôi tìm cách tựa lưng vào thùng đồ của ai để
bên cạnh nhắm mắt thiu thiu vì chuyến đi còn dài,
chân tôi gác lên kẹp lấy một giỏ đồ còn một
giỏ tôi lấy khăn tay cột quai giỏ vào cánh tay của
mình, lỡ ngủ mệt sợ có người lấy cắp.
Nhắm mắt
để đó chứ không ngủ được, phần
ồn ào, phần háo hức sắp được gặp
chồng làm tôi nôn nao. Không biết khi vợ chồng tôi gặp
nhau, sự mừng rỡ sẽ như thế nào? Con
người tôi rất tình cảm và xấu tính, buồn
cũng khóc vui cũng khóc. Cả hai nhập lại không biết
lúc đó tôi như thế nào? Còn hình dáng chồng tôi có khác lạ
không? Gần một năm trời rồi, tôi chưa
được nhìn thấy anh.
Trong đầu
tưởng tượng về anh, về nơi giam giữ
anh. Họ đưa anh đi xa xôi thế này chắc là
thăm nuôi dễ dãi và được ở lại đêm
với chồng như là trại tù Phước Long mà chị
Thái cùng xóm đi thăm chồng đã kể lại cho tôi
nghe. Nếu lần thăm này mà giống như trạị
tù Phước Long, không biết tôi có trải được
tình cảm yêu thương với chồng tôi không, mặc
dù tôi rất yêu anh, rất nhớ anh. Tôi không muốn bị
CS sỉ nhục bằng cách đê tiện này, càng nghĩ
trái tim tôi càng bị bóp nghẽn. Tôi hy vọng rằng chồng
tôi cùng quan điểm với tôi, thông cảm cho tôi nếu
đúng như điều tôi đang nghĩ.
Tôi giật
mình bởi tiếng nổ lớn do xe lửa bị đứt
ống hơi, thỉnh thoảng cứ phải nghe như
vậy vì mấy người đi buôn họ giựt đứt
để xe lửa ngừng lại, lần đầu tiên
tôi đi xe lửa nên không biết cảnh này, cũng vì vậy
tôi thật lo sợ muốn khóc tại ga Nha Trang.
Xe lửa ngừng
tại ga Nha Trang là lúc tôi không biết phải làm sao xoay sở
vì quá trễ, chuyến xe lửa đi Qui Nhơn đã khởi
hành trước đó 1 giờ. Trời đã tối, mọi
người trong sân ga lần lượt đi mỗi
người mỗi ngả, càng lúc càng thưa thớt
người. Tôi định ở lại sân ga chờ chuyến
xe lửa khác. Khung cảnh sân ga trở nên vắng vẻ im
lìm. Tôi bơ vơ lạc lõng nơi xa lạ, lo sợ nhìn
tứ phía, nước mắt rưng rưng, thật sự
hoảng hốt không biết đi ngả nào, lạ người
lạ cảnh. May quá từ xa một người đạp
xích lô đang đến. Tôi hỏi thăm được
biết ngày mai mới có chuyến xe lửa đi Qui Nhơn.
Nhìn tôi còn trẻ và giọng nói người khác miền, chú
xích lô khuyên tôi không nên ở lại sân ga ban đêm vắng vẻ
không người, sợ điều không tốt xảy
đến cho tôi.
Nghe chú nói
người tôi run lên vì sợ, tôi cố trấn tĩnh
nhưng sao giọng tôi run như muốn khóc. Chú gợi ý chở
tôi tới nhà trọ nghỉ đêm chờ sáng ngày mai đi
Qui Nhơn. Nghe tới nhà trọ tôi càng sợ thêm vì nghĩ
không biết chú ấy có tà ý gì, nơi lạ lẫm với
giòng đời đầy lừa lọc gian trá liệu tôi
có tin chú ấy không? Ánh đèn vàng vọt, sân ga không đủ
sáng cho khung cảnh vắng vẻ như thế này.
Tôi nhìn chung
quanh rồi lại nhìn chú xích lô lưỡng lự. Không còn
cách lựa chọn, đánh bạo tôi đành nhờ chú ấy
chở đến bến xe đò Qui Nhơn, nơi đó
có lẽ an toàn cho tôi hơn. Ngồi trên xe xích lô tôi vẫn
lo sợ, miệng lâm râm cầu nguyện cho tôi được
bình an.
Tôi ngồi
ngay trước quày bán vé đi Qui Nhơn, hy vọng sáng sớm
hôm sau tôi là người đầu tiên mua vé. Khung cảnh
nơi đây sáng sủa hơn, có người qua lại
bán quà rong, những gian hàng nhỏ đèn điện còn
sáng. Tôi an tâm khoan khoái đặt lưng nằm xuống
đất, đầu gối lên hai giỏ đồ để
ngủ.
Trời
đã về khuya sao mặt nền đất vẫn còn
nóng bỏng, hâm hâm dưới lưng tôi, mùi khen khét xông cả
vào mũi thấm tận trong bụng tôi, quá mệt tôi cố
chịu để dỗ cho đôi mắt nhắm lại.
Chưa kịp nhắm mắt thì một tiếng thét thất
thanh vang trong đêm. Tôi nhổm dậy, một người
đàn bà đang chạy theo một người thanh niên còn
rất trẻ ngang qua chỗ tôi, tay bà với với phía
trước, tiếng thất thần kêu cầu cứu của
bà
- Bắt lấy
nó .., ăn cướp, ăn cướp bà con ơi !!!
Nhưng tiếng
kêu cầu cứu ấy rơi trong đêm, giữa bao con mắt
nhìn theo hờ hững. Người thanh niên tung cái giỏ
cho một người khác hứng lấy chạy vào ngõ tối,
rồi nhẩn nha đi như người đi dạo,
làm như không có chuyện gì xẩy ra.
Người
đàn bà ngồi bệt xuống đất òa khóc tức
tưởi cách tuyệt vọng.
- Trời
ơi! Nó lấy hết của tôi rồi, cả giấy tờ
nữa, làm sao tôi về nhà được đây hở trời?
Sao thất nhơn thất đức quá nè, Trời ơi!.
Tiếng than
não lòng của bà như xé lòng Trời mà không làm động lòng
người. Nhìn bà tôi lại nghĩ đến
tôi, tay rờ nhanh vào bụng, cái ví nhỏ bọc nhựa vẫn
còn nằm trong lưng quần. Tôi chỉ có ít tiền
đi đường và tờ giấy đi thăm nuôi
trong đó, nếu bị mất, không biết sự đau
khổ của tôi như thế nào, vì sẽ không được
thăm chồng, lại lo lắng hai giỏ đồ
thăm nuôi, thời buổi này bất cứ cái gì cũng sợ.
Tôi khệ nệ vừa rê vừa xách tới gần hàng bán
cháo ở góc xa, mua một chén cháo để làm quen và như
là một nơi an toàn cho mình, mặc dù tôi chẳng thấy
đói.
Gần về
sáng ngoài đường bắt đầu nhộn nhịp,
xe chạy qua chạy lại trong bến, xích lô máy xích lô
đạp chạy tới chạy lui, hàng quán mở cửa.
Bóng người qua lại tiếng cười tiếng nói
ồn ào. Nhìn về phía quầy bán vé đã có vài người
đứng xếp hàng ở đó. Tôi chào cảm ơn bà
bán cháo cho tôi một đêm an toàn bên cạnh bà, rồi đến
quày bán vé đi Qui nhơn, vậy mà tôi cũng chẳng mua
được vé chuyến đầu tiên vì ở đó
người ta đã đặt từng gói đồ, từng
khúc củi, cả cái sô nước theo hàng dài để giữ
chỗ.
Cuối cùng
tôi cũng đi tới Qui nhơn.Tiếng chú lơ xe la to:
- Tới Gia
Trung rồi bà con ơi, ai xuống Gia Trung chuẩn bị
đồ đạc đi bà con ơi.
Tôi giật
mình trở về hiện tại. Xe từ từ vào sát lề
đường. Tiếng của chú lơ xe đơn
độc hai chữ Gia Trung mà không thêm tiếng trại cải
tạo. Tôi tưởng tên gọi Gia Trung là tên của một
thành phố, ngơ ngẩn ngó ra ngoài, chẳng thấy nhà cửa
hoặc trại tù, chỉ thấy rừng cây cao vút, chung
quanh hoang vắng. Tôi nhìn quanh quẩn tự hỏi trại
cải tạo ở đâu.
Trên xe mọi
người lục đục kẻ kéo người xách,
lách người xuống xe. Ông cụ ngồi gần bên ôm
giỏ đồ đứng lên, thấy tôi còn ngơ ngác,
gục gặc đầu nói:
-Tới
nơi rồi cô ơi! Họ xuống xe cả rồi, mình
cũng xuống đi thôi kẻo không kịp, từ đây
vô tới trại còn xa lắm.
Tôi lật
đật xuống xe theo mấy người đó. Số
người đi thăm nuôi khoảng 12 người. Tôi
thật bỡ ngỡ, khung cảnh chung quanh vắng vẻ
quạnh hiu không bóng người, ngoài tốp người mới
xuống khỏi xe, đang đi trên con đường
đất vào sâu hút bên trong.
Vừa
đi tôi vừa ngó hai bên đường, những cây cao
cây thấp, chỗ dầy chỗ thưa làm ánh sáng chỗ
âm u chỗ sáng rực. Tôi lẹt đẹt đàng sau xa
nhóm người đi phía trước. Họ đã đi
thăm nuôi nhiều lần, nên họ có người nhà
đi theo để phụ giúp xách đồ, còn tôi vướng
hai giỏ loay hoay tay xách đầu đội, lúc mỏi cổ
đau tay tôi lại hất cái giỏ trên đầu xuống
bả vai để vác. Vai tôi vẫn còn đau vì hai ngày
trước bị củi ném trúng ở ga xe lửa Long Khánh,
vừa đi vừa nghiêng cổ vẹo người, dáng
người tôi nghiêng nghiêng như bóng nắng dưới
đường, mồ hôi đổ theo thấm chung từng
giọt nước mắt. Xa xa phía trước, ông già lúp
xúp đi như chạy để theo kịp họ, ông vừa
đi vừa ngoái cổ ra phía sau, tay vời vời ra hiệu
cho tôi đi nhanh lên.
Những
người phía trước bỏ tôi khoảng cách thật
xa và khuất hẳn vào khúc đường cong. Qua khỏi
khúc đường quẹo, một trạm kiểm soát với
tên công an mặc áo vàng ngồi bên trong. Tôi giật mình theo phản
xạ tự nhiên
- "Chết
rồi lại gặp công an", giữ bình tĩnh tôi thầm
nghĩ - "Mình đi thăm nuôi chứ buôn bán gì mà sợ
tịch thu". Tấm bảng nhỏ ghi hàng chữ "Trình
giấy tờ tại đây".
Tôi bước
đến, tên công an nhìn còn rất trẻ tươi cười
chào thân mật:
- Chị
đi thăm người nhà phải không?
Sự thật
là tôi không có thiện cảm với những người mặc
bộ đồ công an, tôi đã khổ nhiều với họ
rồi, họ không cùng giới tuyến với tôi và họ
là người đang giam giữ chồng tôi. Tôi không cười,
đưa trình tờ giấy thăm nuôi để ra khỏi
chỗ này thật nhanh, vì tôi dị ứng không muốn nhìn
họ.
Khi nhìn vào thẻ
chứng minh nhân dân của tôi, tên công an mặt hớn hở
reo lên:
- Ồ! Quê
chị ở Đông Phú - Tiền Hải - Thái Bình, vậy
là cùng quê với em.
Còn thân mật
như là người nhà của tôi:
- Gia đình
thầy mẹ em còn đang ở ngoài ấy, mà chị cùng
họ Đinh với em, chả nhẽ chị em mình có họ
hàng với nhau
Tôi lườm
thầm trong bụng: "Họ hàng gì với chú mà chú nhận,
tôi bên Quốc Gia, chú là CS, không thể họ hàng được".
Không muốn
mất đi vẻ lịch sự của người miền
Nam, tôi hơi mỉm cười nói mát:
- Tôi người
miền Nam còn chú miền Bắc sao mà có họ hàng
được.
Tên công an ngẩn
người như suy nghĩ câu nói của tôi. Cử chỉ
vồn vã, nét mặt vui tươi thân thiện của hắn
khi biết tôi cùng quê cùng họ, làm như trong tôi có vết
thương đang bị muối xát vào. Cùng mẹ VN một
giòng máu, một màu da, nhưng không cùng lý tưởng. Biết
đâu người công an này có họ hàng với tôi và
cũng có thể những người coi tù là bà con với
chồng tôi. Với nghịch cảnh hiện tại, làm
sao tránh khỏi anh em cốt nhục tương tàn.
Tôi được
chỉ đường tới K1 là nơi giam giữ chồng
tôi, đường vẫn còn dài, tôi đến ngồi
dưới bóng mát gốc cây bên vệ đường. Phía
xa cùng con đường, một người đàn bà
đầu đội tay xách như tôi còn dẫn theo một
bé gái, vừa đi bé gái vừa khóc, người đàn bà rất
trẻ, đứa bé gái khoảng tuổi con tôi. Hình như
bé gái không chịu đi bộ nên người mẹ cúi xuống
vừa đỡ con vừa kéo lết giỏ đồ
trông khó nhọc lê thê. Có lúc người mẹ bỏ giỏ
đồ bên vệ đường, gập lưng xuống
để cõng con, một tay đưa ra phía sau đỡ lấy
con trên lưng mình còn một tay xách giỏ đồ, dáng
xiêu xiêu bước đi nặng nề mỏi mệt giữa
trưa nắng như lửa đốt.
Đi
được vài bước, người mẹ lại xốc
đứa con trên lưng để khỏi bị tuột
xuống, lưng người mẹ còng hẳn xuống,
tay vuốt mồ hôi trên mặt và quay lại vuốt nhè nhẹ
vào má đứa bé như thể dỗ đành vỗ về.
Người mẹ cõng đứa con tới gốc cây tôi
đang ngồi, thả con xuống và nhờ tôi trông chừng
rồi trở lại chỗ cũ xách giỏ đồ
còn lại. Cứ như vậy suốt con đường,
thay phiên cõng con và xách đồ từng chặng, thật vất
vả khổ sở. Nếu không cùng hoàn cảnh, không thể
nào cảm được cái cảnh đi thăm chồng.
Trên thân
người đàn bà đó đã chịu bao nỗi khổ
trong cuộc sống, giờ đây đang cố gắng gồng
giữ niềm yêu thương của mình .. Đứa bé
gái trông thật xinh, mặt bé đỏ au dưới ánh nắng
mặt trời, tóc ướt mồ hôi dính chặt trên vầng
trán, mắt bé tròn như hai hòn bi, thơ ngây nhìn tôi an tâm
không khóc. Đến khi nhìn thấy một người công
an gánh hai thùng nước đang đến gần, những
giọt nước sóng sánh toát ra ngoài theo nhịp bước,
mắt tôi và bé gái đều sáng lên, tôi còn chịu đựng
được nhưng bé gái gào khóc lên gọi mẹ vì thấy
nước.
Người
mẹ ngước về phía con lo lắng, chân bước
thật nhanh đến con mình, thấy mẹ, đứa
bé vừa khóc vừa chỉ về hướng người
công an:
- Mẹ! Con
muốn uống nước, con khát nước quá mẹ
ơi.
Người
mẹ liếc nhìn tên công an như thể thấy một
hung thần, cúi xuống dỗ con.
- Đừng
khóc nữa con, gần tới chỗ bố rồi, tha hồ
uống nước con ạ.
Nhưng vì
quá khát nước, đứa bé càng khóc to hơn.
- Không! Mẹ
ơi con muốn uống nước bây giờ, không có
nước con sẽ chết. Người mẹ không còn biết
làm sao dỗ con, đành bứt mấy lá cây rừng, cuốn
tròn lại thành cái phễu, đánh bạo đến gần
người công an để xin nước cho con mình.
- Xin cán bộ
cho con tôi tý nước.
Mặt
người công an lạnh lùng cau mày gắt lên:
- Chị là vợ
của những tên ngụy quân ngụy quyền, là loại
phản động phản quốc, được nhà
nước khoan hồng cho đi thăm nuôi, mà còn đòi thế
nọ thế kia, ở đây không có nước cho các chị.
Người
mẹ nhìn về phía con đang gào khóc đòi nước, cố
nén tủi nhục, nhẫn nại năn nỉ:
- Không! Tôi
không xin nước cho tôi.
Người
mẹ chỉ tay về đứa con đang khóc, hầu
mong khơi dậy một chút tình người.
- Cán bộ
nhìn thấy đứa bé đang khóc đàng kia kìa, từ
sáng đến giờ nó chưa được uống
nước. Cán bộ làm ơn cho tí nước đi cán bộ.
Người
mẹ giở cái phễu lá rừng năn nỉ:
- Tôi chỉ
xin một chút nước đựng trong này thôi, không nhiều
đâu cán bộ. Tên công an đứng bật lên, gánh nước
bước đi, trút đổ bao hận thù xuống
người mẹ.
- Toàn là thứ
phản động, theo đế quốc Mỹ, sống
sung sướng quen rồi, nóng một tý mà cũng không chịu
được. Chị tưởng tôi là đầy tớ
gánh nước cho chị hả, đồ thứ phản
quốc ..
Người
mẹ chạy lại ôm chặt con mình, ép nỗi uất
đau òa theo tiếng khóc của con. Tiếng khóc hai mẹ
con vang trong rừng vắng không làm vơi thù hận của
những kẻ không trái tim không tình người ..
Ôi quê
hương tôi không còn chiến tranh, không còn nghe tiếng
súng mà vẫn còn đè nặng bởi thù hận và khổ
đau. Hình ảnh vừa rồi thật trái ngược với
hình ảnh năm nào của những người lính Sư
đoàn 18 VNCH trong một buổi chiều dừng quân
nơi thôn làng tôi ở. Họ chỉ có một vài giờ
nghỉ chân mà còn tìm cách giúp đỡ những người
dân trong thôn làng, người gánh nước, người chẻ
củi, cứ thấy công việc nào người dân
đang làm là họ xúm lại phụ giúp. Hình ảnh thân
thương đầy tình người, gần gũi với
đồng bào đã ở mãi trong tim tôi.
Con đường
đi vòng trên sườn đồi, nhìn xa xa phía dưới,
những dãy nhà lợp tôn lẫn lợp lá hiện ra thấp
thoáng. Trong lòng tôi vừa mừng vừa hồi hộp biết
là nơi đó có chồng tôi, tự dưng đầu tôi
quay mòng mòng, chân tôi muốn quỵ xuống. Mãi tận rừng
núi hoang vu, hàng hàng lớp lớp nhà tù, đang giam giữ chồng
tôi và những người sống vì chính nghĩa, chịu
bao nhục hình của bầy thú dữ, nước mắt
tôi lại chảy, chỉ biết gọi thầm tên anh.
Mong rằng anh cảm nhận được tiếng gọi
của tôi và biết rằng tôi đang đến gần
anh.
Căn nhà
thăm nuôi của K1 nằm bên phải con đường
phía dưới chân đồi, nhìn rất rõ vì cây rừng
đã được phá hoang, thỉnh thoảng còn lại
ít cây to rải rác. Thấy con đường vòng hơi xa,
nóng lòng gặp chồng, tôi tìm cách đi lối khác. Tôi thả
hai giỏ đồ đã được cột chặt
lăn xuống theo sườn đồi, còn tôi thì cột
hai ống quần vào cổ chân rồi ngồi tụt xuống,
vì độ dốc rất cao. Cũng may tôi mặc cái quần
vải thun dầy nên không bị rách, chỉ bị trầy
chút da chân và tay vì vướng vào cành chà.
Tôi tới
nhà thăm nuôi đã gần chiều, có mấy người
cùng chuyến xe tới trước cũng đang ở
đó. Nhà thăm nuôi hẹp và dài, được chia ra nhiều
ngăn, mái lợp lá, vách đắp bằng đất trộn
rơm. Ngăn đầu có một lối ra vào không cánh cửa,
ở giữa kê một cái bàn gỗ dài, hai cái ghế dài hai
bên, có lẽ là chỗ gặp thân nhân. Gần lối ra vào,
một cái bảng nội qui ghi những điều luật
cấm. Những điều luật cấm thì trại tù
nào cũng như nhau, nhưng thời gian thăm nuôi thì tôi
như hụt hẫng với bao mơ ước dự
tính trong đầu khi nhìn con số 15 phút thăm gặp.
Lòng tôi sôi quặn, trời ơi ba ngày đường xa
xôi, lặn lội rừng sâu mà chỉ được gặp
chồng có 15 phút thôi sao. Chưa gặp mặt chồng mà
nước mắt tôi đã ứa bờ mi.
Trước
sân nhà thăm nuôi là con suối nhỏ, bên kia con suối, những
dãy nhà tù thật xa, dù thấy bóng người tù cũng
không thể nhận diện được ai vì quá xa. Tôi
mon men đến gần sát bờ suối, mắt hướng
về phía trại tù mong ngóng hình bóng yêu thương của
mình qua thần giao cách cảm.
Trời gần
nhá nhem tối, thêm được hai chị đi thăm
chồng ở K4 và K5 đến tạm ngủ chung với
chúng tôi cho qua đêm, chờ sáng hôm sau trở lại chỗ
cũ để gặp chồng. Chúng tôi chẳng ai biết
ai, nhưng cùng hoàn cảnh nên dễ thân thiết, ngồi
chụm chung lại với nhau nói chuyện.
Thật là khủng
khiếp kinh sợ khi nghe các chị kể chuyện, ngay tại
nhà thăm nuôi K1 này, đêm đêm có một bóng ma, hiện
lên lơ lửng phía sau nhà, chỗ cây cao nhiều cành lá.
Ngôi nhà này vách sau có những cửa sổ không cánh, chấn
song bằng những cành tre nhỏ nên có thể nhìn qua lại
rất rõ. Tin đồn có một chị đi thăm chồng,
không biết vì vấn đề gì đã treo cổ tự tử
ngay cây cao phía sau nhà, nên bây giờ hồn chị luẩn quẩn
quanh đây, hiện ra với âm thanh rên rỉ khóc than theo tiếng
gió vi vu thật rợn người.
Trời
chưa tối hẳn, tôi đã thấy sờ sợ, ngồi
chen vào giữa các chị. Có chị quả quyết là chị
không tin người đàn bà đó tự tử, trong khi cực
khổ đi thăm chồng, đã đến tới
nơi sắp gặp được chồng, cớ gì lại
tự tử. Có thể người đó tới đây,
không có ai cùng thăm nuôi, đêm vắng vẻ bị tụi
công an hãm hiếp, rồi giết treo cổ chị trên cây
để không chứng cớ và gán cho chị là tự tử.
Hai chị
thăm nuôi K4 và K5 đều nói cũng nghe tin đồn
đó, nên hai chị tìm đến với chúng tôi để
không bị nguy hại. Phần tôi, nếu không nghe
được chuyện này, lần đầu tiên đến
đây, một mình đêm vắng, có thể cũng như
người đàn bà bị treo cổ trên cây kia.
Ngoài sân màn
đêm đã bao phủ một màu đen đặc, ếch
nhái ngoài bờ suối ì ộp kêu. Đàng xa, có ánh đèn
bin đang rọi đi tới nhà thăm nuôi, một chị
khều tay nói khẽ, "kiến vàng đang đến"
( ý nói Công An). Chờ trời tối, công an mới đến
kiểm tra có bao nhiêu người ở đó để phát
mùng mền.
Tới
lượt tôi, tên công an cầm súng chĩa thẳng vào tôi,
sợ trường hợp bất cẩn, tôi nói với tên
công an:
- Cán bộ
làm ơn đưa họng súng qua hướng khác, đừng
chĩa vào tôi lỡ tay rất nguy hiểm.
Tên công an sừng
sộ:
- Vợ tụi
ngụy không tin được, phải cảnh giác.
Và họng
súng vẫn hướng về phía tôi.
Tôi là người
sau cùng vô tới trại, công việc nấu cơm theo thứ
tự, tới phiên tôi là chót. Ở đây có một cái bếp
và một cái nồi móp méo, người này nấu xong dỡ
cơm ra rồi đến người kế tiếp.
Cũng có người không nấu cơm, họ mua các loại
bánh đưa vào ăn, còn tôi tiền bạc eo hẹp, mua
được hai lon gạo, nấu ăn đêm nay và ngày
hôm sau, cũng may tôi còn một quả trứng luộc mua dọc
đường chưa kịp ăn ..
Nấu
cơm xong đã quá nửa đêm, tôi dỡ cơm vào chiếc
khăn tay ướt nắm lại cho chắc và chia thành
hai nắm, một nắm ăn ngay, còn một nắm dành
cho ngày mai. Tôi cạo vét những hạt cơm cháy dưới
đáy nồi để còn rửa sạch cho người
khác nấu. Nhìn những hạt cơm bất chợt lòng
tôi nhói buốt xót xa.
Hình ảnh
hai người tù cải tạo hồi chiều đã làm
tôi rơi nước mắt, ruột co thắt và tim gan
như xé ra từng mảnh. Lúc tôi đứng bên bờ suối
nhìn sang trại giam. Một chị đưa nồi ra suối
rửa, những hạt cơm theo nước trôi, nằm đọng
dưới nước lẫn lộn đất cát và sỏi
đá.
Một
người tù cải tạo lao động gần đó,
đưa mắt liếc nhanh, chờ cho chị ấy
bước hẳn lên bờ, người tù vội vàng
bước thật nhanh xuống lòng suối, giả bộ
cúi xuống rửa mặt, nhanh tay mò nhặt những hạt
cơm lẫn chung với đất cát bỏ vội vào miệng
của mình. Hình ảnh đó thu nhanh vào mắt tôi, vào
đáy lòng của tôi. Ôi! Thật đau khổ dường
nào, xót xa dường nào. Trời ơi! Chồng tôi cũng
như thế sao?
Khi tôi ra bìa rừng
nhặt mấy nhánh củi khô để nấu cơm, một
người tù cải tạo đang chặt cây rừng,
mon men lại gần phía tôi lấm lét nói nhỏ, ánh mắt
như cầu khẩn:
- Chị
ơi! Khi nào chị nấu cơm xong, chị đừng
đưa nồi ra suối rửa, chị làm ơn dấu
cái nồi trong bụi rậm này cho chúng tôi chị nhé.
Hai hình ảnh
đó làm tôi như chết lặng. Trời ơi! Những
người tù cải tạo, những con người khốn
khổ sao ra nông nỗi này? Sao biến đổi như thế
này? Cộng sản quá ti tiện bẩn thỉu, hành hạ
người tù bằng cách này. Hai nắm cơm trắng nằm
trong chiếc khăn tay. Tự nhiên hình ảnh chồng tôi
qua hình ảnh hai người tù cải tạo ấy làm tôi
chẳng thấy đói. Một nắm tôi gói lại cho chồng,
một nắm tôi bỏ lại trong nồi cùng ít cơm
cháy, chờ trời sáng tôi dấu vào bụi rậm, không biết
người tù nào may mắn được ăn nắm
cơm này.
Đặt
lưng xuống chiếc giường tre, tôi không ngủ
được, trằn trọc thao thức đếm từng
tiếng chim cú kêu ngoài rừng, đếm từng tiếng
gà rừng gáy. Chỉ còn vài giờ đồng hồ là tôi
được gặp người chồng yêu
thương của tôi.
Thời gian
trôi qua chậm lòng tôi bồn chồn nôn nao khó diễn tả,
bao nhiêu hình ảnh của chồng, bao nhiêu tâm tình muốn
nói với chồng đầy ắp trong đầu, không
biết sắp xếp câu nào trước câu nào sau, vì chỉ
có 15 phút.
Mắt cứ
mở lớn nhìn trên nóc mùng, từng bầy rệp, họ
hàng nhà rệp, phải nói là cả xã hội rệp lớn
nhỏ có đủ, vừa ngửi thấy hơi người,
thi nhau bò theo hàng theo lớp thật nhanh xuống chỗ tôi
nằm để hút máu, cái mền cũng vậy, rệp
bò lổn ngổn lúc nhúc, mùi tanh tanh ngai ngái đến lợm
giọng.
Bỏ mền
ra thì lạnh, cái lạnh của miền núi rừng cao nguyên
tê buốt thấu xương, ra ngoài ngồi thì bị muỗi
rừng chích, tôi đành chịu để rệp hút máu.
Nhìn đoàn rệp bò như hội chợ, con no máu bụng
căng phồng chậm chạp bò lên nóc mùng, con nào còn thèm
thuồng lại bò xuống, cứ như vậy bò lên bò xuống
suốt đêm. Tôi thương tôi bị rệp hút máu, tôi lại
đau xót cho đất nước và đồng bào tôi, chịu
để bị tàn phá rỉa róc đến tận
xương tủy.
Trời hừng
hừng sáng, tiếng kẻng lanh lảnh phát ra từ trong
trại tù, hàng loạt vang dội vào tai tôi đến nhức
óc, tiếng kẻng báo hiệu những người tù
đi làm khổ sai. Mọi người lăng xăng háo hức
xếp đồ thăm nuôi gọn gàng chờ gặp
người thân, có người sắp đồ để
bên cạnh cái bàn như thể chồng mình đang ở
đó. Tôi cũng nôn nao hồi hộp, mắt hướng
về bên kia bờ suối mong ngóng.
Từ
đàng xa, người công an dẫn những người
tù đi đến, tất cả mọi người chúng
tôi chạy ùa ra đứng cạnh bờ suối, chỉ
mong nhìn thấy chồng mình trước, nhưng những
người tù đó rẽ ra hướng khác làm mọi
người hụt hẫng ngơ ngác. Tôi không ngạc
nhiên, biết chắc tốp tù đó không có chồng tôi, vì
họ mặc bộ đồ tù màu xám nhạt, trước
ngực và sau lưng đều đeo bảng số,
người nào cũng như bộ xương biết
đi được khoác lên bộ đồ tù rộng
thùng thình, vạt và tay áo phất phơ như hình thằng
bù nhìn mà nông dân thường treo ngoài ruộng rẫy để
đuổi chim.
Thêm hai lớp
tù nữa đi qua, họ đi bên kia bờ suối khoảng
cách hơi xa, nhưng họ cứ ngoái lại nhìn chúng tôi,
trông thật tội nghiệp. Mặt người nào
cũng còm cõi hốc hác. Tôi đoán họ là tù hình sự, chắc
bị hành hạ tra tấn dữ lắm nên thân xác họ
tiều tụy như vậy. Tiếng các bác các chị nhao
nhao:
- Đang ra
kìa! Đang đến nữa kìa, chắc lần này đúng
rồi.
Tôi bước
ra chỗ khác để nhìn cho rõ, vẫn thấy hai người
công an mặc áo màu vàng cầm súng đi chung với tù cải
tạo, nhưng tốp này ít người tù hơn. Họ
cũng mặc áo tù màu xám có bảng số. Tôi nhìn dửng
dưng, người tôi đang mong đợi là chồng
tôi, chứ không phải những người tù hình sự
đó.
Những
người tù đến gần bờ suối, người
nào cũng hướng về chúng tôi, mắt tôi nhìn về
một người vì người ấy nhìn tôi mỉm
cười. Tôi thấy tội nghiệp vì bộ đồ
tù quá rộng phủ lên người đó, còn tóc cắt ngắn
gần như trọc nhẵn. Mắt tôi vẫn trông theo
người đó, tôi hơi ngạc nhiên, người
đó xa lạ tôi không quen tại sao cứ nhìn thẳng vào
tôi.
Quay sang chị
bên cạnh, tôi chỉ vào người tù đó:
- Chị
ơi! Tôi không quen người tù đó, mà sao nhìn tôi cười.
Chị ta
nhìn theo hướng tay tôi chỉ:
- Chắc
người nhà chị, cười với chị, chứ
tui đây sao không cười với tui.
Chị ta
cười nói đùa:- Trời ơi! Nhìn thấy chồng
mà mặt làm bộ tỉnh queo.
Tôi cãi lại:
"Chồng tôi nhìn đâu như vậy".
Những
người tù qua hẳn bên này suối, khoảng cách thật
gần, cách tôi chừng 5 bước. Bỗng mắt tôi hoa
lên, chân đứng không vững, bầu trời như sập
xuống. Tôi mở to mắt nhìn, như không vào mắt mình,
tim tôi đập mạnh trong lồng ngực. Ôm lấy ngực,
cắn chặt môi để không thét thành tiếng, tim tôi
đau nhói.
Ôi! Chồng
tôi, chồng tôi đấy ư! Chồng tôi ra nông nỗi
này sao? Không lẽ là anh, lúc này tôi nhận rõ anh qua ánh mắt.
Ánh mắt ngày xưa nhìn tôi yêu thương nồng nàn, bây
giờ cũng ánh mắt ấy nằm trong một hốc
sâu trông thật xót xa. Đôi mắt to tròn đầy
cương nghị chỉ còn là hai hố sâu hoắm trên
cái đầu lâu được bọc da.
Đau xót
thương cảm tôi nghẹn ngào, nước mắt cuồn
cuộn thi nhau chảy. Trời ơi! Hình dạng chồng
tôi hao mòn biến đổi ra thế này ư. Tôi
đưa tay bụm chặt lấy miệng để tiếng
khóc không thoát ra ngoài, mặt tôi dàn dụa nước mắt,
tim nhói đau theo nhịp tiếng khóc trong cổ họng.
Hình ảnh
chồng tôi lung linh qua làn nước mắt. Anh nhìn tôi
đau khổ, đầy nước mắt khô, môi anh khẽ
mấp máy:
- Nín đi
em, nín đi em. Anh đây! Anh không sao, anh còn sống!
Tôi đứng
nhìn anh chết sững. Tôi biết những dòng nước
mắt của tôi sẽ làm anh khổ, nhưng tôi không thể
nào cầm lòng được khi nhìn thấy chồng
như thế này. Tôi muốn chạy lại ôm chặt lấy
anh, ôm lấy hình hài như da bọc xương của anh,
san sẻ cho anh chút sinh lực hơi ấm nơi tôi.
Nhưng tôi không làm được, cặp mắt hai tên công
an cầm súng trừng trừng nhìn chúng tôi như ngầm bảo
"không được lại gần những người
tù", chúng tôi thật gần mà khoảng cách thật xa bởi
quyền lực.
Sáu người
tù đứng theo hàng trước nhà thăm nuôi. Tôi chờ
tiếng nói của 2 tên công an cho phép gặp gỡ người
tù, sẽ chạy đến bên anh, đưa anh vào chỗ
nơi tôi để sẵn giỏ đồ thăm nuôi.
Nhưng tên công an ra lệnh mấy người tù thứ tự
theo hàng đứng vào một bên hàng ghế, còn một bên
hàng ghế đối diện, tên công an hất mặt lại
phía những người đi thăm nuôi.
- Này! Ai là
người nhà, chỉ được một người
thôi, ngồi phía bên kia người nhà của mình.
Chúng tôi lần
lượt như một cái máy bước nhanh vào chỗ
ngồi đối diện. Những người tù ngồi
bất động, xót đau nhìn người thân của
mình, kiên nhẫn chờ đợi. Người công an đứng
ở đầu bàn hắng dặng, gằn giọng nói:
- Trước
khi người nhà tâm sự với nhau, phải tuân theo
điều luật, động viên các anh ấy học tập
tốt, nhất là không được khóc làm nản chí học
tập các anh ấy. Phải biết là nhà nước cách mạng
đánh đuổi Mỹ- Ngụy ra khỏi nước,
nhà nước đã khoan hồng cho các anh ấy học tập
để không còn theo Mỹ-Ngụy đánh đổ nhà
nước, bây giờ đã hòa bình, xã hội chủ
nghĩa là xã hội tự do vv .. Ôi chao, tên công an cứ
như con vẹt đọc bài thuộc lòng, những lời
tên công an không lọt vào tai chúng tôi. Mắt và đầu óc
tôi chỉ chăm chú vào chồng tôi, nước mắt tôi
vẫn không ngừng rơi.
Trong phòng
thăm nuôi im lặng, ngoài tiếng nấc, tiếng sụt
sịt nghẹn ngào trong cuống họng và tiếng giảng
thuyết lên lớp của tên công an, kéo dài như cố
tình quên 15 phút thăm gặp. Những giọt nước mắt
của tôi như động lực đưa bàn tay anh về
phía tôi, như muốn vỗ về an ủi mà trước
đây mỗi lần tôi khóc. Bàn tay anh rướn gần tới
bàn tay tôi thì ngừng lại, vì tên công an cầm súng tiến
gần phía sau lưng tôi, ngón tay anh run rẩy như những
lóng xương đang động đậy. Lòng tôi
đau như cắt, chẳng nói được gì ngoài hai
hàng nước mắt, tôi muốn vươn tới nắm
lấy bàn tay xương xẩu của anh, nhưng cặp
mắt của tên công an vừa nói vừa liếc nhìn chúng
tôi.
Dưới
gầm bàn, tôi cảm được bàn chân chồng tôi
đang động đậy kiếm bàn chân tôi, trút vội
cái dép khỏi chân tôi đưa chân mình lần mò đặt
lên chân anh, để chồng tôi nhận hơi ấm và
tình cảm của tôi lén lút gửi qua bàn chân anh. Bàn chân chồng
tôi đang lạnh từ từ ấm lên, tôi khóc mà cảm
được hạnh phúc qua đôi bàn chân.
Cho tới
khi tên công an cho phép trao đổi tâm tình, thời gian chỉ
còn 5 phút ngắn ngủi, tôi chẳng nói được gì với
chồng tôi, ngoài tiếng nấc nghẹn ngào, gật đầu
và lắc đầu theo tiếng hỏi thăm của chồng
tôi về bố mẹ và hàng loạt người thân mà chồng
tôi nhớ tới. Hết giờ thăm nuôi.
Tới lúc kiểm
tra đồ thăm nuôi, có món mẹ tôi cố công làm gửi
cho anh và vài món khác không hợp lệ bị gạt ra. Tôi hồi
hộp nhìn những món đang kiểm tra, tới món mỡ
chưng hấp với đường cát trắng, tôi nặn
óc nghĩ mãi cách qua mặt tên công an, mở gói mỡ ra, những
miếng mỡ trong veo bọc với đường cát trắng
trông giống như miếng mứt bí, tên công an cầm từng
miếng lên ngửi, thắc mắc hỏi tôi:
- Cái này là thứ
gì?
Tôi trả lời
nhanh để hắn khỏi nghi ngờ:
- Thưa cán
bộ, thứ này là mứt bí, Tết qua lâu rồi sợ bị
hư, tôi gởi cho chồng tôi để ăn tết muộn
ạ.
Như thể
tên công an chưa bao giờ nhìn và nghe nói mứt bí, vẫn thắc
mắc:- Mứt bí là cái thứ gì?
Có lẽ
người ngoài Bắc không hiểu tiếng người
trong Nam. Tôi lại giải nghĩa:- Mứt này cứ vào dịp
tết, chúng tôi lấy quả bí đao cắt lát, ướp
với đường phơi khô thành mứt , gọi là mứt
bí.
Tôi thở
phào khi tên công an bỏ miếng mỡ heo vào gói và đẩy
về phía chồng tôi, anh nhanh tay bỏ vào giỏ của
mình, chỉ sợ bị lấy lại. Tên công an giả lả:-
Mất bí đao thì cứ gọi là mất bí đao .. nói là
mứt .. mứt .. ai mà biết.
Vài tiếng
cười khúc khích nho nhỏ của mấy người
đi thăm nuôi đứng gần đó. Tên công an quay lại
gừ lên:
- Các chị
cười cái gì vậy.
Còn nắm
cơm, tôi gói vào tờ giấy đã nguội ngắt, hắn
cầm lên sừng sỏ với tôi:
- A! Chị
này giỏi thật. Dám sỉ nhục cách mạng. Chị
tưởng nhà nước chúng tôi bỏ đói chồng chị
hả, tôi bỏ lại hết đồ thăm nuôi của
chị bây giờ.
Lúc đó tôi
run quá, vì thương chồng mà làm hại tới anh. Sợ
chồng tôi không được nhận những món đồ
thăm nuôi, tôi định lấy lại nắm cơm và
xin lỗi tên công an, nhưng thấy ánh mắt chồng tôi
nhìn vào nắm cơm. Tôi thật đau lòng và xấu hổ
cho sự hèn nhát yếu đuối của mình khi phải
nói những gì không đúng sự thật, giọng tôi run run
uất ức:
- Thưa cán
bộ! Tôi biết nhà nước cách mạng khoan hồng
cho chồng tôi, được đi học tập cải
tạo như vậy là tốt, để chồng tôi thông
suốt đường lối, sống tốt với nhà
nước với nhân dân. Còn tôi đâu dám sỉ nhục
nhà nước, nắm cơm này tôi nắm để
ăn, còn thừa đã hơn một ngày rồi, nó bắt
đầu hơi thiu, bỏ đi thì tiếc. Tôi để
lại cho chồng tôi ăn, nếu không còn ăn được,
chồng tôi vất đi cũng được mà.
Những lời
tôi nói làm dịu lòng tên công an, cầm cuốn sổ tay, tên
công an gõ vào cạnh bàn, nói.
- Chị hiểu
được nhà nước như vậy là tốt, thôi
được, cho phép chồng chị lấy nắm
cơm thiu này.
Chồng tôi
chỉ chờ có vậy, cầm vội nắm cơm bỏ
vào giỏ và bước nhanh vào hàng đi theo hai tên công an
vào lại trại.
Chúng tôi
nước mắt tiễn đưa những người
thân tới bờ suối, ranh giới của chia cách. Những
người tù ngoái lại nhìn chúng tôi trông rất
thương cảm xót xa, không biết có lần sau gặp
lại vợ mình, người nhà của mình nữa không?
Mọi
người trở vào thu xếp để đi về.
Bóng chồng đã khuất hẳn, tôi thẫn thờ nán lại
bên bờ suối, nhìn về hướng trại giam
như để hy vọng còn nhìn thấy anh. Tiếng các
chị gọi ơi ới:
- Không gặp
lại nữa đâu, đi về đi.
Bước
vào nhà thăm nuôi, nhìn từng chỗ vẫn thấy hình ảnh
chồng tôi, từ chỗ anh đứng xếp hàng, chỗ
ngồi vào ghế, lúc anh đứng nhích tới để
xếp đồ vào giỏ, từng hình ảnh một hiện
lại trong mắt tôi. Tôi ngồi vào ngay chỗ anh ngồi,
tưởng tượng anh còn đang ngồi với tôi,
tay tôi xoa xoa mặt bàn tìm chút hơi ấm còn đọng lại
của anh. Nước mắt tôi lại trào ra, chỉ là
tưởng tượng, mặt bàn trống trải lạnh
tanh, hơi lạnh chuyền vào tay thấm tới tim tôi,
ngơ ngác tôi như còn muốn kiếm tìm.
Mặt trời
đã lên cao. Tôi ra về mà lòng trĩu nặng xót đau,
hình ảnh tù tội khốn khổ của chồng luẩn
quẩn quanh tôi là hành trang yêu thương theo tôi suốt cả
cuộc đời. Từng bước chân nặng nề
bước trên con đường dốc ven đồi,
đầu tôi ngoái lại như hồn còn ở giữa
núi rừng hoang vu.
Từ xa,
nơi ngã ba đường, hình dáng như quen thuộc
đang tiến vào con đường tôi đang đi. Ồ!
Thì ra ông cụ cùng chuyến xe sáng hôm qua. Tôi đứng lại
chờ, dáng ông thất thểu lom khom từng bước
chậm chạp, không còn vẻ nhanh nhẹn như hôm qua. Thấy
tôi ông chỉ hơi nhếch mép, vẫn cái miệng móm mém của
ông, tôi nhanh nhẩu chào:
- Chào bác! Hai
bác cháu mình có duyên gặp lại nhau, sao bác? Con trai bác có khỏe
không?
Tôi chào hỏi
để có chuyện nói chứ cùng cảnh thăm tù, thấy
người thân nỗi đau như xé ruột gan. Ông cụ
òa lên khóc, tiếng khóc nỉ non ai oán.
- Tôi khổ
quá cô ơi! Lặn lộn đường xa mong gặp con
mà chẳng được gặp.
Tôi cầm lấy
tay ông lắc lắc, lo sợ!
- Sao vậy
bác! Anh ấy bị làm sao?
Như cào vào
nỗi đau thương của ông, mếu máo ông càng khóc
to hơn:
- Tội nghiệp
cho con tôi, nếu tôi đi thăm một tuần trước
đây thì đâu đến nỗi này, con tôi bị giam vào
nhà đá mấy bữa nay rồi cô ơi.
Ông khóc hu hu,
giọng nghẹn ngào đứt quãng:
- Khổ thân
con tôi! Sao con khổ vậy, con làm gì nên tội mà họ hành
hạ con!
Nước
mắt tôi chảy theo nước mắt ông, cùng hoàn cảnh
và tâm trạng. Kẻ khổ không gặp được
con, người đau nhìn chồng thân xác hao mòn xác xơ. Một
già một trẻ chung niềm đau, chậm chạp lê
bước trên đường ..
Sau này, những
đêm nằm gối đầu trên cánh tay chồng, tôi
thường nghĩ đến những năm tháng sống
trong đen tối khổ đau, những tủi nhục
khổ cực mà chồng tôi chịu đựng trong nhà tù
khổ sai mà Cộng sản gọi là "tập trung cải tạo".
Tôi thì thầm hỏi anh nghĩ gì mỗi lần nhìn thấy
tôi và ngày đó ở trại tù Gia Trung, cảm giác của
anh khi bàn chân tôi tìm để trên bàn chân anh dưới gầm
bàn, anh bóp nhè nhẹ bờ vai tôi cách âu yếm.
Ngày mất
nước, anh mất tất cả. Ngày vào tù, coi như
anh đã chết. Những lần thấy tôi, nhìn tôi tàn tạ
héo úa, anh rất khổ. Anh bất lực trong hoàn cảnh
không thể an ủi xoa dịu tôi, anh không khóc được
như tôi đã khóc, anh dồn nén niềm đau của mình
càng làm anh đau hơn. Nhưng anh vẫn nhìn thấy
nơi tôi một vùng trời đầy hy vọng, giúp anh
thêm niềm tin và nghị lực. Và lần đó, anh không nhận
được hơi ấm từ bàn chân tôi, có thể chân
anh và tôi khoảng cách hơi xa, nên chân tôi đặt lên bàn
chân người bạn tù ngồi kế bên .. Thôi thì người
bạn tù đó cũng cảm được sự an ủi,
hạnh phúc nghĩ đó là chân của vợ mình.
Anh quàng tay ôm
chặt lấy tôi, như thể bàn tay anh còn quá hẹp,
không đủ ôm cả niềm yêu thương hạnh phúc
của mình. Còn tôi, rúc vào cổ vào ngực anh, hạnh phúc
nghe được nhịp tim và hơi ấm, như
đang nghe điệu nhạc dịu êm, ru tôi vào giấc
ngủ trong vòng tay ấm áp của anh, mà trước
đây tôi thường phập phồng lo sợ tưởng
rằng mình không bao giờ còn có những giây phút này.
Hoàng Yến
(Ngươn Trần sưu tầm
và chuyển)