Home | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | HU'U~ ÍCH 3 | HU'U~ ÍCH 4 | HU'U~ ÍCH 5 | HU'U~ ÍCH 6 | HU'U~ ÍCH 7 | LINKS | CU'̉'I CHÚT CHO'I | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TÀI T̀NH | DANH NHÂN | THÚ VI. | GIA -D̀NH | GIA -D̀NH [tt] | DÊ~ THU'O'NG | LA. ! | KHÔ? | KHÔ? [tt] | SU'U TÂ`M TÊ'U

TA.P GHI 32

 

 

Mảnh đất bất hạnh!

(Chu Nguyn)

 

 

Thành phần ưu tú nhất trên hoàn vũ đă từng mơ tưởng Canada như đất lành đầy cơ hội cho những ai muốn mang tài năng và nhiệt huyết ra xây dựng tương lai cho ḿnh và đóng góp cho sự phát triển kinh tế của một cường quốc đa văn hóa kiểu mẫu trên thế giới. Nhưng rồi họ ngỡ ngàng khi va chạm với thực tế một khi tới Canada. Tại sao họ lại khó kiếm tiền và kiếm việc so với di dân tới Mỹ và Anh? Như thế Canada là "Đất thiên đường" hay vùng đất bất hạnh (Land of misfortune)?

 

Phần sau đây lược dịch từ bài Land of Misfortune đăng trên tờ MacLean's số tháng Tư 2013, cho thấy phần nào khó khăn và t́nh trạng sinh hoạt chung của di dân khi bước tới miền "đất hứa".

 

* * *

 

Đă có lúc Sanjay Mavinkurve và vợ là Samvita Palukone mơ tưởng đến xứ "đất lạnh t́nh nồng" Canada, là nơi có chính sách di dân cởi mở và mềm dẻo, một đường lối rất đỗi tự hào bấy lâu nay của xứ sở này v́ vừa hữu ích cho đất nước vừa mang lợi cho di dân. Sau khi lập gia đ́nh vào năm 2008, Marvinkurve, gốc Ấn nhưng trưởng thành ở Saudi Arabia và tốt nghiệp Đại học Harvard, làm việc ở Silicon Valley, với vai tṛ kỹ sư trưởng nhóm có bổn phận thiết kế bản đồ Google cho điện thoại di động. C̣n bà vợ Padukone từng là chuyên viên về tài chính tại một ngân hàng đầu tư lớn nhất Singapore.

 

Với visa làm việc tạm thời tại Mỹ, Mavinkurve không thể xin phép cho vợ cùng làm việc tại xứ Cờ hoa như ḿnh được. Thông cảm t́nh trạng của nhân viên, Google đă t́m cách chuyển Mavinkurve sang một văn pḥng của công ty tại Toronto, nơi này đầy hứa hẹn cho vợ anh là Padukone có bằng cấp về ngân hàng và kinh nghiệm tài chính quốc tế t́m ra một việc làm thích hợp.

 

Câu chuyện của họ đă khiến giới truyền thông phía Nam lên tiếng chỉ trích, rằng chính sách di dân mang tính chất bàn giấy nặng nề của Mỹ đă vô t́nh xua đuổi đi những nhân tài và có thể khiến cho kinh tế của nước này có cơ nguy. Trong khi ấy, cặp vợ chồng trẻ di dân mới này ngồi trong một căn hộ ở trung tâm Toronto dưới lá cờ Canada mỉm cười tràn đầy tin tưởng "đất tốt c̣ đậu".

 

Nhưng cuối cùng giấc mơ "xứ tuyết t́nh người ấm áp" của cặp vợ chồng Mavinkurve cũng như của nhiều di dân khác trở thành ảo ảnh, v́ họ phải đối phó với thử thách nghiệt ngă là t́m việc làm. Trước mặt họ chỉ có tuyết lạnh chứ thiếu sự nồng nàn cần thiết!

 

Padukone cố gắng t́m ra một việc. Gọi hàng trăm cú điện thoại cho các ông chủ công ty chẳng có ma nào đáp lại. C̣n các tay tuyển mộ nhân sự th́ bảo cô ta rằng cô khó t́m ra việc thích hợp v́ không có kinh nghiệm tại Canada. Tuy nhiên, cặp vợ chồng trẻ vẫn kiên tŕ v́ họ có họ hàng ở Canada không ít, họ chấp nhận khởi đầu chậm cũng được, v́ "vạn sự khởi đầu nan". Niềm tin "ngày mai trời lại sáng" của di dân mới nhập Canada lung lay dần. Nh́n chung quanh t́nh trạng di dân gặp khó khăn, Mavinkurve không khỏi ngao ngán v́ vợ thất nghiệp. Chàng kỹ sư tài ba tâm sự: "Tôi gắng gạt bỏ đi những ư nghĩ bi quan v́ chắc rằng vợ tôi không ở trong trường hợp này". Nhưng khi đọc tin thấy có những di dân có văn bằng PhD. nhưng phải lái taxi kiếm sống, trong khi trên tivi vẫn quảng cáo: cần di dân tay nghề cao th́ Mavinkurse tỉnh mộng.

 

Vào cuối 2009, cặp vợ chồng đành phải rời Canada sang Seattle, nơi Padukone cuối cùng xin được visa làm việc tại Mỹ nhờ được nhận vào làm tại văn pḥng chính của Amazon.

 

Khoảng thời gian ngắn của đôi vợ chồng này ở Canada cho họ biết khá nhiều về t́nh trạng di dân tới Canada. Giờ đây, Mavinkurve thẳng thắn nhận xét: "Điều tôi nói ra có lẽ người Canada không muốn nghe nhưng tôi vẫn nói, phần đông người Canada không tỏ ra mặn mà với di dân".

 

Trong khi ấy, chính sách cốt lơi của Canada về di dân, dựa theo tiêu chuẩn cho điểm ứng viên di dân (về tuổi tác, học vấn, kỹ năng, ngôn ngữ ..), được coi như độc đáo so với hoàn vũ, nhắm xây dựng một xă hội đa văn hóa dựa trên việc thu hút, chọn lọc những thành phần di dân tuổi trẻ, tinh hoa, kỹ thuật cao trên thế giới để bảo đảm cho việc phát triển thành công nền kinh tế kiểu mẫu. Tuy nhiên, trong những thập niên gần đây chính sách này chỉ mang lại hậu quả tiêu cực. Mặc dù Canada vẫn muốn thu hút thành phần công nhân có học vấn cao nhất, nhưng xứ sở này đă chứng kiến một t́nh trạng suy thoái rơ rệt về đời sống của lớp di dân ưu tú khi đă trở thành công dân của ḿnh. Sự suy thoái kinh tế này, nhiều quốc gia tiền tiến đă tránh được.

 

Theo nghiên cứu của Thống kê Canada (Statistics Canada) trong năm 1970, nam giới di dân tới Canada kiếm vào khoảng 85 phần trăm so với lương của công nhân sinh trưởng ở Canada, rồi thù lao tăng lên tới 92 phần trăm sau một thập niên ở đây. Vào khoảng những năm cuối của thập niên 1990, họ chỉ kiếm được chừng 60 phần trăm, rồi sau 15 năm tới xứ này lương bổng của họ chỉ tăng lên vào khoảng 78 phần trăm so với lương công nhân gốc xứ Lá Phong. Trong khoảng thời gian này di dân tốt nghiệp đại học kiếm trung b́nh chỉ bằng 67 phần trăm so với lương của dân bản xứ tốt nghiệp đại học.

 

Mức suy thoái này mỗi lúc một trầm trọng v́ càng ngày di dân tới Canada càng có học vấn cao, tay nghề vững hơn thế hệ trước họ, nên t́nh trạng thừa người thiếu việc diễn ra ngày một gay gắt.

 

Thống kê Canada cũng cho biết, trong khoảng thời gian từ 2000 tới 2007, khoảng 80 phần trăm công nhân tay nghề cao tới Canada có bằng cấp đại học, trong khi ấy so với toàn thể dân Canada th́ con số này chỉ bằng 25 phần trăm. Cho đến nay, khoảng cách biệt lớn nhất về lương bổng giữa di dân và lao động bản xứ, rơi vào nhóm có bằng cấp đại học. Gần nửa tổng số thành phần di dân nghèo túng trường kỳ sống ở Canada lại là những công nhân tới Canada theo diện có tay nghề chuyên môn (skilled workers).

 

T́nh trạng trên ảnh hưởng tới xứ sở này không ít. Canada là một trong những quốc gia thu hút di dân nhiều nhất thế giới và thu hút được một tỷ lệ di dân tay nghề cao hơn các quốc gia Âu Mỹ. Thế mà thành phần di dân được chọn v́ cho rằng kỹ năng của họ có lợi cho kinh tế (economic migrants) lại chiếm gần phân nửa tổng số di dân Canada, trong khi ở Mỹ con số này chỉ vào khoảng 16 phần trăm. Tổng trưởng di trú Canada Jason Kenney phải nh́n nhận t́nh trạng kinh tế của di dân ở Canada suy thoái, thể hiện qua sự thất nghiệp hay bán thất nghiệp, là một vấn đề nghiêm trọng (huge problem) tác hại tới sản xuất và kinh tế của liên bang nói chung.

 

Trong khi ấy, di dân tới Mỹ có đời sống khả quan hơn v́ đồng lương họ kiếm được so với lao động bản xứ không tạo ra khoảng cách quá xa. Trong năm 1980, di dân tới Mỹ kiếm được khoảng 80 phần trăm so với công nhân gốc Mỹ; nhưng vào năm 2011, di dân đă kiếm được lương bổng so ra bằng 93 phần trăm lương lao động gốc Mỹ, trong khi ấy, di dân có bằng cấp đại học c̣n có chiều hướng kiếm tiền nhiều hơn công nhân Mỹ cùng đẳng cấp.

 

Trong kỳ kinh tế suy thoái mới đây tỷ số thất nghiệp đối với thành phần tốt nghiệp đại học gốc di dân (foreign born) ở Canada là 8,4 phần trăm trong năm 2010 (trong số này những ai ở Canada chưa đầy 5 năm con số thất nghiệp lên tới 14 phần trăm).

 

Nếu so với Mỹ, trong cùng thời gian, tỷ số thất nghiệp trong nhóm sinh viên ra đời ở xứ khác chỉ bằng 4,4 phần trăm. Ngay cả lúc t́nh trạng kinh tế xuống mức thấp nhất th́ tỷ lệ thất nghiệp của dân Canada tốt nghiệp đại học cũng chỉ bằng 3,5 phần trăm mà thôi.

 

Chẳng phải Canada chỉ thua nước láng giềng phương nam mà c̣n thua cả Anh. Ở Anh quốc, ngoại trừ di dân Bangladesh, di dân có kỹ năng nghề nghiệp cao, hiện giờ kiếm được tiền nhiều hơn lao động gốc bản xứ, và con số có việc làm của cả hai nhóm, lao động gốc di dân và lao động bản xứ, cũng ngang nhau.

 

Úc trong thập niên 1990 cũng điều chỉnh lại chính sách di dân và ưu tiên cho di dân nào tới Úc có khả năng kiếm việc làm. Cải cách này đă giúp số việc làm và lương bổng của di dân được cải thiện rơ rệt.

 

Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD-Organisation for Economic Operation and Development), th́ gần 23% di dân Canada sống trong cảnh túng thiếu (so với con số trung b́nh trên thế giới, theo OECD, là 17%). Canada cũng bị coi là quốc gia tệ nhất trong việc tạo điều kiện cho di dân có việc làm xứng hợp với học vấn, kỹ năng của họ. Do đó, chỉ có 60% di dân Canada có kỹ năng cao làm công việc thích hợp (trong khi con số b́nh quân phải là 71%).

 

Các chuyên gia về kinh tế, chẳng hạn như George Borjas của Đại học Harvard, cho rằng Canada đă thu nhận số di dân có bằng cấp đại học nhiều hơn mức cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia. Khuyết điểm này làm đồng lương của họ sụt giảm và làm gia tăng lương lao động không có kỹ năng hoặc học vấn. Ở Mỹ khác hẳn, làn sóng lao động từ Mễ và Trung Mỹ nhập lậu khiến lương lao động tay chân hạ thấp 20% kể cả lao động gốc Mỹ thuộc thành phần bỏ dở trung học. C̣n lương của thành phần lao động có kỹ năng cao, được các hăng ở Mỹ bảo lănh nhập Mỹ, tăng nhanh tới mức 20%.

 

Một tệ trạng khác thường gặp ở các công ty tuyển dụng ở Canada là đ̣i người xin việc phải có "kinh nghiệm làm việc tại Canada" (Canada work experience). Đây là một biện pháp để sàng lọc các ứng cử viên và gặp nhiều chỉ trích v́ tính chất kỳ thị và thành kiến của nó.

 

Một giáo sư Kinh tế tại Đại học Toronto, Philip Oreopoulos, đă thử cho gửi hàng ngàn "sơ yếu lư lịch" (resumés) trong đó tên tiếng Anh đổi thành tên kiểu Ấn hay Hoa, th́ kết quả thực là đáng ngạc nhiên, v́ số thư trả lời của các các công ty giảm tới 50%. Nhiều chủ nhân công ty cho biết họ chỉ cần đọc cái tên xa lạ đó đủ biết ứng viên dốt tiếng Anh. Một lư do khác, các người tuyển mộ nhân viên, trước hàng trăm "resumé", thường chỉ đọc lướt qua và chọn một vài đối tượng, và ứng viên nào sinh ở xứ khác Canada rất dễ bị gạt bỏ v́ "thiếu kinh nghiệm làm việc tại Canada".

 

Các ông chủ Mỹ không phải không kỳ thị, không phải không có thành kiến với di dân. Nhưng thường thường người lao động nhập cư cần phải có công ty ở Mỹ hứa cho việc làm mới có thể xin di dân chứ không phải đă tới Mỹ theo diện di dân mới vác đơn xin việc làm.

 

Canada có khuynh hướng chuyển từ chính sách chọn di dân theo tiêu chuẩn cho điểm (points system) sang đường hướng để các công ty quyết định họ cần công nhân kỹ năng nào trên thế giới th́ được phép tham dự việc tuyển chọn. Từ lúc đảm nhiệm chức vụ tổng trưởng bộ di trú, Tổng trưởng Jason Kenney của đảng Bảo thủ đă thực hiện một số thay đổi trong việc tiếp nhận di dân như gia tăng số lượng visa làm việc tạm thời tại Canada cho công nhân có kỹ năng cao và chuyển bớt quyền quyết định về nhập di dân cho các tỉnh bang.

 

Dựa vào chính sách di dân xem ra tiến bộ ở Úc và Tân Tây Lan, Canada ứng dụng biện pháp cho thiết lập danh sách thành phần muốn di dân làm việc tại Canada. Thành phần này được chọn lọc ngay ở nước họ và kỹ năng của họ được đánh giá một cách khách quan bởi một cơ quan độc lập. Chủ nhân các công ty Canada sẽ rà soát danh sách ứng viên lao động có tiềm năng được di dân kể trên và chọn đối tượng nào thích hợp với nhu cầu của hăng ḿnh. Sau đó các công ty chỉ việc bảo lănh đối tượng đă chọn và lịch tŕnh xét duyệt sẽ ngắn hạn hơn rất nhiều so với lối cho điểm di dân cũ kỹ, nặng tính chất bàn giấy của Ottawa đă làm trước đó.

 

Tuy nhiên, lối chọn di dân này cũng gặp một số chỉ trích. Những đối tượng được các công ty chọn lựa có thể thỏa măn nhu cầu của công ty trong thời gian trước mắt, nhưng năm mười năm sau đó th́ sao? Số phận di dân này sẽ như thế nào? Hơn nữa, theo lối này công nhân nhập cư sẽ phải phụ thuộc quá nhiều vào công ty đă chọn ḿnh và dễ dàng bị chủ nhân bóc lột.

 

Chọn lao động di dân theo thang điểm (point system) hay chọn theo nhu cầu của công ty (employer driven system) đều đ̣i hỏi sự cân nhắc trong việc áp dụng chính sách thu nhận di dân vào Canada. Ư kiến chung là phải có sự phối hợp ưu điểm giữa hai cách chọn lựa để kinh tế có thể phát triển hữu hiệu và lâu dài. Có như thế mới bảo đảm cho di dân có công ăn việc làm thích hợp và tránh được cái ṿng luẩn quẩn thất nghiệp và nghèo túng.

 

 

Chu Nguyễn

 

(Huôn Trinh sưu tm và chuyn)

 

 

website counter