Mấy tháng sau cùng của năm
học, sáng nào chở con tới trường tôi cũng
nh́n thấy một bé gái đứng chờ xe ở ngă
tư đường Washington và Oregon, thành phố Milpitas.
Em chừng 13, 14 tuổi, da nâu, tóc đen, ngắn, khô và
hơi xơ xác, quần áo của em như những
đứa trẻ cùng lứa giống nhau, đơn sơ
giản dị. Em gầy ốm, mắt nhỏ, sóng mũi
thấp. Rơ ràng em có khuôn mặt của người Á châu.
Nhưng tôi không rơ em là người Nhật hay người
Hoa, người Đại Hàn hay người Thái Lan. Em
cũng có thể là người Phi Luật Tân. Mà sao không
phải là người Việt ? Milpitas nhiều
người gốc Á hơn là dân bản xứ. Đông
nhất là dân Phi, Nhật và Ấn. Người Việt
cũng đông, nhưng tôi không nghĩ là đông hơn ba
sắc dân kia. Vậy mà đi đâu, nh́n đâu tôi cũng
thấy người Việt. Mười ba năm ở
Quận Cam, tôi bơi lội giữa người Việt.
Nói năng đi đứng, suy nghĩ như một
người đang sống ở Sài G̣n. Quán cà phê, tiệm
ăn, nhà sách, tiệm chạp phô, quần áo, âm thanh, mùi
vị,... chỗ nào cũng là Việt Nam. Sài G̣n trên mỗi
bước chân. Trong từng hơi thở. Quận Cam không
ai quá nghèo, cũng không ai quá giàu. Là tôi nghĩ thế.
Cũng có thân t́nh và lạnh nhạt. Cũng có đố
kỵ và tử tế. Cũng có đen và trắng. Cũng
có bọn giả h́nh và người chân thật. Đâu mà
chẳng vậy. Nhưng tôi biết những ngày buồn
tôi sẽ đi đâu. Đến nhà một người
bạn nào tôi sẽ được uống một tách trà,
nghe những câu chuyện đáng nghe. Đến quán cà phê
hay tiệm ăn nào tôi sẽ gặp được
người tôi muốn gặp. Tôi thật là một
người may mắn. Nhiều người ở tiểu
bang khác đến chơi bảo tôi, tới Bolsa thăm
bạn bè ở vài ngày th́ được, chứ ở
lại th́ không bao giờ. Tôi hỏi tại sao?
Người ta bảo: Bolsa bon chen quá. Người ở
đó một là vái nhau hai là đổ rác vào
đầu cổ nhau. Không thích.
Tôi đồng ư,
nhưng tôi cũng nghĩ đâu mà chẳng thế. Bọn
tưởng là quư tộc c̣n tệ hơn. Cái thế
giới trưởng giả giàu sang có những quy luật
của nó. Tôi không quen. Rồi tôi dọn lên San Jose, Bắc
Cali. Vậy mà cũng đă gần ba năm. Nơi tôi làm
việc có khoảng 1,500 người. Số nhân viên
người Việt chừng hai chục. Tôi thấy có
cả những người gốc Á khác: người Hoa,
người Phi, người Nhật và người Ấn.
Nhưng cũng chỉ là một tỉ lệ nhỏ thôi.
Chúng tôi gặp nhau trên hành lang, chào hỏi nhau buổi sáng,
buổi chiều, cuối tuần đầu tuần. Tôi
đă học được cách cười, cách nói cách
nghĩ trong một khung cảnh mới. Những
người trẻ Việt nói tiếng bản xứ trôi
chảy. Những người lớn tuổi nói tiếng
Việt dễ dàng. Công việc của tôi cũng
thường. Không có ǵ khó, cũng không hẳn là dễ.
Chỉ là nghề nghiệp. Một thói quen mới làm dần,
học dần, trở thành cái máy. Th́ cũng là những
người tốt và người xấu,. Những
người chơi được và những người
chơi không được. Cũng có bọn giả h́nh.
Cũng có người lương thiện. Đâu mà
chẳng thế !
(chan^n dung ta'c gia? NXH)
Thung lũng điện tử nhiều người
giàu, nhưng thành phố Milpitas, khu tôi ở, không ai giàu
như nhiều người ở xa vẫn nghĩ
Thung lũng điện tử
nhiều người giàu, nhưng thành phố Milpitas, khu tôi
ở, không ai giàu như nhiều người ở xa
vẫn nghĩ. Thê thảm hơn là gần nửa năm
nay, thung lũng không vui, nhiều người mất
việc, nhiều cửa tiệm ăn uống không c̣n
cảnh xếp hàng rồng rắn như trước. Nhà
treo bảng bán suốt mấy tuần vẫn c̣n nguyên.
Trước kia người ta hay nói pay-off bây giờ
người ta chỉ nói lay-off. Trước người ta
nói "anh có biết mỗi ngày thung lũng có thêm mấy
nhà triệu phú không", bây giờ người ta nói
mỗi ngày có bao nhiêu người dọn nhà ra khỏi thành
phố. Trước kia người ta nói tên những
hiệu xe đắt tiền và những ngôi nhà trên núi. Bây
giờ người ta đi mua xe cũ và bán nhà.
Tôi vẫn chưa khám phá ra vẻ
đẹp của vùng đất này. Tôi chỉ nh́n thấy
những dăy núi buổi chiều vàng óng một phía mặt
trời. Tôi chỉ thấy những xa lộ không lớn
lắm , bảng chỉ đường rắc rối và
những lối ra lối vào hơi nguy hiểm. Tôi cũng
đă chạm vào những người tưởng là ḿnh
vĩ đại nhưng thực chất cũng chỉ là
những kẻ tầm thường. Cũng xoàng thôi.
Thật không may cho tôi, sao tôi cứ gặp măi những
khuôn mặt rất ít nụ cười ! Và em bé
đứng đợi xe ở ngă tư đường làm
tôi nghĩ ngợi. Mỗi sáng của năm ngày trong
tuần, tôi luôn nh́n thấy em. Có phải ba của em
vừa mất việc ? Hay ba mẹ em sạt nghiệp v́
stock ? Có phải gia đ́nh em gặp tai nạn. Tôi nghĩ
là nhà em nghèo? Một người Phi Luật Tân nghèo. Tôi
đă ở đảo Bataan bên Phi tám tháng. Tôi không biết
người Phi nghèo ở Manila ra sao, nhưng tôi biết
người Phi ở Bataan nghèo hơn những người
tị nạn. Những người tị nạn vốn
đă đồng nghĩa với sự "khố rách áo
ôm", người Phi ở Bataan c̣n khố rách áo ôm
hơn. Những người bán hột vịt lộn rong
buổi tối đi len qua cửa sau của những
căn trại của người tị nạn rao hàng
giọng buồn thảm, những người bán
rượu lậu trong những căn nhà lợp lá cây xác
xơ. Những người Phi hiền lành chân chất và
tử tế. Tôi thấy ḿnh gần gũi với họ
hơn là những con người lúc nào cũng sắc
mắc về một cái cà vạt, một bộ quần áo
đúng kiểu. Tôi là một người nhà quê. Cái thứ
người tưởng là thành phố mà trời ơi sao
nó cải lương đồng bóng [nói như thế là
đă xâm phạm cải lương rồi!]. Tôi càng không
phải và không bao giờ là một nhà trí thức. Mấy
ngày nay tôi có t́nh cờ đọc được một
đôi bài bàn về trí thức. Có bài đàng hoàng, nặng
về học thuật. Có bài biểu lộ sự khoa
bảng và sự đọc, nhưng cũng có bài nói như
một chị đứng giữa chợ Đồng Xuân
vén váy lên mà rủa sả vào mặt người khác. Tôi có
học đôi ba chữ để đọc để
viết. Mẹ tôi không học chữ nhiều. Cha tôi
chỉ học ở đời sống. Tôi học
được ḷng nhân của mẹ. Tôi cũng học
được cái triết lư của cha: không có ǵ lớn
mà không bị một cái lớn vượt qua, không có ǵ
đẹp mà không bị cái đẹp khác lấn át. Cái
ḿnh biết bao giờ cũng rất nhỏ. Cái ḿnh
tưởng là chân lư, đôi khi chỉ là một hạt
bụi thôi. Cái bọn dởm cứ điệu đàng
nhờ có đôi chút kiến thức sách vở tưởng
rằng mặt trời đang ở trong tay. Tội
nghiệp! Một lời nói nặng bị dọng vào tai,
nghe không khỏi bực ḿnh nhưng bài học cho biết
phải quên đi ngay sau đó, để cái khoảng
trống trong lỗ tai chứa những lời tử
tế. Một chữ viết sai làm ta khó chịu rồi
cũng phải để qua một bên c̣n lo viết cho
đúng những chữ sắp tới. Hiền lành không
bao giờ đồng nghĩa với sự ngu dốt. Làm
thinh không phải là không biết nói. Bất bạo
động không phải là không có khả năng tấn công.
Tôi biết thế nào là một đứa trẻ bụi
đời. Tôi từng là một đứa trẻ như
thế.
(cha^n dung ta'c gia? NXH)
Tôi nhớ tới em bé đứng chờ xe ở ngă
tư đường
Tôi nhớ tới em bé đứng
chờ xe ở ngă tư đường. Những hôm trời
nắng hay trời mưa, trời có sương mù lạnh
hay trời trong và ấm, em đứng đó, chiếc
cặp trên vai, yên lặng nh́n những chiếc xe đi qua.
Xe tôi thường hay ngừng chỗ ngă tư,
nhường xe đến trước đi trước.
Tôi thấy em có đôi mắt buồn. Quá buồn. Da
mặt em tái xanh. Có vẻ như em không c̣n mẹ. Bà mẹ
nào mà chẳng lo cho con ? Sao bà nỡ để cho em tóc tai
như thế, quần áo em như thế? Khi bỏ con tôi
xuống gần cổng trường, tôi đi tiếp
chiều xe chạy đến sở làm chứ không quay
về lối cũ. Tôi không biết em đi ngă nào? Nếu
đi học, tôi nghĩ em chỉ cần đi vài
"lốc" đường là đến. Ở khu
đó có ba cấp trường: tiểu học, cấp hai
và cả cấp ba. Vậy th́ em chờ xe đi đâu? Ba em
đâu? Mẹ em đâu? Trong chiếc cặp quàng vai của
em có chứa sách vở không? Hay là thứ ǵ khác? Thứ ǵ
khác? Tôi không nghĩ ra một đứa bé gái bằng
tuổi em ở Mỹ mà không đến trường th́
đi đâu? Nhiều bữa, h́nh ảnh em theo đuổi
tôi suốt dọc đường đến sở làm. Tôi
nghĩ đến con tôi. Nghĩ đến cái tuổi 14,
16 đẹp đẽ của nó và tôi bỗng nhận ra
tất cả t́nh yêu mà tôi dành cho nó là một sự hiến
dâng xót xa đầy thất vọng.
Hơn hai tuần nay, tôi không c̣n
đi lại mỗi buổi sáng trên con đường
đó nữa. Nhà trường đă nghỉ hè. Nhưng h́nh
ảnh em bỗng hiện ra trong trí tôi sáng nay. Tôi đi
ngược đường đến sở làm. Tôi
muốn trở lại ngă tư Washington và Oregon. Mặc dù
hôm qua trời nắng gắt cháy da, sáng nay trời bỗng
mưa. Mưa không to nhưng khá lạnh. Tôi tấp xe vào
một khu chợ gần đó, đi lững thững
dọc theo con đường đến trạm chờ
xe. Trạm đợi xe vắng, không thấy bóng em. Tôi
nhớ đôi mắt buồn của em., nhớ cái dáng
điệu thỉnh thoảng em xốc lên có lẽ v́
chiếc cặp trên vai khá nặng trên đôi vai quá gầy
của em. Tôi tự hỏi tôi t́m kiếm ǵ? Tôi sẽ nói ǵ
khi gặp em? Và liệu em có muốn trả lời
những câu vớ vẩn của tôi? Đứa con gái
nhỏ của tôi mấy hôm nay đă bắt đầu
đi làm mùa hè ở một tiệm trợt pa-tin trong
thương xá của thành phố. Nó t́m cách chứng minh là
nó có khả năng lao động, nhưng nó chưa
biết giá trị mà nó thu nhập được từ
mồ hôi của nó. Nó chưa biết giá trị của t́nh
yêu mà tôi cho nó. Tôi không hiểu con tôi và có lẽ nó cũng
chẳng cần hiểu tôi. Như tôi không hiểu thế
nào là mùa hè ở Mỹ.
Tôi nhớ có nghe một ca khúc trong
nước phổ từ bài thơ của Đỗ Trung
Quân. Một bài thơ nói về mùa hè, chùm phượng
vĩ, tuổi mười tám, cậu học tṛ ngu ngơ
trước t́nh yêu mới lớn:
Những chiếc
giỏ xe chở đầy hoa phượng
Em chở mùa hè
của tôi đi đâu?
Chùm phượng
vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám
Thuở ngây thơ
thầm lặng mối t́nh đầu...
Ca khúc ấy tôi nghĩ rất
hợp với Việt Nam, hợp với khí hậu
thời tiết con người văn hóa Việt Nam. Ca khúc
ấy hát lên ở đây , trên một nước Mỹ
lạnh lẽo này sao mà xa lạ và lạc lơng. Nước
Mỹ to lớn đang thiếu một cái ǵ đó để
làm thành mùa hè cho những cô cậu học tṛ. Nước
Mỹ đă mất ngây thơ ngay tại sân trường
và lớp học. Không biết liệu mùa học tới,
khi chở con đến trường, tôi có c̣n gặp
lại em không ?
Thực sự tôi không phải là
người mê cổ nhạc, dù là Nam, Trung hay Bắc,
lại cũng chưa bao giờ đi xem cải
lương để nh́n thấy nghệ sĩ gạo
cội Út Trà Ôn tận mặt trên sân khấu, ngoại
trừ những bức ảnh thấy trên những bích
chương quảng cáo khi c̣n bé đạp xe đi
học.
Một hôm, trên đường
đi làm về nghe radio tôi được thông báo
người ca sĩ lăo thành vừa qua đời ở
Việt Nam.Ông mất ở một tuổi khá thọ, 83.
Đáng lẽ cũng như bao nhiêu cái chết khác của
những cụ già mà ngày nào cáo phó, phân ưu cũng
đưa tin, tôi sẽ quên ngay sau vài phút, thế nhưng
khi nghe tin ông chết tôi lại bùi ngùi nhớ lại
một kỷ niệm của chính ḿnh.
Vào khoảng 1950, 1951 khi tôi
độ hai, ba tuổi th́ t́nh h́nh chiến sự dâng cao,
mỗi lần có những vụ càn quét th́ chúng tôi phải
chạy loạn nghĩa là di tản ra những làng mạc
và đồng ruộng chờ quân Pháp đi rồi th́ quay
về nhà. Vùng tôi ở là một làng quê ở giữa hai bên
nên có thể là nạn nhân của bất cứ phe nào.
Khi đó gia đ́nh tôi có một
cái máy hát chạy bằng dây cót, loại máy hát mà cái cần
gắn kim khoằng khoằng như cái cổ ngỗng,
những chiếc kim hát phải mài đi mài lại
để dùng v́ muốn mua phải lên tận Hà Nội
mới có. Tôi không nhớ gia đ́nh tôi có bao nhiêu cái đĩa
hát (hay chỉ có một cái duy nhất không chừng?)
nhưng tôi chỉ thích bài Bàng Quyên-Tôn Tẫn mà về sau tôi
mới biết rằng đó là bài Tôn Tẫn giả
điên do danh ca Út Trà Ôn hát. Những đêm khuya nghe
người nhà kể lại tôi khóc rất dai cho
đến khi chú tôi phải vặn bài hát này cho tôi nghe xong
tôi mới chịu đi ngủ. Bài hát đó bây giờ tôi
chỉ c̣n nhớ đúng một câu:
... Trời đất ơi ... nỗi
đoạn trường! Chỉ v́ tôi quá tin thằng Bàng
Quyên nên nó mới chặt ... ư ư ... đứt
một bàn chưn tôi ...
Thế nhưng tiếng hát đó
vẫn văng vẳng trong đầu tôi năm mươi
ba năm qua không phai mờ mặc dù khi nhắc đến
th́ chỉ là một kỷ niệm nhạt nhẽo và vu
vơ, thực không đáng để kể lại cho ai
nghe.
Sáng nay tôi nhận được
một cái e-mail trong đó bạn tôi chuyển cho một Câu
Đố nhận được từ ai đó. Câu
đố Quiz đúng ra là một bài học nhân sinh trong
đó người viết đưa ra một loạt các
câu hỏi:
- Cho biết tên năm
người nhận giải Pulitzer năm năm qua
- Cho biết tên năm
người nhận giải Nobel năm năm qua
- Cho biết tên năm
người đựoc bầu làm hoa hậu nước
Mỹ năm năm qua ...
Một loạt những danh nhân
vẫn thường là những hàng tít lớn trên báo chí hàng
ngày chúng ta hằng thấỵ Nhưng có lẽ bạn
cũng như tôi không ai có cái trí nhớ siêu phàm để
nhắc đựoc tên những người đó.
Kế đó người
đưa ra câu đố đặt tiếp một số
câu hỏi:
- Cho biết thầy giáo nào đă
ảnh hưởng và làm cho bạn nhớ đến
nhất ?
- Cho biết người giúp
đỡ bạn và có những kỷ niệm nhiều
nhất ?
- Cho biết người nào đă
khuyến khích và hướng dẫn đời bạn ? ...
Sau khi nghiền ngẫm những
câu hỏi này, chúng ta mới chợt nhớ ra rằng
cuộc đời ḿnh không được hằn dấu
bằng những danh nhân to lớn của thời
đại như ḿnh vẫn tưởng. Trái lại chúng
ta có những kỷ niệm nhỏ, những người
bạn khi c̣n học trung học, tiểu học, những
mối t́nh rất vô t́nhnhưng vẫn đánh dấu một thuở hoa niên,
có khi ngay ở lớp nh́ lớp nhất chứ không
phải khi đă khôn lớn.
(Tri.nh So*n Lu*o*.ng su*u ta^`m)
Cách đây không lâu, một người bạn tôi
ở bên Úc có sáng kiến rủ rê và t́m kiếm những
bạn cùng học với nhau từ năm đệ
Thất ở Chu
Cách đây không lâu, một
người bạn tôi ở bên Úc có sáng kiến rủ rê và
t́m kiếm những bạn cùng học với nhau từ
năm đệ Thất ở Chu Văn An để làm
một cái diễn đàn nho nhỏ, viết nhăng
cuội, ăn tục nói phét với nhau như khi c̣n là
những đứa trẻ mười một, mười
hai tuổi. Quả thực những e-mail qua lại gợi
cho nhau nhiều kỷ niệm be bé mà đôi khi chúng ta quên
bẵng đi nhưng vẫn c̣n in sâu trong óc một
người bạn cũ của ḿnh.
Cái thú vị đó cũng có
thể là một dấu hiệu của tuổi xế
trưa khi ai nấy bước vào cái tuổi tri thiên
mệnh rồi nhưng cũng có thể là một thực
tế mà đến tận bây giờ chúng ta mới
nhận ra. Người ta ít khi nhớ đến những
bữa ăn đầy cao lương mỹ vị như
những tiệc cưới, những buổi họp
mặt, những vụ gây quỹ đă trở thành nhàm chán
ở xứ cờ Hoa này mà chúng ta phải đóng bộ và
đóng kịch hàng tuần, hàng tháng như một món
nợ miệng phải trả cho xong. Trái lại những
ngày khó khăn chia với nhau một củ khoai, một
điếu thuốc lại gợi nhớ chúng ta nhiều
hơn, và cũng êm đềm hơn.
Quả đúng vậy. Đến
lúc này chúng tôi không viết để hỏi nhau về
sự nghiệp, về bằng cấp, về gia sản và
danh tiếng mỗi người đă thu đạt
được trong bốn chục năm qua. Chúng tôi
nhắc cho nhau những bài thơ của Trần Trung
Phương, Bàng Bá Lân, Tản Đà và những đoạn
văn của Hà Mai Anh, Thanh Tịnh ... Có những bài thơ
giản dị mà đầy ư nghĩa chúng tôi đă nhắc
lại, chẳng hạn:
Thằng Ba đeo
cặp kính râm,
Than rằng trời
đất tối tăm mịt mờ.
Vội vàng
đổi kính màu lơ,
Cười rằng
trời đất bây giờ hóa xanh.
Ba ta lại muốn
chơi tinh,
Thay đôi kính
trắng nh́n quanh khắp nhà.
Kêu rằng muôn
vật đều nḥa,
Mẹ Ba thấy
vậy nhủ Ba đôi lời.
Muốn trông cho rơ
sự đời,
Mà con đeo kính
nực cười lắm thay.
Hăy mau bỏ kính ra
ngay,
Dùng đôi mắt
thật họa may đỡ nhầm.
Hay một bài ngăn
ngắn khác:
Chua cay mặn
đắng ngọt bùi,
Ở đời
phải nếm đủ mùi mới hay.
Nực cười
cho thế gian này,
Ngọt bùi ưa ít
chua cay ưa nhiều.
Những bài thơ giản dị
đó vẫn c̣n nhớ rất kỹ sau hơn bốn
mươi năm. Thành thử nếu tôi có bồi hồi
nhớ đến giọng ca của ông Út Trà Ôn trong cái khung
cảnh một đứa trẻ nhỏ cố t́m ra cái
người bé tí xíu nào đó ngồi trong cái hộp hát
vọng ra th́ cũng là một lẽ thường. Có
lẽ v́ thế đă lâu nay tôi ít khi đọc những
hồi kư của những danh nhân, những người
đă từng đóng vai tṛ quan trọng trong những khúc
quanh lịch sử của vài chục năm qua v́ những
chi tiết trong đó không c̣n thích thú như những cái
e-mail của một tên bạn cũ học với nhau
hồi c̣n bé.
Hay tại v́ thế mà cái chết
của một ông tướng cũ ở nam Cali lại ít
xúc động cho tôi hơn cái chết của người
nghệ sĩ già ở Việt Nam.