Câu Chuyện Thầy Lang: Mấy Ngọn Rau Thơm (BÁC SĨ NGUYỄN Ý ĐỨC) Món ăn ngon tùy thuộc vào phẩm chất
của thực phẩm và kinh nghiệm nấu nướng
của
người làm bếp. Nhưng món ăn ngon, đặc biệt là đối
với các món ăn Việt Nam, cũng nhờ
được thêm vào những chất phụ, những
ngọn rau có hương vị khác nhau. Thực
vậy, những ngọn rau thơm đã nâng cao
giá trị của các món ăn, làm cho món
ăn trở nên hấp dẫn hơn với các mầu
sắc khác nhau, làm tăng hương vị
món ăn với các tinh dầu có sẵn
trong rau. Số lượng
rau gia vị thêm vào mỗi món ăn
không cần nhiều, mà chỉ loáng
thoáng nhưng thiếu chúng là không
được. Và vì thế, khi bắt đầu cuộc
sống xa quê hương hơn ba mươi năm về
trước, mỗi người chúng ta đều e
ngại không có rau thơm để
ăn. Nhất là ở nước Mỹ,
khi mà lệnh cấm nhập cảnh các loại
hạt giống cũng như rau trái cây bị
nghiêm ngặt cấm. Từ nước ngoài
trở về Mỹ, nhất là từ vùng
Đông Ấy vậy mà những con Rồng cháu
Tiên cũng đã có cách. Đủ loại
rau được trồng, từ Bắc kỳ rau muống
tới Xin tìm hiểu hữu dụng của mấy ngọn
rau thơm này. 1-Rau Răm Rau răm có mùi thơm, vị
chát, hơi cay cay, đặc biệt hấp dẫn. Hấp
dẫn như người thiếu phụ hơi nhiều
tình cảm mà lại có “con mắt
lá răm, lông mày lá liễu”...
Người Trung Hoa gọi răm là Thủy Liễu,
Lão Liễu. Về phương diện ẩm thực, ăn hột gà hột vịt lộn
mà thiếu rau răm thì có thể gây ra
đầy bụng, khó tiêu. Canh sáo thịt
bò, cật heo phải có mươi lá rau
răm thái nhỏ cho ngọt nước, ngọt thịt.
Bát bún thang cần vài sợi rau răm, vài giọt tinh dầu cà cuống
thì mới đúng là bún thang Hà Nội
ngàn năm văn vật.
Cá diếc nấu với rau sam và ớt
tươi vẫn cần mấy lá răm để dịu
mùi tanh. Riêu hến, riêu trai cộng thêm mấy
lá răm ăn vào mát ơi là mát !
Và tô bún bò Huế nóng hổi,
cay đến chẩy nước mắt bắt buộc
là phải có những lá rau răm thon thon,
xanh xanh ... Rau răm được dùng để kích
thích tiêu hóa, đầy hơi, đau bụng,
chống nôn mửa, thông tiểu tiện, chữa
nóng sốt, chữa rắn cắn, sâu quảng, hắc
lào trên da... Rau răm còn được những người
“tiết dục” ưa dùng vì cho rằng
rau có khả năng làm bớt tinh khí,
“dịu tình, giảm cơn bốc dục”. 2-Húng quế “Húng
làng Láng, đào Nhật Tân” chắc
là đang đi vào dĩ vãng, vì sự
đô thị hóa thành phố, di dời
dân chúng. Những khu nhà cao tầng,
cơ sở nhà nước đang được dựng
lên thay cho rau cỏ, hoa lá. Làng
Láng nằm ở ven đô Hà nội.
Dân chúng cha truyền con nối trồng các loại
rau, nổi tiếng là rau thơm. Húng làng Láng đã đi vào
văn học dân gian với: “Vải Quang, Húng Láng, Ngổ
Đầm, Cá rô Đầm Sét,
sâm cầm Hồ Tây” hoặc: “Ở đâu thơm
húng, thơm hành, Có về làng Láng, cho anh theo cùng Theo ai vai gánh
vai gồng Rau xanh níu
gót bóng hồng sông Tô” Húng quế còn
có tên gọi là húng chó, húng giổi,
rau é. Húng có
nguồn gốc từ Ấn Độ, Trung Hoa, nhưng hiện
nay được trồng tại nhiều quốc gia
để lấy tinh dầu chế biến chất
thơm. Ở Việt Nam trước đây húng
được trồng để lấy lá làm
gia vị và hạt làm nước giải
khát. Húng có mùi
thơm thoang thoảng, vị cay nhè nhẹ rất
thích hợp với phở nước, phở
xào, bò bẩy món, gỏi cuốn, tái
dê, dồi lợn ... Húng quế còn đi với
“cờ tây”, bò bía, bì cuốn hoặc
với “tứ thời bát tiết canh chung thủy”
Mà phải là tiết canh lợn, tiết canh
dê, tiết canh vịt, tiết canh chó chứ chớ
có tiết canh gà, vì các cụ cho
là huyết gà ăn sống rất độc...Một
miếng tiết canh với chút nước chanh, mấy
hạt đậu phọng, vài lá ngò gai,
ngò ôm, húng quế mà chiêu với hớp
rượu lúa mới thì, hết chỗ
nói.. Rau hung héo thâm
đen rất nhanh, nhất là khi để trong tủ
lạnh. Tuy nhiên, sau khi ngâm vào nước khoảng
nửa giờ thì rau tươi trở lại.
Nên cất rau trong túi giấy kín miệng,
để ở chỗ có nhiệt độ mát. Húng có nhiều
dầu thơm, được sử dụng trong kỹ
nghệ chế biến chất thơm và làm thuốc.
Trong y học, húng quế được dùng
để chữa cảm mạo, long đờm thông
đường hô hấp, đau dạ dày, đầy
bụng khó tiêu, ngậm trong miệng để bớt
hôi miệng, chữa đau răng, sâu răng, lợi
tiểu tiện, diệt giun sán, trị nấm
ngoài da ...Hột húng quế có nhiều chất
nhờn. Khi ngâm vào nước, chất nhờn nở
ra, bao quanh hạt và
được dùng để nấu chè hột
é, uống vào giải nhiệt, bớt táo
bón. 3-Thìa là Thìa là có
nguồn gốc từ vùng ôn đới nên
cây thường được trồng vào
mùa đông- xuân ở miền bắc Việt
nam, còn các tỉnh phía nam thì hầu
như không có thảo gia vị này. Lá thìa là mảnh
mai như những chiếc kim khâu, nhưng có vị
cay và mùi thơm “mãnh liệt”
có thể làm át mùi tanh của các
loại cá. Cho nên canh chua cá lóc, chả
cá Lã Vọng, Sơn Hải, cá quả nấu
ám, lẩu cá lăng Việt Trì... mà
không có nắm rau xanh xanh mảnh mai này đi
kèm với các gia vị khác thì chắc
cũng có nhiều người không muốn
nhúng đũa. Giò trâu, chả trâu, chả
rươi mà loáng thoáng có những sợi
thìa là thì ăn thơm khó tả... Ba ba
nướng chả, ngoài nghệ, tía tô, riềng,
tiêu, chanh, ớt vẫn cần có thêm một
nắm thìa là mới dậy vị. Dân gian dùng
nước cất hoặc tinh dầu quả thìa
là để trị đau bụng trẻ em, lợi sữa
cho bà mẹ, kích thích trung tiện, giúp
cho sự tiêu hóa, đái rắt, sốt
rét, thận suy, tỳ yếu... Tinh dầu thìa
là cũng được dùng để ướp
trà, làm xà phòng thơm. 4-Rau diếp cá Diếp cá còn có
tên là cây lá giấp, rau giấp, trấp
cá, ngư tinh tảo. Diếp cá có vị
cay, mùi tanh hôi, tính ấm mát, có
tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu
viêm, lợi tiểu. Diếp cá mọc hoang khắp
nơi và lan tràn rất mau. Mấy cọng rau mới
cài ở góc vườn ngày nào, mà
chỉ vài tuần sau đã um tùm những diếp
cá. Đây là món ăn ưa thích của
người miền Nam, nhưng hơi lắc đầu
“nhăn mặt” với người miền Bắc,
vì vị tanh tanh. Nhưng cái tanh tanh, béo
béo của diếp cá lại rất “hợp
nhất” với cái tanh của những miếng
cá còn tươi. Phải chăng đây
là duyên tiền định với tên “diếp
cá”, ngư tinh tảo. Diếp cá thường
được ăn sống với các loại rau
thơm khác. Theo Y học cổ truyền,
diếp cá có vị cay, mùi tanh, tính
mát có tác dụng giải độc, thanh nhiệt,
lợi tiểu, điều kinh. Lá diếp cá
ăn vào rất mát, có thể làm trĩ
hậu môn xẹp xuống.
Ngoài ra, diếp cá cũng được y học
dân gian tại nhiều quốc gia dùng làm thuốc
lợi tiểu tiện, hạ cao huyết áp, giảm
ho, tiêu diệt vi khuẩn, chữa kiết lỵ,
viêm phổi, sởi ở trẻ em, viêm tắc tia
sữa, viêm xoang, viêm sưng tai giữa, đau mắt
đỏ, kinh nguyệt không đều... Người
Nhật ưa thích gội đầu với nước
ép diếp cá và nước, vì họ thấy
mái tóc rất sạch và đẹp. Bị
đau lưng, đau khớp mà tắm với nước
nóng pha với nước diếp cá cũng bớt
đau. Bài thuốc với
diếp cá theo kinh nghiệm dân gian: - Trĩ: 5-10g diếp
cá, sắc lấy nước, ngâm vùng bị
trĩ đồng thời ăn sống rau diếp cá
vào mỗi bữa cơm. - Kinh nguyệt không đều,
viêm phổi, viêm ruột: Diếp cá
tươi, sắc lấy nước uống thường
xuyên. Diếp cá
tươi cần được rửa sạch, cất
trong tủ lạnh hoặc nơi mát. 5-Sả Sả hoặc cỏ sả,
sả chanh, hương mao là loại cỏ lá
dài như lá lúa, sống lâu năm, mọc
thành từng bụi. Cây và lá sả
có một mùi thơm đặc biệt có thể
hòa hợp với nhiều thực phẩm như thịt,
tôm, lươn, ếch, cua ..Sả giúp món
ăn dễ tiêu hóa hơn. Có nhiều
món ăn có thể nấu với sả như ếch
xào sả ớt, bún bò Huế, mì
căn xào sả, thịt gà nạc xào củ
sả, cá chiên ướp tỏi sả,
lươn rang muối hoặc hầm với sả, pha
nước mắm chấm với sả và nhiều vật
liệu khác... Vì có mùi
thơm nên tinh dầu sả được dùng
để làm nước hoa, xà phòng thơm.
Lá sả nấu sôi với lá chanh, ngải cứu
làm nước xông, kích thích đổ mồ
hôi, giải cảm.
Nước chiết củ sả có tính
cách lợi tiểu, ra mồ hôi. Cây sả trồng ở
góc vườn vừa đuổi muỗi vừa khiến
cho rắn không dám bén mảng tới gần nhà. 6-Tía tô Tía tô hay tử
tô là loại thảo thân thẳng có
lông, lá mọc đối mép có khía
răng, mầu xanh tím hoặc tím tía. Tía tô được
trồng khắp mọi nơi để làm gia vị
hoặc làm thuốc. Tất cả các bộ phận
của cây từ lá, hoa, củ tới cành, hạt
đều dùng được, nhưng dùng nhiều
nhất vẫn là lá. Bún chả Hà Nội
mà không có mấy là tía tô xanh
xanh- tím tím ăn sam với rau sống thì cũng
mất ngon. Món giả
ba ba, ốc nhồi, ếch, đậu phụ với mấy
lá tía tô thái nhỏ chan lên bát
bún là món ăn rất độc
đáo. Lại còn đậu phụ chiên chấm
với mắm tôm kèm vài lá kinh giới,
tía tô để mấy cụ nhâm nhi chút
rượu; cà bung đậu phụ tía tô
cho người muốn giảm béo; cháo trắng
thật nóng kèm thêm vài củ hành
ta, mấy lá tía tô thái nhỏ thì mồ
hôi đầm đìa, cảm lạnh ra đi,
người bệnh thấy khỏe khoắn, nhẹ
nhõm... Về phương diện
y học cổ truyền, tía tô có vị cay,
tính ấm, phát tán phong hàn, giải
độc, tiêu tích, hạ khí. Y học
dân tộc mình dùng tía tô để
trị ngoại cảm, nôn mửa, kích thích
tiêu hóa, chữa ho, hạ đàm, giảm hen
suyễn, tê thấp, giải ngộ độc cua
cá, cầm máu, giúp ngủ ngon, kháng vi
khuẩn, nấm, phòng ngừa sẩy thai, kích
thích đổ mồ hôi ... Hạt tía tô
có nhiều tinh dầu được dùng ở
Nhật Bản, Đại Hàn quét lên
dù, lên giấy để tránh thầm nước.
Dân Nhật cũng hay uống trà tía tô
để kích thích tuần hoàn, bổ thần
kinh, giảm cân; rửa mặt gội đầu với
nước tía tô để da, tóc khỏi
khô. 7-Kinh giới Kinh giới hoặc
khương giới có vị cay ấm với
công năng trừ phong, giải độc, tiêu
viêm, cầm máu. Món ăn gồm
có bún, đậu phụ, mắm tôm với
rau sống, lá kinh giới ở ngõ Phất Lộc
Hà Nội luôn luôn đông khách,
dù là món ăn rất bình dân. Rau muống xào với tỏi
mỡ phải ăn kèm với vài lá kinh giới
mới ngon miệng. Chả cá, bún chả Hà
Nội, các món gỏi cần có mấy
lá kinh giới kèm với rau sống thì mới
thỏa mãn khẩu vị. Hoa và lá kinh giới
được dùng trong dân gian để chữa
cảm mạo, nhức đầu, hoa mắt, nóng sốt,
viêm sưng cuống họng, nhức mình, nôn
mửa, đổ máu cam, đại tiểu tiện
ra máu, lở ngứa ngoài da.. Có nghiên cứu
nói đậu phụ ăn với kinh giới có
thể phòng chống loãng xương ở phụ
nữ, nhờ có estrogen thực vật trong hai loại
thức ăn này Danh y Trung Hoa Hoa
Đà đã thành công chữa một sản
phụ bị băng huyết bằng bột hoa kinh giới
sao khô tán nhỏ 8-Xương sông
lá lốt - Xương sông
là loại cây cỏ, thân đứng, lá
mọc so le hình mác, cạnh khía răng. Rau
có nhiều ở vùng nhiệt đới.
Toàn cây có mùi rất đặc biệt,
tương tự như mùi dầu hôi. Lá là bộ phận
được dùng để làm gia vị
và thuốc chữa bệnh. Vì có mùi
hơi lạ, nên không ai ăn lá xương
sông sống mà được dùng để
gói thịt heo, thịt bò nướng chả.
Lá sẽ tái đi, tinh dầu ngấm vào thịt
và cho một vị béo ngậy khác thường. Lá xương sông nấu
canh thịt, canh cá ăn rất ngon.. Nước lá
xương sông đun sôi được dùng
để chữa cảm sốt, ho sởi, trúng phong,
đầy bụng ...hoặc rang nóng rồi chườm
lên khớp xương đau nhức. - Xương sông
thường đi đôi với lá lốt. Lá lốt to như
lá trầu không, có vị nồng, hơi cay.
Lá lốt gói thịt heo hay thịt bò băm
nhỏ, thêm gia vị mắm muối rồi nướng
than hồng, khi ăn chấm với mắm nêm pha
chanh, ớt, đường, tỏi... Lá lốt
thái nhỏ nấu với ốc là món ăn
rất hấp dẫn. Lá lốt có
tác dụng chữa đau xương, tê thấp,
đổ mồ hôi tay, đầy hơi, tiêu chẩy...Nước
sắc lá lốt được dùng để
ngâm chân tay khi đổ nhiều mồ hôi ... Rồi lại còn
rau ngổ um lươn; ngò gai ăn với thịt
heo luộc chấm mắm tôm chua xứ Huế; khế
chua, chuối xanh, hành sống, gừng già, kinh giới,
tía tô, mùi tầu ăn với thịt ba chỉ
luộc chấm mắm tép đồng ruộng; giềng
lót nồi cá kho tộ, giềng kết nghĩa với
“cầy tơ” bẩy món; me, muỗm,
nhót nấu canh thịt canh cá; lá chanh non
ăn với thịt gà đồng quê luộc, bộ
ba lá mơ tam thể, đinh lăng và lá
sung kết hợp với gỏi cá, nem chạo; khế
chua nấu riêu với cua đồng ... Và nhiều ngọn
rau thơm khác nữa.... Nhà văn ẩm thực
danh tiếng Băng Sơn của Hà Nội có viết:
“Gia
vị chỉ là vai phụ trong sân khấu bữa
ăn, nhưng thiếu vai phụ này thì vai
chính chả diễn được với ai. Người
diễn viên phụ chỉ ra sân khấu thoáng
qua, nhưng ấn tượng để lại là
không thể phai mờ”. Thật là một nhận
xét rất xác đáng ! Texas-Hoa Kỳ BÁC
SĨ NGUYỄN Ý ĐỨC (Bai Chuyen)
NGƯỜI VIỆT ĂN UỐNG THẾ
NÀO ? (Trần Văn Khê) Người Việt Ăn Uống Thế Nào
và Cách Nấu Nướng Khác Với Người
Trung Hoa Ra Sao ? Thật ra, tôi rất ngại khi cầm viết
ghi lại những câu hỏi đã trả lời
cho những bạn bè người nước
ngoài khi họ hỏi tôi: Người Việt Trong một buổi tiệc, một anh bạn
Pháp hỏi tôi: - Chẳng biết người Pháp và
người Việt - Tôi rất ngại so sánh . . . tôi trả
lời . . . vì so sánh là biết rõ
rành mạch cả hai yếu tố để so
sánh. Thỉnh thoảng tôi có ăn uống theo người Pháp nhưng làm sao
biết cách ăn của người Pháp bằng
người Pháp chính cống như anh. Tôi
thì có thể nói qua cách ăn
uống của người Việt chúng tôi. Để
cho anh dễ nhớ, tôi chỉ đưa ra ba cách
nấu ăn của người Việt, rồi anh xem
người Pháp có ăn như vậy chăng ? Người chúng tôi ăn
toàn diện, ăn khoa học, ăn dân chủ. 1. Ăn toàn diện: Chúng tôi không chỉ ăn
bằng miệng, nếm bằng lưỡi, mà bằng
ngũ quan. Trước hết ăn bằng con mắt, và do
đó có nhiều món đem dọn lên,
nhiều màu sắc chen nhau như món gỏi sứa
chúng tôi chẳng hạn: có giá màu
trắng, các loại rau thơm màu xanh, ớt
màu đỏ, tép màu hồng, thịt luộc
và sứa màu sữa đục, đậu phộng
rang màu vàng nâu v. v. . . Có khi lại tạo
ra hình con rồng, con phụng, trong những món ăn nấu đãi đám hỏi,
đám cưới. Sau khi nhìn cái đẹp
của món ăn, chúng tôi thưởng thức
bằng mũi, mùi thơm của
các loại rau thơm như húng quế, ngò,
hoặc các mùi đặc biệt của nước
mắm, của cà cuống. Răng và nướu
đụng chạm với cái mềm của bún,
cái dai của thịt luộc
và sứa, cái giòn của đậu phộng
rang để cho xúc cảm tham gia vào việc
thưởng thức món ăn sau thị giác
và khứu giác. Rồi lỗ tai
nghe tiếng lốc cốc của đậu phộng rang,
hay tiếng rào rào của bánh phồng
tôm, hay tiếng bánh tráng nướng nghe
rôm rốp. Sau cùng lưỡi mới nếm những
vị khác nhau, hòa hợp trong món ăn: lạt,
chua, mặn, ngọt, chát, the, cay v. v. Chúng tôi
ăn uống bằng
năm giác quan, về
cái ăn như thế gọi là ăn toàn
diện. 2. Ăn khoa học: Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu,
nhất là ở Nhật Bổn thường hay sắp
các thức ăn theo " âm" và "
dương" . Nói một cách tổng
quát thì những món nào mặn thuộc
về dương, còn chua và ngọt thuộc về
âm. Người Việt
thường trộn mặn với ngọt làm nước
mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt
nướng, luôn luôn có pha
một chút đường; mà ăn ngọt
quá như chè, ăn dưa hấu hay uống
nước dừa xiêm thì cho một chút muối
cho âm dương tương xứng. Người
Tây khi ăn bưởi thật chua lại cho thêm
đường, đã âm lại thêm âm
thì âm thịnh dương suy, không
đúng theo khoa học ăn uống.
Người Việt phần đông không nghiên
cứu về thức ăn, nhưng theo
truyền thống của cha ông để lại
thành ra ăn uống rất khoa học. Người
Việt chẳng những để ý đến
quân bình âm dương giữa các thức
ăn mà còn để ý
đến quân bình âm dương giữa
người ăn và thức ăn. Khi có người
bị cảm, người nấu cháo hỏi: cảm
lạnh ( bị mắc mưa,
đêm ra ngoài bị cảm sương) thì nấu
cháo gừng vì cảm lạnh ( âm) vào
người phải đem gừng ( dương) vào
chế ngự. Nếu cảm nắng ( bị
mặt trời làm cho sốt) thì dương
đã vào người phải nấu cháo
hành ( âm) . Lại nghĩ đến âm
dương giữa người ăn và môi
trường; mùa hè thời tiết có
dương nhiều nên khi ăn có canh chua ( âm) hoặc hải sâm ( âm) ;
mùa đông thời tiết có âm nhiều
nên ăn thịt nướng. Ta có câu: "mùa hè ăn cá
sông, mùa đông ăn cá biển
" Quân bình trong âm dương
còn thể hiện qua điếu thuốc lào. Thuốc lá phơi và
đóm lửa (dương) hít một hơi cho
khói qua nước lã trong bình (
âm) để hơi khói thuốc vào
cơ thể, nguồn hút có cả dương
và âm, không kể nước đã lọc
bớt chất nicotine có hại cho buồng phổi.
Chẳng những cân đối về âm dương
mà còn hàn nhiệt nữa: thịt vịt hay
thịt cá trê - hàn - thì chấm với
nước mắm gừng - nhiệt -. Cách ăn của người Việt 3. Ăn dân chủ: Trên bàn dọn bao nhiêu thức
ăn, nhưng chúng tôi có thể ăn những món chúng tôi
thích, hoặc phù hợp với vấn đề
bảo vệ sức khỏe của chúng tôi.
Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức
chứa bao tử của chúng tôi, chớ không
phải ăn những món không ăn được,
hay là ăn không nổi. Như vậy
cách của người Việt Anh bạn người Pháp thích chí
cười to: ăn toàn diện,
chúng tôi chưa nghĩ đến là về
thính giác, ăn mà nghe tiếng động
là vô phép nên ăn bớt ngon. Ăn khoa học, thì chúng tôi chỉ
nghĩ đến calory mà không biết âm
dương và hàn nhiệt. Còn ăn dân
chủ, thì hoàn toàn thiếu sót vì
đến nhà chúng tôi có một thực
đơn mà mỗi người một đĩa,
ăn không hết sợ vô phép nên nhiều
khi không ngon lắm hoặc quá no cũng phải cố
gắng ăn cho hết. Tôi xin hoàn toàn hoan
nghinh cách ăn của người
Việt Về cách ăn uống Việt
4. Ăn cộng đồng: Thức ăn đầy
bàn mà có một nồi cơm, một tô
nước mắm để mọi người cùng
xới cơm và chan nước mắm ở một
nơi. 5. Ăn lễ phép: Con lớn lên đã theo học ăn, học nói, học
gói, học mở. Học ăn
là trước nhứt, khi "ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng". 6. Ăn tế nhị: Ăn ớt cữ
cách cắn trái ớt, có khi phải ăn ớt
xắt từng khoanh, ớt bằm, ớt làm
tương. Nước chấm nhứt là ở miền
Trung rất tinh tế ăn món chi
phải có nước chấm đặc biệt:
bánh bèo, bánh lá, bánh khoái đều
có nước chấm khác. 7. Ăn đa vị: Một miếng nem nướng
đã có vị thịt, riềng, muối, tỏi,
hành cuốn vào bánh tráng lạt lạt,
có chút bún, rau thơm, ớt (cay) , chuối sống
(chát) , khế (chua) , tương ( ngọt, mặn cay)
có pha hột điều hay đậu phộng xay (
béo) . Ăn có năm vị chánh: ngọt, mặn,
chua, cay, béo, có cả ngũ sắc đen
(tương) , đỏ (ớt) , xanh
(rau) , vàng (khế chín) , trắng (bánh
tráng, bún) . Ăn một miếng
mà thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị
và có khi hơn thế nữa. Một lần khác, một anh bạn của
tôi khai trương một tiệm ăn
lớn tại Nhà bếp nhỏ không chứa
được mấy chục phóng viên, và ai
cũng ngại hôi dầu hôi mỡ nên ông
chủ tiệm nhờ tôi tìm câu trả lời
cho các nhà báo.
Tuy không phải là một chuyên
gia về nghệ thuật nấu bếp, nhưng tôi cũng
phải tìm câu trả lời thế nào để
cho các nhà báo bằng lòng. Tôi mới nói rằng, tôi không
đi vào chi tiết nhưng chỉ đưa ra ba
điểm khác nhau trong cơ bản. 1. Cách
dùng bột:
Người Việt Nam thường dùng bột gạo
trong khi người Trung Quốc thích dùng bột
mì, cho nên Việt Nam có phở, hủ tiếu,
bún thang, bún bò, bún riêu; mà
người Trung Quốc thì chuyên về mì
nước, mì khô, mì sợi nhỏ, mì
sợi lớn, mì vịt tiềm. Người
Việt làm bánh đùm, bánh xếp,
bánh cuốn, bánh hỏi; người Trung Quốc
thì bánh bao. Chả giò
người Việt 2. Nước chấm cơ bản của người Việt nam là
nước mắm là bằng cá; còn nước
chấm của người Trung Quốc là xì dầu
làm bằng đậu nành. 3.
Người Việt thì thường pha
mặn ngọt; người Trung Quốc thích chua ngọt. Chỉ nói đại khái
như vậy mà các phóng viên đã
hài lòng; về viết bài tường thuật
nêu lên những điểm khác nhau ấy. Ông giám đốc tạp
chí Đông Nam Á, sau lời nhận xét
đó, cho phóng viên đến phỏng vấn
tôi thêm và hỏi tôi có biết yếu
tố nào khác đáng kể khi nói về
cách nấu ăn của người Việt khác
người Trung Quốc ở chỗ nào
? Tôi trả lời cho phóng
viên trong 40 phút. Hôm nay tôi chỉ
tóm tắt cho các bạn những điểm
chính sau đây: a. Về rau: người Việt tuy có ăn rau luộc, hay
xào; nhưng thích ăn rau sống, rau thơm, mà người Trung Quốc
không ưa ăn rau sống, cải sống, giá sống.
b. Về cá: Người Trung Quốc biết kho, chưng, chiên như người Việt
c. Về thịt: Người Trung Quốc biết quay,
kho, luộc xào, hầm như người Việt,
mà không biết làm nem, bì và các
loại chả như chả lụa, chả quế v. v. .
. d. Người Trung
Quốc ít có phối hợp nhiều vị trong
một món ăn như người Việt. Khi
chúng ta ăn một món ăn
như nem nướng thì có biết bao nhiêu vị:
lạt lạt của bánh tráng, bún, hơi
mát mát ngọt ngọt như dưa leo, và
đặc biệt của giá sống trộn với
khế chua, chuối chát, ớt cay, đậu phộng
cà bùi bùi, và có tương mặn
và ngọt. Người Việt trong nghệ thuật
nấu ăn rất thích lối đa vị
và tất cả các vị ấy bổ sung cho
nhau, tạo ra một vị tổng hợp rất phong phú . Cái ăn chiếm phần
khá quan trọng trong đời sống của
chúng ta. Khi dậy dỗ một trẻ
em thì phải cho nó học ăn, học nói,
học gói, học mở để biết ăn,
nói với người ta. Ra đường phải
biết " ăn bận" hay "
ăn mặc" cho phải cách phải thế. Đối
với mọi người không nên "
ăn thua" làm chi cho bận lòng. Làm
việc gì phải cẩn thận "
ăn cây nào, rào cây nấy" .
Trong việc tiêu tiền phải biết " liệu
cơm, gắp mắm" và dẫu cho nghèo
đi nữa " khéo ăn
thì no, khéo co thì ấm" . Không nên
ham ăn quá độ vì " no
mất ngon, giận mất khôn" . Ra làm ăn
phải quyết tâm đừng " cà lơ
xích xụi" chạy theo " ăn
có" người khác. Phải biết " ăn chịu" với người
làm việc nghiêm túc thì công việc
khỏi bị " ăn trớt" . Không nên " ăn gian, ăn lận" hay bỏ lỡ
cơ hội thì " ăn năn" cũng muộn.
Trong cuộc sống nên tìm việc làm hữu
ích cho gia đình, cho xã hội, cho đất
nước đừng để mang tiếng " ăn hại" " ăn
bám" người khác. Khi đàn chơi phải
biết lên dây đàn cho " ăn" với
giọng ca, hòa đàn cũng phải "
ăn" với nhau, " ăn ý" , " ăn
rơ" thì mới hay. Các bạn thấy chăng ? Cái " ăn"
cũng khá quan trọng nên mới lọt vào
một số từ ngữ của tiếng nói Việt
Tuy chúng ta không như người Trung Quốc
" dĩ thực vi tiên"
nhưng phải có ăn mới làm nên việc
vì có "thực mới vực được
đạo" TRẦN VĂN KHÊ * Trần văn Khê là cha của Nhạc
sĩ Trần Quang Hải, hiện sinh sống tại
Pháp quốc. (Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)
|
||||||||||||
|
|
|