TIẾNG VIỆT TRONG
SÁNG (tt) * SÁNG LẠN(G) hay XÁN
LẠN - HỎI From MienDu
Nguyen : Dear cả làng và thầy Lưu
Trung Khảo kính mến, Từ hồi nhỏ đi
học đến giờ MD chỉ có nhớ là viết
chữ sáng lạn (không G) = tươi sáng chứ không
thấy "xán lạn" ?? Không biết có vị nào
biết thêm về chữ này xin chỉ giúp cho. Thân kính Miên Du DL - ĐÁP From khao luu : Thưa bạn Miên Du, Các từ điển như
VNTĐ của hội Khai Trí, Tiến Đức, TĐVN
của Lê văn Đức, Hán Việt TĐ của Đào
duy Anh, Hán Việt TĐ của Thiều Chửu đều
ghi là XÁN LẠN và giải nghĩa từ ngữ này là : sáng
chói, chói lọi, rực rỡ, sáng sủa tốt
đẹp. Tự điển Lê Văn Đức cho thí
dụ : tương lai xán lạn. "Xán lạn" nguyên là một
từ ngữ Hán Việt và bởi nó có nghĩa là sáng chói
rực rỡ nên nhiều người lầm tưởng
là chữ "sáng" của chữ Việt thuần túy.
Dùng lâu thành quen, đến khi thấy chữ "xán
lạn" viết đúng lại tưởng là sai. Chúc bạn mạnh khoẻ và mong
bạn giải tỏa được thắc mắc này. Quư mến Lưu Trung Khảo * Chúng cư và Chung
cư, NHŨ DANH hay NHỮ DANH .. -From Dang Nguyen : Tôi khoái đề tài nầy, v́
học hỏi được nhiều ư kiến của quí
vị thức giả nặng t́nh với tiếng Việt,
nên tôi hay góp ư, mong quí vị đừng mắng là tôi
nhiều chuyện. Ông Nguyễn Hiến Lê lúc khởi
đầu viết văn cũng viết sai "sáng
lạn", nhưng sau có người, dường như
là cụ Lê Ngọc Trụ, chỉ ra phải viết
"xán lạn" mới đúng.
Từ đó cụ NHL viết sửa lại là xán
lạn. Đúng như g/s LTK giải thích,
những chữ Hán Việt có phát âm gần với tiếng
thuần Việt thường làm cho ḿnh dễ lầm
lộn, lấy tiếng thuần Việt thay tiếng Hán
Việt, như xán lạn/sáng lạn, độc giả/
đọc giả, chúng cư/ chung cư .. Đành rằng trong tiếng
Việt có rất nhiều từ kép có 1 tiếng Hán
Việt ghép với 1 tiếng thuần Việt (Nôm) như
học hỏi, sinh sống, lăo già .. Nhưng, theo tôi, nguyên
tắc Hán Việt ghép với Hán Việt, Nôm ghép với Nôm
để tạo từ mới, hoặc để giải
thích chính tả, vẫn nên được tôn trọng. Bây giờ kính mong quí vị
biện giải 2 từ ngữ "chúng cư" và
"chung cư" xem chữ nào đúng. Kính, Nguyễn Phước Đáng -From Nguyen Si Phu : Kính thưa quư vị, Kính thưa GS Lưu Trung Khảo và
Ông Nguyễn Phước Đáng: Cám ơn quư vị đă giải
nghĩa rơ ràng hai chữ xán lạn. Riêng hai chữ chúng
cư, theo ư riêng th́ là "chúng cư" chứ không
phải "chung cư". Chữ "Chúng" là từ Hán
Việt có nghĩa là nhiều người, sinh vật khác nhau. Thí dụ như "chúng
sinh", "quần chúng" .. Cư là chỗ ở. "Chúng
Cư" là chỗ ở của nhiều người (hay
nhiều gia đ́nh) nhưng không phải là ở chung (mà
mỗi gia đ́nh có một căn riêng trong ṭa nhà đó).
Chữ "Chung", là tiếng Việt, có nghĩa là cùng
nhau. Với nghĩa này th́ Hán Việt có chữ
"đồng"; như "đồng tâm hợp
lực", "đồng sàng dị mộng" .. Chữ "Chung", là tiếng
Hán Việt lại có nghĩa khác là cuối cùng; như
"chung cuộc" hay "tựu chung" (không phải
tựu trung). Như vậy, theo nguyên tắc
một danh từ ghép, nếu đă là Hán Việt th́ cả
hai chữ đều phải là Hán Việt. Do đó hai
chữ "chúng cư" mới đúng theo nghĩa mà
người ta muốn nói đến là một ṭa nhà có
nhiều gia đ́nh ở (nhưng không phải ở chung
như nghĩa "chung" của tiếng Việt). Vài ḍng xin góp ư cùng quư vị Kính, Nguyễn Sĩ Phu -From khao luu : Thưa Chư vị, Thưa ông NSPhu, 1/ Tôi tán thành điều ông
biện giải về chúng cư và chung cư. Chữ "chúng
cư" là chính xác. 2/ Chữ nhũ và chữ nhữ
của Hán tự không có một chút liên hệ nào và tự
dạng cũng hoàn toàn khác nhau. Do đó không thể có
sự lầm lẫn giữa "nhũ danh" và
"nhữ danh" để rồi từ đó thành ra
"nữ danh" được. Thành thật, Lưu Trung Khảo -From Nguyen Si Phu : Thưa Ông Nguyễn Phước
Đáng, GS Lưu Trung Khảo, Chị Hoa Hoàng Lan và Chị
Quản Mỹ Lan, Người viết xin không
đồng ư với quư vị về chữ NHŨ DANH, phải
viết là NHỮ DANH mới đúng với ư nghĩa là tên
người phụ nữ lúc c̣n là con gái. Xin tŕnh bày thêm như sau: Chữ NHỮ là một âm khác
của chữ NỮ. Việc này có thể chứng minh
được. Chúng ta có thể kiểm chứng
bằng cách xem lại các bản văn bằng chữ NHO,
thí dụ như mộ bia, sớ .. Chữ NỮ viết gần
giống như 2 dấu "<" và ">" đan
tréo vào nhau, c̣n chữ NHŨ là cái vú viết hoàn toàn khác. Trên mộ bia, sớ thường
viết là NỮ DANH (nhưng khi đọc lên là NHỮ
DANH). Sách hay tự điển cũng
do một người hay một nhóm người soạn ra
mà thôi, cũng có thể có sai lầm (thí dụ như
trường hợp tên của phu quân bà Trưng là Thi
chứ không phải là Thi Sách như phần nhiều sách sử đă ghi; xin
đọc bài biên khảo của GS Nguyễn Lư
Tưởng gần đây) Chúng ta cần sách nhưng cũng
cần có suy luận và tranh luận với nhau để
t́m ra sự thật nhằm làm sáng tỏ tiếng Việt. Kính, Nguyễn Sĩ Phu -From Dang Nguyen : Thưa ông Nguyễn Sĩ Phu, Tôi nghĩ, NHỮ danh là không
đúng. Phải là NHŨ danh mới đúng. Giải thích
như bà chị Hoa Hoàng Lan và ông Nguyễn Văn Trần và
vài vị khác là đúng rồi, tên hồi thuở c̣n bú vú
mẹ (Nhũ = vú = sữa). Điều c̣n lại là, tại
sao hầu hết chúng ta chỉ dùng từ nhũ danh cho
đàn bà mà không dùng cho đàn ông ? Theo tôi, 1) Chữ nhũ làm ta nghĩ
đến đàn bà con gái. Có câu "Nam tu, nữ nhũ",
trai th́ râu, gái th́ vú. Gặp chữ "nhũ" là chúng ta
dành cho phái nữ, nên gặp từ ngữ "nhũ danh"
th́ ta nghĩ ngay là chỉ dành cho phái nữ. 2) Từ trước tới nay,
khi cô gái đi lấy chồng, người ta thường
gọi theo tên chồng, quên đi tên thời con gái.
Chừng khi cần thiết nhắc lại tên thật,
người ta mới dùng đến chữ "nhũ
danh". Nói cách khác tên con gái có thay đổi tạm, mà tên
con trai thường không có thay đổi cho đến
chết. Thét rồi thành quen, đến mức xác
định là từ ngữ "nhũ danh" chỉ dùng
cho nữ giới mà thôi. Thực tế, người con
trai thường dân nếu có đổi tên th́ bỏ luôn
tên cũ, nên chưa bao giờ dùng nhũ danh để
nhắc lại tên lúc mới sanh của ḿnh. Ông Nguyễn Long Thao, trong quyển
Sơ Thảo Tính Danh Học Việt Nam (Thằng Mơ
xuất bản, 2003) có nói về nhũ danh cũng tương
tợ như những vị nêu trên. Kính, Nguyễn Phước Đáng -From My Lan Quan : Thưa ông Nguyễn Sĩ Phu,
Nguyễn Phước Đáng, Lưu Trung Khảo, chị
Hoa Hoàng Lan, và độc giả quan tâm đến tiếng
Việt, Trước hết xin
đồng ư với ông là Tự điển (Từ
Điển) cũng có khi sai, tôi đă nhiều lần t́m ra
cái sai của Tự Điển (nếu cần chúng ta
sẽ trở lại vấn đề này). Do đó nếu chúng ta hoàn toàn và
chỉ tin vào sách thôi th́ chính chúng ta cũng sẽ có lúc sai
như sách ! C̣n vấn đề chữ
NHŨ DANH, ông quả quyết là NHỮ DANH th́ quả thật
tôi chưa từng được biết hoặc nghe nói
đến và có lẽ các vị trên, kể cả tác
giả Việt Nam Tự Điển (quyển hạ , trang
1105, cột bên trái của Lê Văn Đức, Lê Ngọc
Trụ) cũng chưa biết ! Vậy, nếu có thể
được xin ông cho biết "nhữ danh"
được viết ở sách nào, do nhà xuất bản
nào vào năm nào, chúng tôi sẽ t́m hiểu và thưa lại
với độc giả để khỏi bị hoang
mang. Chúng tôi tin rằng một khi ông nhất định
bảo lưu ư kiến của ḿnh th́ chắc chắn ông
phải nắm rất rơ vấn đề. Trong khi chờ đợi, có
lẽ CHÚNG TA CHỈ CÓ THỂ ĐỒNG Ư RẰNG CHÚNG TA KHÔNG
ĐỒNG Ư với nhau trên danh từ này. Kính thư. Quản Mỹ Lan
|
|
|
|