BÔNG ĐIÊN ĐIỂN
(Hà Thúc Sinh)
Đi ngủ chớ,
honey?”
Ông Jim đứng
nơi cửa phòng ăn thông sang phòng
khách cất giọng lè nhè quen thuộc.
Không ngoái lại mà bà Tấm vẫn
hình dung ra ông một cách trọn vẹn, chả
riêng cái vóc dáng đã sồ sề
vì tuổi tác, mà bà còn như thấy
rõ cả những chân râu bạc cứng, những
chấm đồi mồi chạy từ má xuống tới
cần cổ nhăn đỏ như cổ gà
nòi của chồng. Dẫu ông có
đánh răng súc miệng kỹ mấy chăng
nữa, bà vẫn ngửi thấy nồng ngay sau
gáy mùi dưa chuột muối trộn mùi
rượu vodka, đôi khi còn lộn cả
mùi pepperoni và mùi xì gà. Nhưng
cái mùi lông chó mới làm bà
phát lợm. Bà không rõ lắm nguyên
do vì đâu vợ chồng bà đã sống
với nhau hai mươi lăm năm trời mà
mãi đến gần đây cái mùi trộn
lộn nồng nực ấy mới toả ra, và chỉ
nội việc muốn quên nó đi đã là
điều không dễ.
Bà hơi gắt:
“Bỏ ngay con
Nancy ra sau chuồng!”
“Mùa
Đông, tội nghiệp nó, honey.”
Bà Tấm
đập tay trên bàn:
“Thì
ôm nó mà ngủ!”
Bà tính
đứng lên lấy một ly sữa nhưng nghĩ
sao lại ngồi yên. Qua khung kính trên
vách đối diện bà có thể nhìn
thấu lũ kiến vô hình đang làm bứt
rứt lòng ông chồng già. Ông đứng
tần ngần, tay bế con Nancy ủ trong áo kimono - một
con chihuahua bé xíu xiu nhưng già nhất bầy
mười hai con của ông - tay kia xoa đầu
nó như người mẹ xoa đầu con trong
giây phút đứt ruột đứng nơi
ngưỡng cửa viện mồ côi. Bất
giác bà áy náy. Chồng bà
thương bầy chó như con, nhất là từ
về hưu đến nay. Con Nancy dễ đã mười
tuổi, răng rụng gần hết và đó
là nguyên do ông cho nó một tình
thương yêu đặc biệt so với những
con khác. Đêm hôm ông ôm nó lên
giường ngủ chung với vợ. Ông bảo
ông sợ nó chết trong cô đơn. Nếu
mình có với ông một bầy con, bà
nghĩ bụng, thì chắc bà đâu phải
ngủ chung với chó!
“Nó sẽ
nằm ngoài bìa giường, honey.”
Bà lạnh
lùng trước lời nằn nì nhỏ nhẹ
của chồng. Bà đứng lên mở tủ lạnh.
Bóng hình đứa cháu rể thô lậu,
nóng nảy lại lướt qua trí nhớ
bà. Bất giác bà đổ quạu. Tay
bà chộp hộp sữa, miệng bà gắt:
“Ông đi
ngủ trước đi! Ngủ trước đi!”
Ông Jim như
đã quá quen tính khí của vợ,
ông ôm con chó quay vào trong, lẩm bẩm:
“Nó sẽ
nằm ngoài bìa giường, honey.”
Bà Tấm cầm
ly sữa ra đứng nơi cửa sổ. Bà
nhìn ra bầu trời đêm lạnh ngắt
bên ngoài. Đèn sáng soi tỏ từng
thân liễu, từng ngọn đào, từng tảng
đá ngoài hòn non bộ, từng nấc thang
dẫn xuống chân đồi. Không xa lắm, ngay
dưới chân đồi kia thôi, cách một
con đường ngăn chia hai khu vực tư gia
và chung cư, bà có thể nhìn rõ một
dãy chung cư các cửa sổ còn sáng
đèn, trong có một căn mà dù
đôi lần nhắm mắt mở mắt, bà vẫn
không tránh được cảm giác ngọn
đèn trong đó có sáng hơn, ấm
hơn những căn cùng dãy rất nhiều.
Bà chợt buồn
làm sao. Bà đặt ly sữa trên bệ cửa,
chậm rãi bước tới tủ sách kéo
ra quyển tự vị khá lớn. (Thường những
đêm khuya buồn bà hay làm việc
này.) Bà đặt nó trên bàn, rồi
ngồi xuống, mở ra. Đó là một
đoá hoa ép thơm khô mà ngày
tháng đã nhuộm thành màu cánh
gián. Bà nhìn cánh hoa một lát
và thấy như mình mất trọng lực;
bà bốc bay lên, bay lên mãi cho đến
khi hiện tại chỉ còn là một màu trắng
mờ đục, mênh mông, vô phương
tì tựa.
Năm 65 bà Tấm
ra sư phạm Vĩnh Long, được bổ về dạy
tại trường nữ tiểu học Cần Thơ.
Thế là hạnh phúc. Nơi đây là
quê nhà. Sáng ra từ quận Bình Minh
bà cỡi xe đạp ra bến bắc Hậu Giang,
và chỉ nửa giờ sau đã ung dung đạp
xe trong lòng thị xã thân thương đến
với những đứa trẻ ngoan hiền. Với số
tiền lương khiêm tốn và ít vườn
tược hương hoả, bà có thể thay
cha mẹ mà vì bệnh tật đã quy
tiên quá sớm, nuôi hai em trai đang tuổi lớn
tiếp tục ăn học. Nhưng chiến tranh thì
tàn bạo. Nó làm nặng lịch sử
nhưng làm hao tán thân tâm con người.
Tai biến xảy ra trong một vụ cộng sản
đặt mìn - mà những người cộng sản
này chẳng ai khác hơn bà con cô
bác xa gần của bà - khiến hai em bà tử
thương.
Bà giận dữ
với chú với bác, với họ hàng theo
Mặt Trận, bán luôn thửa đất
hương hoả về sống với bà dì
trong căn nhà gần cầu Tham Tướng. Rồi
quân đội Mỹ tràn về Cần Thơ.
Tây thành mất dần nét đẹp mộc
mạc và vẻ buồn xưa của nó.
Quán rượu, phòng nhảy và những mặt
sa đoạ tất yếu mọc nhanh như những tảng
nấm trên một làn da nhiễm trùng.
Bà gặp ông Jim non hai năm sau đó.
Ông Jim lúc ấy là một thiếu tá cố
vấn trong Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận. Ông
không ở compound như các sĩ quan đồng sự.
Chắc là vì chức vụ liên lạc
thường xuyên với các nhóm Dân Sự
Vụ QLVNCH của ông? Ông ra thuê nhà ở
riêng, và nhà ông thuê không
đâu khác hơn một gian riêng biệt trong
căn nhà của bà dì.
Ông Jim là
người có đời sống nghiêm chỉnh,
ngăn nắp đến máy móc. Bà
đoán tính đó chắc là do ảnh
hưởng nhiều năm ông làm trong ngành
Tiếp Liệu. Ông lại tốt bụng. Ông rất
kính trọng khi biết gia đình bà là
nạn nhân của cộng sản, và bà
còn là một giáo chức yêu trẻ
đến gần ba mươi chưa lập gia
đình. Những buổi bà dẫn đám học
trò nhỏ theo đoàn hướng đạo
đi thám du, ông luôn gửi ké cho lũ trẻ
“chút quà.” Nhưng chút quà của
ông thì to lớn lắm nếu như bà
là một con buôn: Năm bảy thùng nước
ngọt, hàng trăm quả cam quả táo, những
gói kẹo chocolate. Tất cả đều thơm tho
như kết tụ hương hoa từ một thiên
đường Mỹ quốc mà ngay bà cũng chỉ
thấy nó trong giấc mộng.
Ông Jim tâm
sự ông là người lớn lên trong một
viện mồ côi ở miền cóng rét
Wisconsin. Ra đời người ta có nơi đi phải
có nơi về. Ông không có nơi về.
Đó là lý do ông đang lưỡng lự
quyết định xin phục vụ thêm một nhiệm
kỳ tại Việt Nam khi mãn hạn vào cuối
năm 67. Và bà chẳng nhớ rõ trong dịp
nào ông đã trân trọng kể bà
nghe thêm giấc mộng lớn nhất đời
ông: Ông muốn cưới bà làm vợ.
“Đi ngủ
chớ, honey.” Bà Tấm bàng hoàng nghe thoảng
một câu nói. Bà chới với không biết
mình đang ở đâu. “Nó sẽ nằm
ngoài bìa giường mà, honey.” Ai
nói vậy? Bà vẫn như chưa nhận ra thực
tại. Bà ngơ ngác nhớ mình có vung
tay vung chân chi đó. Rồi không gian lại
yên ắng lúc lâu. Bà chỉ còn thấy
quanh bà là một căn phòng trang trí sang
trọng, toàn những bàn ghế gụ cẩn
xà cừ, bộ tranh bát tiên sơn mài
đen bóng, bộ ngà voi đắt tiền, tủ
đựng kỷ vật của bao ngày tháng rong
chơi nhiều nơi trên thế giới. Nhưng bất
giác bà hiểu ra tất cả đều là
tĩnh vật. Chúng không thể là những
nhân chứng chia sẻ được với bà nỗi
cô đơn khép kín bao tháng ngày.
Bà mệt mỏi ngó quanh. Bà chỉ thấy
sau lưng có mỗi cái bóng của chính
mình; trong cái bóng này bà biết
rõ hơn ai hết có một mái tóc trắng
đã thắng xanh, có những chiếc răng
đã vĩnh biệt nụ cười, có
nét e ấp không bao giờ trở lại khoé
mắt, có quê hương còn đó
nhưng đã mất trong đời bà.
Bà Tấm vẫn
đăm đăm nhìn đoá hoa. Nó giống
một sinh vật vừa thức giấc. Nó lớn dần,
lớn dần rồi tan chảy biến mặt sách
thành một màu đất nâu; trên
màu đất ấy có lúc bà thấy
được bóng chiều chạng vạng, đom
đóm lập loè, nghe tiếng ếch nhái
khà ra không gian ngậy một mùi bùn.
Bà tưởng như mình biến thành một
bé gái năm xưa, chìm nghỉm trong
màu quê hương, tiếng quê hương,
mùi quê hương. Lại có lúc bà
thấy trên trang sách quậy mạnh. Bà kinh
ngạc nhận ra cái ao cá tra sau nhà. Rồi
bà bật cười một mình, cười
khanh khách, cười những cô gái Sài
Gòn cuống quýt ghé quán bên
đường, có đứa bé địa
phương lăng xăng lít xít nắm tay,
làm cái nghề không giống bất cứ nghề
nào khác trên đời: “Cô Hai ơi
theo em đi, theo em đi mà, tiểu cầu này sạch
lắm nè!” Nhưng chẳng có cầu
nào làm các cô gái thành thị
yên tâm. Cô mới ngồi xuống và ngay
khi những giọt đầu tiên trong lòng cô
thánh thót buông rơi, bầy cá
“đồ quỷ” đã vùng lên
tranh hùng mù mịt.
Bông hoa dẫn
bà đi tiếp con sông mùa nước nổi
tháng bảy tháng tám. Cả rừng bông
điên điển nở vàng au. Bà còn
nghe mặn mòi nơi miệng mùi mắm kho ăn
với bông súng, những đĩa tép
xào bông điên điển ngọt ngào,
những thân me keo gai góc có những trái
ngọt ngọt chát chát, những trái bần
chín nấu canh chua. Ôi chao những món ăn
thời niên thiếu! Rồi kìa, sao mà lắm
lục bình thế kia? Mùa nước rong muôn
nghìn con lạch tựa lòng cá đẻ trứng,
đùn lục bình như từ thiên thu cứ
bất tận trôi ra sông dài, nhập làm
một, nhuộm mặt sông mênh mông thành
một màu xanh ngắt, chở trên lưng những
đoá hoa tim tím, như bằng chứng tình
yêu từ nghìn con nước gửi về biển
mẹ. Trong màu xanh lam chân trời phủ trên
màu chuối nõn dòng sông ấy, dòng
lưu thuỷ giờ chỉ còn là sợi chỉ
mỏng ngoằn ngoèo. Bà có thể nghe thấy
văng vẳng từ những chiếc xuồng trôi
trên dòng lưu thuỷ tiếng tơ lòng con
người:
Ầu
ớ ơ ơ...
Con
cá đối nằm trên cối đá,
chim
đa đa đậu nhánh đa đa.
Chồng
gần không lấy lại lấy chồng xa,
một
mai cha yếu mẹ già,
ầu
ớ ơ ơ...
chén
cơm đôi đũa ờ ờ... bộ kỷ
trà ai dâng...
Tiếng đồng
hồ điểm khuya. Bà Tấm tỉnh mộng.
Bà khép quyển tự vị, khép thật nhẹ
như sợ đoá điên điển - chút
hồn nước duy nhất bà đem theo hai
mươi lăm năm trước lúc vượt nửa
trái đất theo chồng - mòn hao. Bà lại
ra cửa sổ đứng nhìn. Ly sữa còn lạnh
nhưng bà không uống. Bà ngó tiếp
vào khung cửa sổ sáng đèn bên
dãy chung cư dưới chân đồi. Căn
chung cư ấy giờ là nơi cư trú của
những giấc mộng đời bà không bao giờ
có được.
Mười
tháng trước bà đã đi đón
gia đình đứa cháu gái, xuýt
xoát tuổi bà, sang định cư tại Hoa Kỳ.
Cháu rể bà vốn là một trung sĩ
Địa Phương Quân bị cộng sản giam
tù trên năm năm, do đó hai vợ chồng
và bốn đứa con được sang Mỹ theo
diện H.O.. Bà đã được cháu
gái báo tin nhiều tháng trước. Bà
lo thuê nhà, lo mua sắm sẵn đủ thứ vật
dụng cho gia đình cháu; và bằng mọi
giá, bà bắt luôn ông chồng phải hiểu
rằng đối với bà “chúng là
quê hương!”
Thực ra mười
bảy năm qua bà đã tiếp cận khá
nhiều với người đồng hương sau tai
biến 30-4. Lâu lâu ông Jim chở bà từ
Pasadena về chơi Little Saigon. Bà đã ăn uống
qua nhiều hàng quán, đã hoà mình
trong đám đông những ngày chủ nhật
ấm áp đi dạo phố, đã theo dõi
những bước thăng trầm của cộng đồng
qua báo chí, nhưng sao lòng bà lạnh dần.
Dù không ai biết bà là ai mà sao vẫn
như có một lằn phấn vô hình vạch
ra giữa họ với bà. Bà đi bên một
ông chồng Mỹ già? Bà không tin điều
đó lắm đâu. Hà cớ người
qua đường vội vã thế kia phải dừng
lại xem xét để biết bà là một
phụ nữ đồng hương lấy Mỹ? Họ
vẫn có thể lầm tưởng bà là một
người Tàu, người Nhật hay Đại
Hàn. Bà càng không tin họ có
thiên kiến, vì khi bà có đi một
mình chăng nữa, về tới nhà, chính
bà vẫn thấy lằn phấn ấy chập chờn
trong giấc ngủ. Bà Tấm buồn khi ngờ
người đồng hương không có thứ
chân tình cố xứ với nhau như bà hằng
tưởng!
Nhưng máu mủ
chắc là phải khác. Mà khác thật.
Gia đình Lang - cháu bà - đã ngẩn hết
ra khi bà bật khóc um sùm tại ngay phi
trường. Lang vừa đặt vội cái giỏ
xuống đất, giơ hai tay nói lớn
“Dì Hai ơi” là bà đã rống
lên khóc trước nụ cười thông cảm
của ông Jim. Bà nghe như máu cháu chảy
nóng qua thân bà, và ngược lại.
Những ngày
qua bà tin bà đã làm cho gia đình
cháu tất cả những gì bà có thể
làm. Bà chở cả nhà đi mua sắm. Lực
- cháu rể bà - có đủ đồ lớn
đồ nhỏ; Lang có cà rá nhận hột
xoàn năm ly, có vòng cẩm thạch; sắp
nhỏ con gái đứa nào cũng tòn ten
nơi cổ dây chuyền vàng, con trai đồng
hồ đeo tay. Bà cho chúng thêm tiền sau khi
kiếm ra việc làm cho đứa lớn, lo chuyện
học hành cho những đứa bé. Ban đầu
ngày nào bà cũng kéo chồng qua ăn
cơm với gia đình cháu gái. Bà muốn
hít thở đầy lồng ngực bầu không
khí thân thương có con có cháu nhiều
nhiêu tốt nhiêu. Bà xem đó như chất
xúc tác mạnh nhất cho bà khơi trào
ra những tiếng khóc nụ cười mà
đời tha hương đã giam hãm chúng
quá nhiều năm. Bà khóc muốn ra máu
mắt khi Thắng - đứa cháu lớn - kể:
- “Ông cả
Hương giờ nghèo mạt rệp bà Hai
ơi. Ổng đạp xe đạp ôm nuôi
mình ên mà hổng nổi. Lâu lâu ổng
phục kích con ngoài cầu bắc á, xin mấy
ngàn, biểu là mua thuốc ho lao.”
- “Í trời,
ổng lao hả? Mắc cái bịnh chi ác ôn
quá vậy!”
- “Ổng lao
cái bụng á. Ổng đói đó
bà Hai. Ổng ốm nhách như con cò
ma.”
Bà nhớ lại
dáng dấp phốp pháp, phong lưu của
ông cả Hương - anh con bác con chú với
ông thân sinh ra bà nhưng nhỏ tuổi hơn
nhiều. Ông là người có ruộng
cò bay thẳng cánh, có xe hơi tắc-xông
chạy re re ngoài thị xã ngày bà mới
lên mười mười hai chi đó. Những
ngày giỗ kỵ thôi thì ông đãi
mịt mù, đủ ba ngày đêm,
đôi ba trăm thực khách nội ngoại
có dư. Tết nhất ông là người
lì xì cho chị em bà bảnh hơn ai hết.
Bất giác bà thất kinh. Dám chừng
ông cả năm nay ngoài bảy mươi chứ
ít gì. Rồi bà khóc rưng rức khi
liên tưởng hình ảnh một ông
lão bảy mươi gù lưng đạp xe
đạp ôm leo con dốc cầu Tham Tướng.
Bà hỏi
cháu gái:
- “Vậy
mày có hay dzìa Sóc Trăng thăm nhà
ông Ba Cự hôn?”
- “Lâu
lâu thôi dì.”
- “Ổng
còn nuôi bò chớ?”
- “Mèng
ơi nuôi ổng không xong ở đó nuôi
bò.”
- “Vậy bầy
bò của ổng?”
- “Nhà
nước bắt vô hợp tác xã. Cách
mạng mà dì Hai. Cái gì của tao
là của tao, cái gì của mày là của
tập thể!”
Bà hình
dung ra gia đình ông Ba Cự. Ông giàu lắm.
Ông có nhiều bò nuôi cả ở miệt
Châu Đốc lẫn Sóc Trăng. Thời trước
Mậu Thân ông có phần hùn với
chà-và Ly nuôi bò nơi cầu Cả
Đài, Cần Thơ. Tiền không là tiền
chứ hèn gì. Bà còn nhớ thằng
Ách con ông đi theo Mặt Trận. Bà ngờ
thằng Ách có dính líu trong vụ đắp
mô ở Bình Minh thời đó. Gia
đình ông Ba Cự có họ xa bên
má bà, nhưng hôm đưa đám hai thằng
em, ông lên dự, bà đang cơn đau đớn
chửi xéo chửi xiên Mặt Trận thì
ông ấy can: “Bay ăn nói bộp chộp mang
tội với người yêu nước đó
nha!” Thế là bà nổi cơn điên.
Bà la làng la nước tố cả nhà
ông theo Việt cộng. Ông sợ xanh máu mặt
dù mấy chú Dân Vệ đến tiếp ma
chay ngồi yên. Toàn dây mơ rễ má.
Nhưng ông Ba Cự vẫn sợ. Ông đặt mấy
chục ngàn trên bộ ngựa, nói là tiếp
bà vụ ma chay, rồi không chờ đưa
đám ông chạy tuốt về Sóc Trăng.
Bà đã cầm mấy chục ngàn của
ông ném tưới ra sau vườn.
- “Giờ ổng
được cách mạng phong chi há?”
- “Phong khỉ
khô gì. Bả tức hộc máu mà chết
tốt đó dì Hai. Thằng Ách thằng Kinh
sau đóng sĩ quan cách mạng, đi Campuchea cũng
chết ráo. Còn thằng Út ngồi tù
đâu một thời gian.”
- “Sao ngồi
tù?”
- “Thì
nó tổ chức đường dây ăn cắp
thịt bò hợp tác xã.”
- “Sao báo
nói ở bển giờ không có thịt
bò?”
- “Bởi vậy
mới ăn cắp!”
- “Làm sao
ăn cắp?”
- “Tụi
nó giỏi lắm dì Hai ơi. Đêm hôm
mấy đứa đem theo mớ lon sữa bò nung
nóng, lén vô chuồng, gắn tưới
trên đùi trên lưng lũ súc vật khốn
nạn. Bò hợp tác xã mà dì Hai.
Có rống quỷ thần cũng hổng thèm
nghe. Rống riết rồi hết rống. Lát sau lũ
chúng trở lại với mấy con dao. Xoẹt một
cái, chúng phóng chạy vào bóng
đêm đem theo mấy cái lon chứa biết
nhiêu thịt mà kể.”
Bà trợn dọc
con mắt nghe cháu kể chuyện quê nhà.
Ông Jim ngồi đực ra. Bà dịch sơ
sơ cho chồng nghe, và đôi mắt ông kinh
hoàng đến chết ngắt như mắt cá
linh mắc cạn.
Bà tò
mò:
- “Nhưng sao
thằng Út nó bị bắt?”
- “Thì
lâu dần cả bầy bò rách như tổ
đỉa, mình mẩy sẹo tùm lum tà la,
đảng có mù đảng cũng thấy chớ!”
Chuyện người
cháu rể kể còn làm bà mủi
lòng hơn:
- “Dì xa
quê hương lâu quá không biết là
phải, chớ tui chậm chơn chút nữa dám
sắp nhỏ nhà này con trai cũng đi ăn
cướp mà con gái cũng đi làm đĩ
ráo trọi. Trời đất thiên địa
ơi, nước non chi mà dưới sông dưới
biển mất cá mất tôm nhiêu thì
trên đất sanh thêm trộm cướp đĩ
điếm bấy nhiêu!”
- “Rồi bay
làm chi sống?”
- “Tui làm
chi sống hả dì Hai? Đủ, đủ nghề,
chỉ chưa đi ăn cướp thôi dì.
Mà già rồi sức đâu ăn cướp!”
Vợ Lực chen
vào:
- “Ảnh uống
rượu thần sầu đó dì. Làm
nhiêu nhậu nhiêu hà.”
Bà Tấm
cười đỡ hộ cháu rể:
- “Chớ bộ
tía mày hồi nẳm hiền dữ ạ.
Không có ổng tao sợ mấy lò rượu
nếp trong Cái Tắc, Tầm Vu, Rạch Gòi chết
sắp lượt dám từ thời ông Bảo
Đại còn ỉa cứt su!”
Những câu
chuyện xoay qua xoay lại chỉ có thế mà
sao bà Tấm muốn nghe tới nghe lui hoài.
Có điều ít lâu sau ông Jim không chịu
qua chơi thường nữa. Ông ái ngại
trước sự ăn ở bầy hầy của lũ
con cháu bà. Nhưng bà thì ngược lại.
Bà thấy sự bầy hầy này lại gần
gũi với bà hơn là sự ngăn nắp sạch
sẽ giống cái bệnh viện của ông chồng
mấy chục năm qua.
Có lần
ông Jim thầm thì nhận xét:
- “Sao ông Lực
ổng nóng quá trời. Ổng la ong ỏng. Ổng
không sợ ai trong nhà. Tui ngại lũ nhỏ
thường bị bạo hành!”
Thế là
bà Tấm nổi xung thiên. Bà mắng chồng
như mưa rào tháng Năm:
- “Ông im
đi, không biết gì thì im đi. Con nít
Mỹ mất dạy vì không biết sợ cha
kính mẹ.”
Bà tính
nói nhiều hơn nhưng thấy mặt chồng nghệt
ra lại thôi. Bà bỏ ra sau nhà ngồi buồn
ủ rũ. Đứa cháu rể bà nhắc
bà nhớ đến cha chú quá trời. Họ
là những người đàn ông lý
tưởng của bà. Họ là những
Lương Sơn Bạc, những Đơn Hùng
Tín của bà. Lực hắn thô như gốc
cặc bần, ăn nói như nem chua Cái Răng,
trợn trạo như nghẹn mít Tố Nữ,
nhưng tâm hồn hắn là đất tân bồi,
là con lạch, là bờ sông, Lang nó
bám trên đó mà hoài hoài
tươi rói như bông điên điển.
Nghe hắn hét một tiếng vợ con run như cầy
sấy. Bà thích lắm và thèm làm
sao mình lại được là một đứa
trong sắp nhỏ kia. Chúng đang len lén kéo
nhau ra sau bếp chờ ông già ông ấy hả
cơn giận. Còn ông Jim là đứa trẻ
con, nhỏng nhẻo, thụ động. Trong gia
đình ông cam phận làm đồi mà
không bao giờ dám nghĩ mình cần làm
núi. Có lúc bà thoáng ý nghĩ tội
lỗi không rõ mình có thật
thương và kính trọng ông không,
nhưng bà biết chắc bà buồn; buồn
vì trong đời sống cả hai xem ra đã
đóng lộn vai trò của nhau, mà chiều
dài thời gian trên sân khấu thì
đã quá dài, không thay đổi
được nữa, không bao giờ thay đổi
được nữa!
Chuông đồng
hồ điểm thêm một lần. Ngọn
đèn cuối bên khu chung cư đã tắt.
Bà cố hình dung lại bóng quê
hương lần nữa, nhưng lần này bà
chỉ thấy hình ảnh cháu gái bà
đang cuộn mình nhẹ nằm xuống bên chồng
- một đoá điên điển còn đủ
mặn mòi gối trên một gốc cặc bần
vững chắc. Bà ngửi thấy mùi tanh
ngát, mênh mang; và ngửi thấy cả
mùi thơm buồn đoá điên điển
khô úa là bà.
Bà Tấm
thò tay tắt đèn cái tách, nghe
đâu đó trong bóng tối lời ỉ
ôi kiên nhẫn: “Đi ngủ chớ,
honey?” Tất cả hương vị xa xưa thốt
bay biến. Bà bước vào phòng ngủ tối
đen. Lồng ngực bà căng ra, tưởng
như cam phận chờ đón cái mùi quen
thuộc của rượu vodka, của thuốc xì
gà, của pepperoni, của dưa chuột muối
và của cả con Nancy đã rụng nhiều
răng.
HÀ THÚC SINH
Alhambra
Tết Quý Dậu 93
(Đỗ Thị Minh Giang
sưu tầm và chuyển)