MỘT NGƯỜI TÙ
(Người Buôn Gió)
Từ nhỏ
mình đã bị "ấn tượng" về
những người bị bắt tù , mình
luôn say sưa đọc về những chiến sĩ
cách mạng bị giam ở Hỏa Lò, Sơn La,
Côn Đảo, những vị anh hùng như
Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú
… đến Hồ Chí Minh. Thật ra hồi
mình bé thời bao cấp chỉ có sách
về các nhân vật này thôi. Lớn
chút mới đọc được Pa-Pi-Lon,
thiên hạ say mê anh chàng Bướm lắm, nhưng
mình cũng chả thấy có gì hâm mộ
anh chàng này, bá tước Monte của Đuy
Ma cũng không ấn tượng lắm vì
có lẽ thời kỳ của các nhân vật
này khá xa lạ với Việt Nam. Sau này
có điều kiện mới lùng được
sách của Solzenitsyn như cuốn Tầng Đầu
Địa Ngục, Một Ngày Trong Đời của
I Van , hay cuốn Lửa Yêu Thương, Lửa Ngục
Tù của Re Mac, cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của
Bùi Ngọc Tấn. Mỗi nhật vật đều
để lại cho mình những ám ảnh, những
ấn tượng. Nhưng có lẽ đoạn văn của Phùng Quán viết lại theo lời kể của Tuân Nguyễn khi Nguyễn ở trong
tù là ám ảnh hơn cả !
Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả: trong
mười năm qua, mình đã sống giữa
những con người vô cùng phong phú
và phức tạp, chất liệu sống vàng
ròng cho các nhà văn. Mình chỉ
đơn cử với cậu một người …
****
“… Anh ta
vào trại trước mình khá lâu, bị
trừng phạt vì tội gì, mình không
rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội
hình sự, người lại bảo mắc tội
chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều
thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của
kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng
không có phong độ của người làm
chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại
dở khùng. Mình có cảm giác anh ta
là một khúc củi rều, do một trận lũ
cuốn từ một xó rừng nào về,
trôi ngang qua trại, bị vướng vào
hàng rào của trại rồi mắc kẹt
luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó
đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng
có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy
choắt, rúm ró, tàn tạ, như một
cái bị cói rách, lăn lóc ở
các đống rác. Người anh ta cao lòng
khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn,
đen cháy, chỉ toàn da, gân với
xương.
Trên người,
tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần
áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh
ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy
anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch
mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người
quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả
cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh
ta đều cúi chào cung kính, nhưng
không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng
không hiểu sao, ở con người anh ta có một
cái gì đó làm mình đặc biệt
chú ý, cứ muốn làm quen … Nhiều lần
mình định bắt chuyện, nhưng anh ta
nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi
lảng tránh sau khi đã cúi chào cung
kính. Hầu như tất cả các trại
viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng
đều thương anh ta. Những trại viên
được gia đình tiếp tế người
để dành cho anh ta viên kẹo, miếng
bánh, người cho điếu thuốc. Ở trại,
anh ta có một đặc quyền không ai tranh
được, và cũng không ai muốn tranh.
Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi
lần có tù chết, giám thị trại
đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ
đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm.
Với bất cứ trại viên chết nào, kể
cả những trại viên đã từng
đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm
chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước
lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ
cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt
cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ
tắm rửa cho đứa con nhỏ. Lúc tắm rửa,
kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói
cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta
rút trong túi áo một mẩu lược
gãy, chải tóc cho người chết, nếu
người chết có tóc. Anh ta chọn bộ
áo quần lành lặn nhất của người
tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng
xác đặt vào áo quan được
đóng bằng gỗ tạp sơ sài. Anh ta cuộn
những bộ áo quần khác thành cái
gói vuông vắn, đặt làm gối cho
người chết. Nếu người tù không
có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một
khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất
những việc trên, anh ta quỳ xuống bên
áo quan, cúi hôn lên trán người
tù chết, và bật khóc. Anh ta khóc
đau đớn và thống thiết đến nỗi
mọi người đều có cảm giác
người nằm trong áo quan là anh em máu mủ
ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người
tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một
lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù
chết ấy là cái gì với mày
mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chắp tay
khúm núm:
- Thưa cán bộ,
tôi khóc vờ ấy mà. Người chết
mà không có tiếng khóc tống tiễn
thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại.
Có thể nó tìm cách làm hại
cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ
có thể trừng trị hắn, nhưng đây
là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích
cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng
nói có lý. Giám thị trại mặc, cho
nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc.
Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ.
Lúc khóc, cả gương mặt vàng
úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước
mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh
ta run rẩy. Mình có cảm giác cả
cái mớ giẻ rách khoác trên người
anh ta cũng khóc … Trong tiếng khóc và
nước mắt của anh ta chan chứa một niềm
thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả
những trại viên khét tiếng lỳ lợm,
chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt
bù loong" cũng phải rơm rớm nước. Chỉ
có nỗi
đau đớn
chân thật mới có khả
năng xuyên thẳng
vào trái tim người. Mình thường nghĩ
ngợi rất nhiều về anh ta. Con người
này là ai vậy? Một thằng khùng hay
người có mối từ tâm lớn lao của
bậc đại hiền? … Thế rồi, một lần,
mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống
con sông gần trại cho đầm nước. Trời
nóng như dội lửa. Bãi sông đầy
cát và sỏi bị nóng rang bỏng như
than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một
cây mủng già gốc sần sùi tán
lá xác xơ trải một mảng bóng râm
bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát
và sỏi. Người lính gác ngồi
trên bờ sông dốc đứng, ôm súng
trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta
và mình phải ngồi trú nắng dưới
gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn
dưới sông. Vì mảng bóng râm
quá hẹp nên hai người gần sát
lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi
mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân
này - không rõ anh ta biết tên mình
lúc nào - sống ở đây anh thèm
cái gì nhất?
- Thèm
được đọc sách - mình buột miệng
trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta
chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có
thể anh ta cũng không biết đọc biết viết
cũng nên.
- Nếu bây giờ
có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một
lần nữa mình lại buột miệng. Và lại
nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng
chẳng khác gì nói với gốc cây mủng
mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu
cầu được chuyện trò bộc bạch với
con người nó cũng lớn như nhu cầu
được ăn, được uống … Nhiều
lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu
mình hay không. Đó chính là tâm trạng
của anh công chức nát rượu Marmeladov bất
chợt nói to lên những điều tủi hổ
nung nấu trong lòng với những người vớ
vẩn trong một quán rượu tồi tàn,
mà Dostoievsky miêu tả trong Tội ác và
trừng phạt. Anh ta ngồi bó gối, mắt
không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các
tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất
tác phẩm nào?
Mình sửng sốt
nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy
ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người
nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh
ta … Mình lại liên tưởng đến một
cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở
Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học
hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin
(Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời
anh ta:
- Tôi thích
nhất là Candide.
- Anh có
thích đọc Candide ngay bây giờ không ?
Không đợi
mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải
đọc, mà nghe … Tôi sẽ đọc cho
anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất
giọng đều đều đọc nguyên bản
Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn
và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy
dạy mình ở trường Providence. Mình
trân trân nhìn cái miệng rúm ró,
răng vàng khè đầy bựa của anh ta
như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn
không rời dòng sông loá nắng, tưởng
chừng như anh ta đang đọc thiên truyện
Candide nguyên bản được chép lên mặt
sông …
Anh đọc
đến câu cuối cùng thì kẻng ở
trại cũng vang lên từng hồi, báo đến
giờ lùa trâu về trại. Người
lính gác trên bờ cao nói vọng xuống:
“Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh
lên!”.
- Chúng
mình lùa trâu lên bờ đi! – anh
nói.
Lội ra đến
giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi
lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những
con trâu khác, trả lời:
- Tôi là
cái thanh ngang trên cây thập tự
đóng đinh Chúa. Rồi anh ta tiếp:
- Đừng
nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi
…
Giáp mặt
người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi
hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường
ngày. Cuối mùa đông năm đó, anh
ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo
nhau mình mới biết.
- Thằng
chuyên gia khâm liệm e đi tong. Thế là nếu
bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được
khâm liệm tử tế và chẳng có ai
khóc tống tiễn vong hồn … - những người
tù nói, giọng buồn.
Mình gặp
giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia
anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ,
không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với
nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị
đồng ý cho mình đến thăm, có
lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian
lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm
như dán người xuống sạp nằm, hai hốc
mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc
lại lên cơn co giật …
Mình cúi
xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh
ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình.
Trên khoé môi rúm ró như thoáng một
nét cười. Nước mắt mình tự
nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt
anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước
mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều
thào nói:
- Tuân ở lại,
mình đi đây … Đưa bàn tay
đây cho mình …
Anh ta nắm chặt
bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rầm
mớ giẻ rách khoác trên người, lấy
ra một viên than củi, được mài
tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một
sức cố gắng phi thường, anh ta dùng
viên than viết vào lòng bàn tay mình một
chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta
hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt
viên than, và lên cơn co giật.
Người
lính canh dẫn mình lên giám thị trại
với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa
ra. Người lính canh ngờ rằng đó
là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình
nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh
mà không thành khẩn khai báo, tôi tống
cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
- Thưa cán bộ,
thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ
nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo
bùa để xua đuổi bệnh tật và
tà khí.
Nghe ra cũng
có lý, giám thị trại tha cho mình về
lán …
Trong số bao
nhiêu nhân vật tù đã được
nổi tiếng nhờ tiểu thuyết hóa, người
bạn tù của Tuân Nguyễn chỉ là hạt
bụi bay qua so với những tác phẩm đồ
sộ để đời ấy, mấy ai biết đến
nhà thơ Tuân Nguyễn và mấy ai biết
hơn về người bạn tù bí ẩn của
ông. Người ta "ấn tượng"
cách ông già của Solzennitsyn đầu rụng
hết tóc, nhai bánh mỳ bằng lợi hay
già Đô của Bùi Ngọc Tấn chết vất
vưởng đâu đó trên phố phường
Hà Nội khi mãn hạn tù .. mình cũng
ấn tượng những nhân vật ấy.
Nhưng hình ảnh
người tù xấu xí, nghèo khổ đọc
nguyên bản Candide bằng tiếng Pháp khiến
mình luôn bị ám ảnh trong đầu,
Tuân Nguyễn cả Phùng Quán đều về
thiên thu, giá như các cụ ấy còn sống
mình cũng cất công đi tìm hỏi
người mà các cụ nói ấy là
ai.
Tình cờ
hôm nọ được cho tập hồi ký của
Đức Cha Phao Lô Lê Đắc Trọng mới
láng máng biết rằng đó là cha Chính Vinh của
nhà thờ lớn Hà Nội, vì can tội
không cho chính quyền trang trí trước cửa
nhà thờ, cha Chính Vinh bị kết án 3
năm tù, nhưng đi tù mãi chả thấy
về , tăm hơi biệt tích, hơn 40 năm sau
nhờ bạn tù chỉ dẫn, người thân
mới biết nơi cha Chinh Vinh chết để chuyển
thi hài ngài về.
Sau này cất
công đi hỏi một vài vị cao tuổi nữa,
mới càng khẳng định chính xác
là Cha Chính Vinh. Đúng như lời Tuân
Nguyễn nói, đây là chất liệu
vàng ròng cho các nhà văn. Tuân Nguyễn
thì mất rồi, liệu ai tiếp nối ước
nguyện của ông để khai thác những chất
liệu quý báu như thế này không.
Người Buôn Gió
-
là bút hiệu của Bùi Thanh Hiếu,
người không công giáo -
PHỤ LỤC về Linh mục Gioan Lasan Nguyễn
Văn Vinh
Cha Gioan Lasan Nguyễn
Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm
1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục,
tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một
thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu
nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca
hát. Cậu biết kính trên, nhường
dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý
yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là
Cố Hương, một cha người Pháp tên
là Dépaulis giới thiệu cậu lên học
tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu
học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên,
Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy
Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp
du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng
viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được
thụ phong linh mục ở Limoges.
Chiến tranh thế
giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp
và tiếp tục học tập. Ngài học
Văn Khoa-Triết tại Đại Học Sorbone, học
sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện
Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa
làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ
thương của ngài đã làm cho nhiều
người Pháp tưởng lầm ngài là
phụ nữ nên cứ chào: Bonjour Madame! Nhưng ẩn
trong cái dáng vóc nhỏ bé đó
là một tâm hồn rộng lớn, sau
đôi mắt sáng là tính cương trực,
dưới nụ cười là ý chí sắt
son.
Sau khi tốt nghiệp
cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập
dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện
Ste Marie.
Sau 17 năm du học,
năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức
xây dựng một Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức
cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo phận
đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ
Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề
trên lập dòng Biển Đức ở Việt
Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học
ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu
nước, độc lập, không nệ Pháp.
Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức
lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de
Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu
căng đòi đặt ghế của ông
trên cung thánh và bắt chuyển ghế của
Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống
dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự
trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh
cương quyết không chịu. Tướng De Lattre
rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập
bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng
đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết
không nhượng bộ, nhưng Thủ tướng
ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ
đó, để tránh căng thẳng, Đức
Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo
sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ
trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết
học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài
cũng giảng dạy Văn Triết ở trường
Chu Văn An.
Năm 1954, Đức
cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha
Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai
đều xin ở lại sống chết với
giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh
đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha
Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính,
kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức
lớp học giáo lý cho các giới, có
những linh mục trẻ thông minh, đạo đức
cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha
Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc
đầu, lớp học được tổ chức
thành nhóm nhỏ tại phòng khách
Tòa Giám Mục, về sau, con số người
tham dự tăng dần, lớp học được
chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả
ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn,
những tín hữu khô khan thành đạo
đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới
cả giới sinh viên và giáo sư đại
học, nhiều người gia nhập đạo. Sau
chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động
vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang
làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ
ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay
vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học.
Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng
không tháo bỏ Thánh giá, nên năm
1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ,
Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo
sư, nên đã đề nghị Đức Cha
Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La
tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một
hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến
thăm trường, thấy bóng dáng chiếc
áo chùng thâm linh mục, ông nói với
đoàn tháp tùng. Ít lâu sau trường
Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài
năng và kiến thức âm nhạc của
ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội
tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem
lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
Cha Vinh, một
trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc
Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn
tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm
thật tuyệt, ngài kể chính ngài là
người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm
ở Hà Nội. Ngài có năng khiếu đặc
biệt về âm nhạc, lại được học
tập chu đáo nên đã sáng tác
và để lại nhiều nhạc phẩm tôn
giáo tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp
tấu ‘Ở Dưới Vực Sâu’ nhân
cuộc đón tiếp phái đoàn Việt
Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự
Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Cộng tác với
Hùng Lân sáng tác ‘Tôn Giáo Nhạc
Kịch Đa-Vít’. Ngài còn sáng
tác nhiều nhạc phẩm lớn: ‘Mở
Đường Phúc Thật’, ‘Tôn Vinh
Thiên Chúa Ba Ngôi’, ‘Ôi GiaVi’,
‘Lạy Mừng Thánh Tử Đạo’.
Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh
16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều
bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm,
Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những
bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ
nhạc bài ‘Bước Tới Đèo
Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần
ngài đến dạy nhạc, xướng âm
và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh
có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát,
lôi cuốn.
Ngài tổ chức
và chỉ huy đồng ca trong nhiều cuộc lễ
và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh
Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thở Lớn
Hà Nội.
Năm 1957, Nhà
nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước
và thế giới thấy là ở Việt Nam
Đạo Công giáo tự do hành đạo,
và tổ chức được những lễ nghi
long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính
quyền tự động cho người đến
chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn,
sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà
Nội phải thanh toán một số tiền chi
phí lớn về vật liệu và tiền
công. Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ
Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số
người của Nhà nước ngang nhiên
đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự
động bắc thang, chăng dây treo bóng điện
màu trang trí ở mặt tiền và trên
hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời
đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ
chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên
cơ sở tôn giáo, không đồng ý,
nhưng họ cứ làm. Để phản đối,
cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp
báo, giáo dân kéo đến quảng
trường nhà thờ rất đông ủng hộ
cha xứ, hai bên to tiếng. Cha Căn gọi Cha Vinh ra
can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết
quả, cha Vinh kéo những người của
Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống,
rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa
cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai
cườm tay đặt cho nhau, làm dấu hiệu
còng tay số 8, và nói lớn: “Tự do
thế này!” Vụ giằng co lộn xộn
kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc
trang trí không thành.
Cha Căn, cha Vinh
cùng một số giáo dân bị cơ quan an
ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa
án nhân dân Hà Nội tuyên án: Cha
Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn,
người chịu trách nhiệm tổ chức lễ
Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo. Cha
Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng
tù giam, với tội danh: “Vô
cớ tập hợp quần chúng trái phép,
phá rối trị an, cố tình vu khống,
xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong
nhân dân” (!).
Sau phiên
tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa
Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam
khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối
cùng là trại “Cổng Trời”, nơi
dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới
đến trại Yên Bái, ngài còn
được ở chung với các tù nhân
khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ
đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị
kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân
trong xà lim tối. Mấy tháng sau được
ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ
hỏi: “Tại sao bị
cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp
tục phạm quy?” Ngài đáp: “Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”.
Ở tù
đói rét là đương nhiên,
lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi
bữa một bát sắn độn cơm, ăn với
lá bắp cải già nấu muối, khi chia
cơm phải cân đong từng chút một
… Một lần cha Vinh nhận được gói
bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà
Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có
ít thức ăn, lương khô và vài
đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ
cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn
lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù
hình sự thân thương gọi ngài
là ‘bố’.
Ngay trong nhà
tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người
bị áp bức, có lần một tổ trưởng
đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng
bênh vực, liền bị người tổ trưởng
này xông đến giang tay đánh, ngài
đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ
đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh
giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ
cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp
cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn
anh được tha về, nhưng với điều kiện
phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế
Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công
Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về
Hà Nội ngay bây giờ với tôi”.
Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của
ông Vịnh. Tôi có đường lối của
tôi”.
Vì không
khuất phục được ngài, nên bản
án của ngài từ 18 tháng tù giam,
không qua một thủ tục pháp lý án lệnh
nào, đã biến thành 12 năm tù
kiên giam, xà lim biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được
biết, một năm sau, chính quyền mới
báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản
lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết.
Không được làm lễ áo đỏ
cho ông Vinh!”.
Suốt đời
mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh
làm trọn trách vụ của mình. Ngài
đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và
làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng
như khó khăn. Vượt mọi thử thách
gian khó, không chịu khuất phục trước
cường quyền, luôn trung kiên với Thiên
Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan
Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của
thời đại, một linh mục Công Giáo Việt
Nam can trường, hậu thế kính tôn và
ghi ân ngài.
Tổng Giáo Phận Hà Nội
(Oanh Pham sưu tầm, Johnnam
Huynh & LL chuyển)