CHÓ và NGƯỜI giữa Hà Nội
Thưa Quý bằng hữu
và Quý đồng môn QGHC,
Tâm Thanh là đồng
môn và đồng nghiệp lâu năm của
tôi tại Việt Nam,mới đây ra tập truyện
thứ 3. Tôi đã đọc các tập
trước ("Thiên nga giữa cõi người"
và "Gỗ thức trên rừng"). Hai tập
này và các tuyện khác đăng
trên báo Văn,Văn Học,Thế Kỷ 21
đã nhận được nhiều phản ứng
tích cực trong giới cầm bút hải ngoại.
Nhưng theo tôi,tập truyện này vượt
sang một khuôn khổ mới. Tuy nhiều truyện lấy
chất liệu từ xã hội độc
đáo Na-Uy, nơi tác giả cư ngụ từ
30 năm nay,và một phần Việt Nam, Pháp,
tôi nhận thấy tác giả đề cập tới
những băn khoăn lớn nhỏ trong đời sống
mọi người chúng ta, nhất là số phận
con người và đất nước Việt Nam.
Vì thích truyện của
Tâm Thanh nên tôi nhận lãnh phần quảng
cáo đến các bằng hữu và các
đồng môn QGHC tại Mỹ (nơi tác giả
nhờ tôi in sách) cũng như tại hải ngoại.
Xin mời Quý bằng hữu
và Quý đồng môn thưởng thức
truyện "Chó và người giữa Hà-Nội"
là 1 trong 16 truyện trong tập "THIÊN
HƯƠNG VỀ TRỜI" của Tâm Thanh.Nếu
các Bạn muốn đọc tiếp nốt 15 truyện
nữa, xin gửi chi phiếu $15.00 cho một cuốn
.Tôi sẽ gửi sách theo media rate và hy vọng
sách sẽ tới tay Bạn nội trong tuần.
Địa chỉ liên lạc :
Nguyễn Đắc Điều
4525 Saddle Mountain Court,
San Diego, Ca 92130.
Xin chân thành cám ơn
các Bạn đã đọc truyện
"Chó và người giữa Hà-Nội"
của Tâm Thanh.
Nguyễn Đắc Điều
Chó
và người giữa
Hà Nội
Hai đứa con gái ngồi chồm
hổm trên vỉa hè quan sát đám ma giữa
khu phố cổ Hà Nội. Chúng nó đếm
số xích lô chở hoa để đo lường
đám ma to cỡ nào.
Đếm tới 58 thì một
con hét to (lúc đó dàn kèn tây
đã gần):
“Ê! Chí Mén! Ê
ê! Mày làm gì thế?” Để
kéo sự chú ý, con bé đứng
lên, vẫy tay rối rít một thằng bé
trong đoàn xích lô chở hoa, một đứa
con trai mười bốn mười lăm nhún nhảy
trên bàn đạp, đôi mông lép vẹo
qua vẹo lại. Thằng bé vênh váo trả
lời:
“Mày mù à!”
Nó chỉ vào vòng cườm đặt
trên xe.
Biết đám ma to rồi, hai
đứa con gái ngưng đếm vòng hoa, một
đứa ra nhặt hai đồng tiền mã. Con
bé giơ đồng tiền trước mặt một
chú người lớn đứng gần, hỏi tiền
gì. Chú trả lời đô-la Mỹ, và
tử tế thêm:
“Chúng mày là
cái giống gì mà ăn giành với quỷ
ma?”
Ai khác nghe nói thế chắc
ớn xương sống, nhưng hai con bé chẳng sợ,
mỗi đứa nhét một đồng tiền giả
vào túi. Chúng chờ phường kèn
tây đi qua, đứng dậy, phủi đít.
Lúc đó mới thấy một con cao một con
thấp. Con thấp trông mặt già dặn hơn,
chừng mười lăm; con cao (hơn nửa tấc
là cùng) non hơn, chừng mười ba. Cả
hai da bủng beo, quần áo, đầu tóc lôi
thôi lếch thếch. Không có nét gì
chứng tỏ chúng là hai chị em, trừ
cái gầy ốm như nhau, và cử chỉ
ăn khớp.
Chúng len lỏi vào một
ngõ hẻm ở phố Hàng Ngang tới căn
nhà hai tầng chiều ngang lọt lòng 1,8
mét, chiều sâu 9 mét. Bốn hộ gồm cả
thảy 23 người lớn bé ở trong bốn buồng,
trên hai dưới hai. Hộ ông Cát may mắn
chỉ có hai người, nhưng bù lại buồng
nhỏ hơn và nằm sát cầu xí chung.
Bà Cát đang bắc ghế đẩu ngồi
canh quần áo phơi. Một quần đùi
đen đàn ông, một áo cánh xanh
đàn bà và cái khăn mặt đỏ,
chiếm vừa vặn khoảnh nắng trước cửa
nhà. Bà canh để nắng di chuyển tới
đâu, xích quần áo tới đó;
và canh để khỏi bị cầm nhầm, hoặc
có người chiếm vạt nắng hình thoi.
Chung cư đã có chia phiên đi cầu,
phiên tắm, nhưng chưa chia phiên phơi quần
áo. Chị phó tiến sĩ ở tầng
trên đã đề xuất ‘Kế hoạch
vận dụng năng lượng mặt trời tại
hẻm số 17C phố Hàng Ngang’, nhưng chưa
được bốn hộ nhất trí. Điểm
bất đồng chính là có hộ 2 người,
hộ 7 người, không thể chia đều
được.
“Chúng mày đấy
à?” bà Cát hỏi. “Khớ
không?”
Con
chị - tạm gọi vậy
- chìa đồng tiền
mã ra khoe. Bà dòm vào giật mình,
tưởng đô-la thật. Nhưng chợt hiểu
ngay là bây giờ Hà Nội đã bắt
đầu in giấy trăm đô-la làm tiền
mã. Bà nói:
“Ông đợi chúng
mày từ sáng giờ đấy!”
Hai đứa chưa biết
trên gác phân chia ra làm sao, nhưng ở
dưới đất này, hai hộ phân cách
bằng vách cạc-tông đàng hoàng
và có cửa đẩy. Hộ ông bà
Cát nằm phía trong, kê được một
cái bàn hai ghế đẩu, một cái chạn
và một cái giường sắt. Cái
bàn vừa làm bếp, vừa làm bàn
ăn, vừa là bàn uống trà, hút thuốc
lào. Ông đang ngồi chân co chân duỗi
trên cái ghế đẩu duy nhất. Mặt
ông vàng như miếng thịt trâu ướp
nghệ. Phớt lờ sự xuất hiện của hai
đứa nhỏ trước mặt, ông từ từ
vo một bi thuốc đút vào lõ điếu.
Ông vừa vin cái xe điếu cong ngậm
vào mồm thì con bé hết kiên nhẫn,
nó chìa đồng tiền mã ra. Ông ta cầm
tờ giấy, ngắm nghía lẩm bẩm:
“Dưới đấy người
ta làm sớm hơn trên này.” Ông gấp
tám đồng đô theo chiều dài,
châm vào ngọn đèn trên bàn.
“Chúng mày mang tiền này về
đây, tối người ta đòi, chết tao.
Vì vậy tao phải gửi lại cho người
ta.”
Đốt tiền mã xong,
ông mở chạn lấy hai bát cơm đưa
cho hai đứa. Chờ chúng ăn xong, ông hỏi:
“Khấn xem!”
Hai đứa đồng thanh đọc
bài khấn trước khi đào mả:
“Thắp
cây nhang này
Lễ
bày đưa tống
Giải
phóng hồn ai
Trút
đi áo gấm cân đai
Cõi
âm áo giấy tề giai đại đồng
...”
Bài này chính ông bịa
ra, để bọn lính đào mả của
ông an tâm mà tác nghiệp, chứ ông
không tin ma quỷ có thể hại một người
bị bắt buộc phải làm một điều
gì. Ông nói Ông Trời bắt ông
đào mả thì ông phải đào, ma quỷ
hay vong linh người chết không cản được.
Phương chi ông đang làm một việc hợp
luân thường đạo lý nhất -
đó là giải phóng, giải phóng giai
cấp, xây dựng thế giới bình đẳng.
Ông không có cơ hội (đúng ra
là nghiệp số) dắt năm châu tới đại
đồng, nên đành hy sinh nhận lãnh sứ
mạng giải phóng cõi âm, san bằng giai cấp
dưới đấy. Đối với trẻ con
ông gọi bài trên là bài khấn,
nhưng trong bụng, ông gọi là đề
cương.
Hai đứa trẻ đọc xong
‘đề cương’ không sai, không vấp.
Ông gật đầu hai cái, rồi lôi từ
gầm giường ra hai gói đồ nghề, giao
cho chúng. Cử chỉ trịnh trọng như giao kiếm
diệt thù.
Nghĩa địa cuối năm
không trăng không sao, đen như mực. Tiếng
giun dế cũng đen, nhọn hoắt. Hai đứa con
gái lần mò chừng nửa tiếng đồng
hồ mới tìm thấy cái mả mới lấp
đất. Chúng quỳ trước mả khấn
vái như ông Cát dạy. Sau đó bắt
tay vào việc liền, một cách rất
thành thạo. Con chị dùng mai xắn một
nhát ở đầu mả.
“Cứng bỏ mẹ! Làm
gì mà nện chặt thế này!” nó
càu nhàu.
“Để em cuốc cho,”
con em nói và cầm cuốc bổ. Nó khỏe
hơn con chị. Trong khi nó cuốc, con chị gom
đất vào một đống. Cả hai đứa
mới đào được một cái lỗ bằng
cái mâm sâu chừng gang tay đã thở
phì phì.
“Mệt bỏ mẹ!” con
em nói.
“Cơ mà đỡ
rét,” con chị an ủi.
“Sắp Tết, phải
không, chị?” con em lãng mạn ngang.
“Ừ, thành ra nó mới
rét tợn.”
“Giầu như thế mà không để
ăn Tết xong hẵng chết?”
“Ông ấy không ngỏm
thì mình lấy gio mà ăn Tết
à!”
Cuối cùng hai đừa cũng
đào được một cái hố đứng
ngập đầu.
“Được chưa, chị?”
con em hỏi, thở phì phò.
“Nhà giầu ăn nhiều
to xác, chắc ra chưa lọt đâu. Mày nghỉ,
để tao đào thêm tị nữa.
“Chị nghỉ để
lát nữa có sức mà chui, bây giờ
để em.”
Con em hì hục đào, con
chị chuyển đất.
“Được chưa?”
“Chị xuống mà
xem.”
“Chạm vào xăng
chưa?”
“Nghe cồm cộp rồi.”
Con em bò lên, con chị đội
đèn ló, nhảy xuống. Bỗng hai đứa
rùng mình vì tiếng cú rúc rất gần.
Chúng đào mả ăn trộm cả chục lần,
không sợ gì, chỉ sợ tiếng cú
kêu.
“Nghỉ tị đã. Tao bủn
rủn cả tay chân rồi,” con chị nói
và tắt đèn, leo lên.
Chúng ngồi sát vào
nhau.
“Chắc chị đói chứ
gì!”
Con chị không trả lời, lại
leo xuống hố, bật đèn ló. Nó nhắm
chừng và lấy cái cuốc nhà binh bắt
đầu moi đất theo chiều ngang. Chỉ
mươi nhát là tới quan tài. Con em nghe tiếng
cộp của gỗ, bèn chuyền búa và
đục xuống.
Đúng lúc đó
có tiếng người nói xa xa và ánh
đèn pin. Hai đứa chạy tới một
ngôi mộ xây gần đó nấp. Chúng
nghe hai giọng đàn ông:
“Đ.m. nhà hàng Sơn
Lâm cho ăn cái giống gì mà cả lũ
đau bụng?”
“Chắc là cái
món thịt rừng làm bằng mèo chết,
chứ gì?”
“Nó bảo đảm thịt
nhím trăm phần trăm đấy!”
“Đéo làm gì
còn nhím ở đất này. Rắn rết cũng
vào nồi niêu hết rồi. Nếu còn rắn
mà rắn tha cho mày ngồi ỉa như thế
này à? Nó không ngoạm đứt con buồi,
tao chớ kể. Hồi xưa trong nghĩa địa
này rắn như rươi. Không ai dám ra
đái chớ đừng nói ỉa.”
Hai người im lặng (chắc
để thao tác cái việc mà ông cha gọi
là ‘việc cần’).
Giọng người không
rành về thịt rừng tiếp:
“Khi chiều, mụ nào ngồi
cạnh mày đấy?”
“Bắt mắt rồi à?
Tao làm mai cho. Trưởng tuyến Lạng Sơn
đấy.”
“Vậy thì đấm
thèm vào. Có làm mai cho tao mấy em của
mụ thì tao chịu.”
“Hàng xuất khẩu
mà mày đòi bóc tem, người ta thẻo
giái mày. Mấy thằng Chệt già kỵ
cái đấy nhất.”
“Ai chả biết. Nâng cấp
khó gì.”
“Nâng cấp cho lỗ vốn
sặc máu à? Này tao bảo: chúng
mày có tiêu chuẩn riêng, đừng rớ
vào hàng đã đóng dấu, vỡ lở
ra chúng ông bể nồi cơm mà chúng
mày cũng chết theo, lại đi biên giấy
phạt ngoài đường. Nghe chửa?”
Anh xuất khẩu hỏi to:
“Mày sợ ma
không?”
“Có lúc sợ lúc
không. Có lần tao ôm xác chết mà lại
không sợ. Có lần đi công tác chung với
một thằng mà lại sợ.”
“Sợ cái gì? Sợ
mày ăn bẩn bị nó tố?”
“Đ.m. cái mồm thối!
Hồi nhỏ nghe chuyện ma tao ghê nhất chuyện
ma biến thành người bạn đồng
hành.”
Hai người tự nhiên im bặt.
Tiếng côn trùng vẫn đen và sắc.
Trong nhà mồ, con chị
ghé tai con em thì thào:
“Hai ông đang sợ nhau đó!”
Con em phì cười, con chị
phải bịt mồm nó lại.
Chờ cho hai người
đàn ông xong việc cần và đi xa, hai
đứa bò ra tiếp tục tác nghiệp.
Bây giờ phải theo trình
tự như sau: đục đầu quan tài, chỗ
dễ đục nhất, rồi luồn một cái
giây thừng vào cổ xác chết, kéo
đầu xác ra ngoài. Phân công ngầm
là con em lột quần áo, đồ tuỳ
thân, cạy miệng xem có răng vàng
không; con chị đội mũ lính ngụy, chui
vào quan tài thu nhặt khăn tẩm liệm, gấm
vóc, năm cái gối, và ngà ngọc nếu
có. Công việc khó khăn nhầt là chuồi
xác trở lại quan tài. Gặp trời mưa,
đủn một cái thây người trần truồng
xuống hố không vất vả gì; nhét trở
lại vào quan tài rỗng cũng không đến
nỗi, nhất là gặp người già ốm,
nhỏ thó. Căng là gặp người phì
nộn. Có lần hai đứa bé phải trần
thân vật lộn cơ hồ suốt đêm, gần
sáng mà không nhét cái xác vào
quan tài được, chúng đành để
xác nằm ngay dưới hố mà lấp đất
lại. Chiến lợi phẩm - được gọi
là ‘lòng lợn’ - giao nạp cho ông
bà Cát ở một điểm hẹn, thường
là trên một con thuyền. Bà Cát sẽ
cho hai đứa ăn no và một ít tiền bồi
dưỡng, nhiều ít tùy lợn béo gầy.
Nhưng lần này, đào
vất vả, mà cái xác bé tí. Con chị
sờ thấy cái đầu đội mũ bé
bằng quả cam.
“Con lợn này là lợn
con, mày ơi!” con chị nói.
“Lạ thế! Trưa nay
rõ ràng đám ma người lớn đấy
mà,” con em nói.
“Để tao lôi cổ
nó lên xem hẵng hay.”
Con chị buộc giây vào cổ
xác chết xong, leo lên mặt đất. Hai đứa
kéo cái xác lên, nhẹ hẫng. Khi
chúng mở vải liệm ra thì ra:
“Con chó!” cả hai
đứa cùng kinh ngạc thét lên, quên
là đang phải tuyệt đối yên lặng.
Tiếng cú kêu và đập
cánh trên cành cây gần bên. Trên một
năm trời đi đào mồ, gặp đủ sự
kinh tởm nhưng chưa bao giờ chúng kinh hãi
như bây giờ. Bởi vì không hẹn
mà hai đứa cùng tưởng tượng
là người chết với đám ma linh
đình hồi sáng đã biến thành
xác chó để dọa chúng. Chúng co
giò chạy.
Được mươi
bước, con chị kéo con em lại:
“Đã không lột
được gì, lại mất đồ nghề,
ông Cát giết mình.”
Hai đứa do dự một
lát, thấy mọi sự yên tĩnh, không thấy
âm binh, ma quỉ hiển lộng, bèn nắm tay
nhau, quay lại. Chúng lượm cuốc, xẻng,
đèn ló, rồi thư thả ra khỏi nghĩa
địa. Chúng nghĩ rằng ma cũng như
chó, càng chạy nó càng đuổi tợn.
Chúng không dám lại hẻm
Phố Hàng Ngang nghe chửi, mà về
‘nhà’ - một hầm cầu dưới
đường xe hỏa - ôm nhau ngủ.
Những tiếng cãi cọ
và chửi thề của bạn hàng chợ
và cơn đói đánh thức hai đứa
dậy. Khi vào phóng uế trong một xó
kín, chúng thấy cái thùng rác, nạy
ra coi có gì ăn được không, thì
tình cờ thấy trong sân bếp người ta
đang làm thịt chó. Chúng biết
đây là đàng sau của quán thịt
rừng Sơn Lâm. Hôm qua hai ông khách
đau bụng đã ăn ở đây. Khách
hôm nay cũng sẽ trả tiền thịt rừng
để ăn thịt chó. Hai sợi dây thừng
vắt trên cành mít, nơi người ta
dùng để cắt tiết. Con em nhận ra một
trong hai sợi dây chính là sợi dây
tác nghiệp của chúng. Nhưng người
nói ra lại là con chị:
“Người ta đang làm
con chó ngoài nghĩa địa đấy!”
“Chị đừng nói, em
nghe hãi quá!”
“Hừ! Mày hãi sự
thật à?”
“Vâng... À không... Em
không hãi nữa. Em chỉ hoa đầu óc,
không biết đâu là chó chết,
đâu là chó thịt, đâu là
người.”
“Mày... Tết mày
đâm lẩn thẩn!”
Có giọng đàn bà
the thé từ trong sân bếp quát ra:
“Đéo mẹ nhãi ranh
nào sáng sớm đã tới lục
thùng rác còn léo nhéo gì
ngoài đó. Cút ngay!”
Hai chị em cùng cười
khanh khách như trêu chọc. Nhưng chúng vẫn
chạy thật xa, vừa chạy vừa cười
vô tư.
“Thôi không cười nữa,
đau bụng quá.”
“Đau tự đói chứ
không tự cười. ”
Chúng trở lại quán
cà-phê hôm qua có đám ma đi qua, ngồi
ngoài vỉa hè xem có ai ăn thừa thì
xin. Nhưng khu này dường như không bao giờ
có Việt kiều và du khách lai vãng,
nên chờ mãi chẳng có ma nào để
lại một mẩu bánh, cọng bún. Chúng
nghe lóm được một mẩu đối thoại
của hai khách ăn hàng.
“Mày biết đêm qua
có sự cố không?”
“Thành phố này
đêm nào chẳng có sự cố. Thức dậy
mình có nghe hay không thôi.”
“Sự cố này đặc
biệt - sự cố
đào mả trong nghĩa địa.”
“Chuyện xưa rồi.”
“Lần này khác,
vì kẻ trộm đào nhầm mả
chó.”
“Có mả chó nữa
sao?”
“Mày không nhớ
là thằng giám đốc Vidaico làm
đám ma cho con chó của vợ nhỏ à?
Con chó giống gì không biết mà
khôn đáo để, biết bấm chuông
báo khách. Mày biết ai thiết kế
cái nút chuông cho con chó không? Thằng
Tân Rỗ nhà mình đấy. Thằng Tân
Rỗ kể đấy. Chó bấm chuông là
thường rồi; ông chó này biết
phân biệt người sang người hèn,
và báo hiệu trúng phóc, giúp chủ
nhà ứng xử. Chẳng may ông chó bị
ung thư ...”
“Địt mẹ chó cũng
biết ung thư!”
“Nín cho tao kể. Ông
chó nằm trong dưỡng đường chó một
tháng, tốn 250 triệu, bằng lương của
10 công nhân viên nhà nước trong một
năm đấy. Nhưng ông chó cũng ngỏm.
Mụ vợ khóc như cha chết mẹ chết, thằng
Vidaico phải làm đám ma linh đình để
ai ủi vợ.”
“Nhưng tại sao kẻ trộm
lại đào mả chó?”
“Hôm qua mày không ra
đây coi, có cái đám ma to lắm, rải
tiền mã bằng đô-la, có vòng hoa
phúng điếu của đầy đủ cơ
quan Đảng và Nhà Nước. Chôn
cùng nghĩa địa nhà giầu. Thằng trộm
nhắm mả nọ xọ mả kia. Người
thành chó, chó thành người.”
Hai đứa trẻ không
dám tới gặp ông bà Cát, cũng
không dám về hầm cầu. Chúng ra nghĩa
địa, nằm ngủ trong ngôi mộ to như
như cái lăng. Ai cũng biết cái lăng
này là nơi yên nghỉ cuối cùng của
một vị trong Trung ương Đảng. Bốn
góc là mộ của bốn đại gia.
Trên trăm ngôi mộ khác nhỏ hơn,
nhưng không kém phần hoành tráng. Nhỏ
hơn một tí, thấp hơn một tí,
không phải vì gia đình không đủ
sức xây cao hơn, rộng hơn, mà vì mồ
mả cũng phải có đẳng cấp.
Trước khi ngủ, con em hỏi:
“Hôm nay Tết chưa, chị?”
“Tết phải nghe pháo chứ.”
Hai đứa im lặng, không muốn
khơi nỗi buồn chung. Không biết chính
xác ngày tháng, nhưng thấy bánh mứt
bày ngoài phố, chúng biết Tết sắp
đến. Thấy đêm tối bao quanh đen như
mực, chúng biết Tết rất gần. Không
chừng ngày mai. Không chừng hôm nay - chỉ
vì nghĩa địa xa, không nghe tiếng
pháo thôi.
Hai đứa từ quê lên,
khác làng, nhưng cùng một hoàn cảnh
- không có tiền đóng tiền học
thêm, nên cứ phải lưu ban mãi. Lưu ban
vẫn phải đóng phí trường học
như thường, nên chúng đành bỏ học,
trốn nhà lên Hà Nội. Con chị bị loại
khỏi cuộc thi tuyển dâu Trung Quốc, vì
vú lép. Con em rình húp nước phở ở
hiệu phở gần chùa Quan Thánh, không
đủ no. Sau gặp bà Cát ở trong chùa
ra.
Đêm nay con chị nhớ
nhà, nhớ cha mẹ. Con em không có cha mẹ
để mà nhớ, nhưng thèm một mái ấm.
“Mày ngủ chưa?”
con chị nói.
“Chưa. Chị ngủ
chưa?”
“Con điên! Ngủ sao
nói! Tao không muốn đào mả nữa.”
“Em cũng thế. Nhưng lấy
gì ăn?”
“Tao về quê.”
“Chị về quê bỏ
em?” nó khóc òa lên.
“Nín đi! Tao sẽ
đưa mày về nữa. Mình trồng
lúa, trồng ngô ăn.”
“Thật nhá, chị?”
nó nín khóc ngay, ôm lấy con chị.
Hai đứa trẻ ôm nhau,
thút thít vài cái, đã chìm
vào giấc ngủ yên lành.
Tâm
Thanh
(Võ
Ngô sưu tầm và chuyển)