MỘT LÁ
NGÔ ĐỒNG, MỘT LÁ NHO
(Hà Sĩ Phu)
Cổ thi Trung hoa
có câu thơ nổi tiếng :
Ngô
đồng nhất diệp lạc
Thiên
hạ cộng (tận) tri thu
Thấy một
lá ngô đồng rụng , mọi người
đều biết mùa thu đã về.
Không chỉ bởi
nét đẹp “mùa thu lá rụng”,
câu thơ cổ chinh phục các nghệ sĩ
và thức giả muôn đời chính bởi
nét đẹp triết lý. Ở đây
có quan hệ giữa cái cụ thể là chiếc
lá rụng với cái trừu tượng là
mùa thu, tình thu, hơi thu…! Lại có quan
hệ giữa cái “một” đơn chiếc
và cái tổng thể , “thiên hạ”
, “cộng” hoặc “tận” là yếu
tố rộng lớn, bao trùm. Lại có quan hệ
giữa cảm giác nhìn thấy lá rụng
trước mắt, với “tri” tức tri
giác, là bước phân tích và tổng
hợp của tư duy trừu tượng bên trong
não bộ.
Sở dĩ chỉ
nhìn qua mà biết, nhìn vật nhỏ mà
biết điều lớn, nhìn hiện tượng
bên ngoài mà biết bản chất bên trong
là bởi thiên nhiên vốn có quy luật,
mọi thứ đều ràng buộc với nhau chặt
chẽ, cái nọ là kết quả của
cái kia, cái này là tín
hiệu của
cái khác.
Trời sinh vạn
vật nhưng ràng buộc chúng với nhau
như vậy, vạn vật tương quan, nên dẫu
“thiên vô ngôn” mà vạn vật vẫn
cứ hữu duyên, hữu lý, hữu tình, một
vài tín hiệu cũng tự nói thay tất cả.
Dẫu là một
thi nhân đa cảm hay một thức giả túc
trí, bằng những kênh riêng đều
“ngộ” được lẽ huyền diệu ấy,
nên họ thường kiệm lời. Hội họa
cũng vậy, tranh thủy mặc, nhất là tranh Tề
Bạch Thạch chỉ khắc họa vài nét
đơn sơ, tưởng như rời rạc mà
dưới mắt người thưởng ngoạn những
nét chấm phá ấy cứ nối vào nhau, tạo
nên những chỉnh thể sinh động, lấp
lánh. Người thưởng ngoạn sẽ tự lấp
đầy những khoảng
trống mà họa sĩ hay thi nhân kia chẳng cần
mô tả, nên tự cảm thấy mình
được ủy nhiệm hoàn thành nốt
quá trình sáng tác như một đồng
tác giả. Trong khung cảnh ấy con người
như thấy mình được đắm trong một
thiên nhiên khoáng đạt, thanh cao, được
chủ động khám phá, được
tôn trọng, thì đáp lại, anh ta tự
nhiên thấy mình cũng phải đáp ứng
một cách nhạy cảm, trí tuệ , thanh cao,
phải tự nâng mình lên cho xứng. Ta thấy
trong lòng yên ả, cuộc sống sao mà đẹp!.
Thơ như thế,
họa như thế, biết lắng nghe những tín
hiệu từ lúc còn thầm kín, manh nha,
mà đã hiểu nhau và đáp ứng
nhau tương xứng, phải chăng đó
chính là nét đẹp truyền thống của
phép ứng xử phương Đông, văn
hóa phương Đông?
Tiếc thay
nét đẹp văn hóa truyền thống ấy
dường như đã biến mất khỏi
xã hội ta hôm nay.
Chưa cần
tìm đâu xa, chưa cần cọ xát trực
tiếp với phố phường kẹt xe, ẩu đả,
văng tục, chẳng thèm để ý đến
ai, soi đuốc khó tìm một cử chỉ tế
nhị, thanh lịch; chỉ cần ngồi trong nhà,
nhắp chú chuột vi tính, đọc những
tin cả “lề phải-lề trái” về những
vấn đề lớn đang chi phối bầu khí
quyển xã hội, ta sẽ thấy một cơn bất
an, vẩn đục, náo loạn nổi dậy trong
lòng …
Từ những dự
án khổng lồ như khai thác Bô-xít
Tây nguyên, dự án tàu cao tốc xẻ dọc
Bắc Nam, đại chương trình Lễ hội
Thăng long nghìn tuổi, chương trình mở
rộng thủ đô, thái độ giữ
gìn biên cương tổ quốc ... đến những
chương trình nhỏ hơn như cải cách
giáo dục, đào tạo tiến sĩ và dựng
bia tiến sĩ, làm thế nào để chống
tham nhũng, chống nạn cướp đất của
dân ..., tất cả đều khiến ta đồng
cảm ngay với những từ ngữ tả sự trơ lỳ đến
cực độ của nhân tình thế
thái: này đui
điếc, cố tình, ngụy biện, này
nước đổ lá khoai, nước đổ
đầu vịt, này cố đấm ăn xôi,
cãi chày cãi cối ... đến đứt cả
dây thần kinh xấu hổ !
Những thông
tin đập vào tai vào mắt đã
không còn là những tín hiệu, những
dự báo, mà đã thành những sự
thật rành rành, thậm chí dù đui
mù cũng phải biết, mà những người
có trách nhiệm vẫn làm như không
có gì xảy ra, như “không có
gì mới” hết. Trước những lẽ phải
tưởng đến “củ cải” cũng phải
nghe, mà xem chừng người ta còn lỳ
hơn củ cải. Có blogger phải bực mình
thốt lên : Ừ thì có gì mới, nếu thành nô lệ của Tàu thì cũng
đã bị Bắc thuộc 1000 năm rồi chứ mới gì đâu?
Điều ngược đời là những phong
cách trơ lỳ này lại ở những người
thường lấy đặc điểm văn hóa
phương Đông để phản bác những
người không cùng chính kiến. Người
phương Đông nhìn chiếc lá rơi
đã biết cả một mùa thu đã về,
nay thấy cả một làn sóng của giới
trí thức và nhân sĩ lên tiếng ầm
ầm như vậy mà những người có bổn
phận phải lắng nghe lại không hề giật
mình rằng thời thế đã biến đổi,
nước đã đến chân, rằng niềm
tin của dân đã rụng vèo vèo
hơn lá rừng mùa thu hay sao?
Nhân bài
thơ về chiếc lá ngô đồng, kẻ
văn nhân không khỏi lan man nghĩ về những
chiếc lá như một mô-típ giàu biểu
cảm trong văn học : chiếc
lá cuối cùng, chiếc lá đầu
tiên, chiếc lá tình yêu, chiếc lá
cô đơn, chiếc lá vô tình, chiếc
lá thu phai, lá rụng trong vườn ... và cả
chiếc lá đa nữa. Nhưng liên quan đến
câu chuyện về sự tế nhị và thô
thiển , về sự thanh lịch và trơ tráo
thì độc chiếm văn đàn là chiếc
lá nho.
Không biết tự
bao giờ chiếc lá nho đã được chọn
làm tấm bình phong, làm vật trung gian
hòa giải cho cái tục trước cái
thanh, cái thô trước cái tinh, cái giả
trước cái thật, cái xấu trước
cái đẹp, cái ác trước cái thiện
..., để những mặt đối lập ấy
có thể cùng chung sống? Lá nho, tức
lá bồ đào, vì thế đã
thành thứ lá ngụy trang, che mắt người
đời.
Chiếc lá
nho tuy thuộc loại lá có diện tích
vào loại lớn nên được dùng
làm vật che đậy, song nó chỉ có
tác dụng ngắn hạn. Những vật liệu
khác kiên cố hơn nhiều, như “mo”
như “thớt” mà còn bị lật ra ,
hỏi chiếc lá nho bền được bao
lâu?
Xứ sở của
những câu thơ, những bức họa kết tinh
của triết lý, tinh tế, nhạy cảm, phong
nhã như bài về chiếc lá ngô đồng,
như tranh Tề Bạch Thạch, là xứ Trung Hoa.
Nhưng có mấy ai biết đây cũng
chính là xứ sở thiên tài về sử
dụng chiếc lá nho che sự chai lỳ? “Mười sáu chữ
vàng” và “chiêu
bài bốn
tốt” chẳng phải
là chiếc lá nho một thời hiệu nghiệm,
từng che được bộ mặt khả ố của
cả kẻ bán lẫn kẻ mua đối với giang
sơn gấm vóc và văn hóa kiêu
hùng của ta đấy ư?
Nhưng dân Việt
là dân Phù Đổng, bình thường
thì như đứa trẻ thơ, mà khi có
giặc là vụt lớn lên trăm trượng,
có thiên lý nhãn, biến tre trúc
thành gươm đao, biến sắt thành ngựa
chiến, biến hơi thở
thành cuồng phong rực lửa, thì một chiếc
lá nho kia chịu được mấy nả mà
lo? Thắng bại chưa nói, nhưng chiếc
lá nho đã rụng, nhiều chiếc lá nho
khác rụng theo.
Vậy xin
“update” câu thơ cổ tuyệt diệu kia
thành :
BỒ ĐÀO nhất diệp
lạc
Thiên hạ cộng
tri...THÙ!
(một chiếc lá nho rớt
xuống, cả thiên hạ trông rõ mặt kẻ
thù)
Và câu
thơ Việt ứng tác :
Biển Đông rụng một
lá nho
Tái tê “ba vạn”,
tô hô .. .cửu trùng.
Đà lạt ngày 1-11-2010
HÀ SĨ PHU
(Tuệ
Quang TTT sưu tầm,
Chân Diện
Mục chuyển)