DẶM DÀI
(Tác giả: Hoàng Nga)
Hoàng Nga là tên thật. Sang Úc từ
năm 1988, làm việc tại Đức từ năm
1993-2008. Đang sống tại thành phố Sioux Falls từ
tháng 07 năm 2012 với gia đ́nh con gái, rể và hai cháu
ngoại. Có viết cho các tạp chí Làng Văn (Canada),
Văn (Hoa Kỳ) Văn Học (Hoa Kỳ), Phố Văn
(Hoa Kỳ), Việt Luận (Úc) .. Đây là bài Viết Về
Nước Mỹ đầu tiên của tác giả.
* * *
Anh là công dân Mỹ
mà không ở Mỹ. Tôi là công dân Úc mà ở Âu châu. Nên thường
hay gọi đùa nhau là người Việt gốc .. cây. Chúng
tôi cùng viết lách trên một cái blog nho nhỏ không nổi
tiếng của một người bạn thi sĩ. Phần
lớn người viết là bè bạn thân nhau thời
đi học, cùng lớn lên trong một thành phố ở
quê nhà, và số c̣n lại th́ quen biết nhau qua thời gian
cùng cộng tác trên những tờ báo ở hải ngoại.
Có người tôi từng gặp ở ngoài đời, cũng
có người tôi chưa biết mặt, nhưng thân và hiểu
nhau v́ những tâm t́nh trao gửi trên chữ nghĩa.
Tôi thường
không thích đọc bài vở được đăng
trên internet mặc dầu không gặp trở ngại trong việc
xử dụng những phương tiện điện tử,
bởi vẫn thích cái cảm giác được mở một
cuốn sách, được náo nức lật những trang
giấy c̣n thơm tho mùi mực. Tôi hay nhớ thuở nhỏ,
sau giờ ăn trưa là ra hàng hiên ngồi chờ người
giao báo để nhận những tờ nhật tŕnh mới
tinh tươm được mang ra từ Saigon. Và tôi
đă buồn biết bao nhiêu khi các tờ tạp chí văn
chương in bằng giấy ở hải ngoại chết
dần chết ṃn rồi đ́nh bản hẳn.
Tuy nhiên dầu muốn
hay không muốn, cuối cùng tôi cũng phải chấp nhận
báo điện tử, cũng phải đọc bài của
bạn bè được "post" lên các trang báo mạng
nếu như không muốn mất dấu nhau. Anh giễu
tôi:
- "Thôi th́ thôi
nhé cũng đành thế thôi" .. Sống vào thời buổi
nào th́ phải chịu lép vế theo trào lưu phát triển
của xă hội thời ấy. Ngày xưa th́ các cụ
đồ nhà ḿnh cũng phải vất bút lông xài bút mực,
vất chữ Nôm xài chữ quốc ngữ, và vất cả
áo thụng xài áo chemise, th́ văn chương phú lục trên
internet cũng phải nhập môn nhà tụi ḿnh mà ..
Anh nhại cải
lương, bảo:
- H.N ở toàn các
chốn thành đô đầy xa hoa rực rỡ, internet mà
lỡ có trục trặc một chút, gọi điện thoại
than phiền một hồi là được sửa ngay, chứ
ḿnh ở đây, "mất mạng" là chuyện
thường t́nh nên đâu có dám chê báo điện tử!
Tôi và anh sống
cách xa nhau hằng ngh́n dặm. Tôi từ Âu châu "qui cố
hương" về lại Úc, nơi đă đón chân mẹ
con tôi gần ba mươi năm trước. Tôi về
đi học lai rai chờ ngày định cư sang Hoa Kỳ.
Anh giễu tôi:
- H.N đi không biết
mỏi chân, hết sống ở châu này qua châu kia cứ
như bươm bướm, như chuồn chuồn mà cũng
bày đặt dùng hai chữ định cư!
Tôi hỏi lại:
- Nhưng anh cũng
nói anh đă "định cư" ở Mỹ th́ sao?
Anh bật cười.
Tôi bị anh trêu là dân Bohemian, dân "international", sống
năm châu bốn bể th́ anh cũng đâu có hơn ǵ. Nếu
không muốn nói anh c̣n "rày đây mai đó" như
cơm bữa nữa là khác.
Anh đi lính. Nằm
trong lực lượng đặc nhiệm, được
(hay bị) thiên hạ đặt cho cái tên thật rùng rợn,
"hunter killer". Chỗ trú quân thường nhất là
Trung Đông, A Phú Hăn và khu vực Tây Nam châu Á. V́ vậy tùy
theo nhiệm vụ được giao mà anh sẽ vác ba lô
lên đường. Anh vẫn hay đùa "đi bất cứ
nơi nào khi tổ quốc .. chẳng cần ḿnh bảo vệ
ǵ cả". Gần như tỉnh thành nào ở các khu vực
trên anh cũng phải đi qua, phải sống ít nhất
là vài năm. Rồi từ Á, Lào, Campuchia, Trung Hoa, Nhật
sang Âu, Ư, Đức .., thỉnh thoảng Do Thái, Iran, Iraq,
anh đều phải có mặt. Miền trung đông là
nơi anh qua lại, tới lui y như người ta
đi từ Bolsa qua chợ .. Phước Lộc Thọ.
Nhóm chữ "dễ mất mạng" anh dùng để
đùa với tôi gồm cả hai nghĩa, mất mạng
internet lẫn mất cả mạng thật của ḿnh. Tôi
nói:
- Việt Nam chiến
chinh hai mươi mấy năm coi bộ c̣n chưa
"đă", nên qua tới Mỹ anh vẫn đầu
quân đi lính. Bày đặt than thở "bận hành quân
nên chắc khó thăm nhau" nghe bực cả ḿnh!
Anh bật cười:
- Th́ đời
lính chiến, đời quân ngũ giống như cái nghiệp.
Y như H.N thích viết văn làm thơ, có phải tự
nhiên mà bị dính vào nó đâu .. Mà đă "nghiệp"
th́ phải chịu chứ biết sao giờ.
Lúc đầu anh
không nói tại sao sang đến tận bên này, sống trong
một đất nước tự do, không ai bắt buộc
và tuổi th́ cũng đă qua thời phải làm nghĩa vụ
quân sự mà vẫn dính vào nghiệp lính. Anh chỉ kể về
đời lính chiến cho tôi nghe, "sau Al Asad bên Iraq th́
ḿnh bị đi qua Afgha mất mấy tháng, chỗ Camp
Marmal (Mazar-e-Sharif). Cái trại này nhỏ .. híu, thuộc ISAF
(*), do lính Đức quản trị, chùm nhum lính của hai
mươi ba nước chen chúc. Mùa đông lạnh có lúc
dưới độ âm, lạnh tê tái. Đông đúc quá,
nên tắm nước lạnh cũng phải sắp hàng cỡ
một tiếng, và một tiếng khác mới chen lọt
vào nhà ăn là chuyện thường ngày ở những cái
huyện cà chớn đó .."
Anh thường
hay chơi chữ khi viết lách và tṛ chuyện, nên dùng tựa
truyện "chuyện thường ngày ở huyện"
của nhà văn Nga, Valentin Ovechkin, để nói về cái
"huyện cà chớn" mà anh đang sống. Nếu
tính ra từ Mỹ bay qua Afgha mất chừng bảy ngàn dặm,
th́ thật ra có thể nói đó là một đoạn
đường không mấy dài. Với những người
hay đi như chúng tôi, mười ba tiếng đồng
hồ tính cả lên xuống, chờ máy bay cất cánh,
đáp cánh thật chẳng nhiều. Anh nói:
- Th́ đúng là sau
khi yên vị, chỉ cần ngồi ngó chiêu đăi viên chỉ
vẽ những thao tác khẩn cấp trong trường hợp
máy bay gặp nạn, nhấp nháy coi hai, ba bộ phim; ăn
một, hai bữa, rồi nghe phi công trưởng thông báo
khóa, mở dây an toàn, cộng thêm vài ba cập nhật tin tức
vân vân, là đă thấy tới nơi. Thiên hạ nhiều
khi đi du lịch, c̣n phải trải qua cả ngh́n ngh́n dặm
từ nơi này sang nơi nọ, có người lắm khi
có thể ngồi chờ ở phi trường hằng giờ
để lấy một cái vé last minute chỉ v́ muốn
đi viếng một phong cảnh đẹp, một
nơi nổi tiếng nào đó .. Bảy ngàn dặm
đúng là "chuyện nhỏ" thiệt!
Tôi đáp:
- Nhỏ thiệt,
nhưng vượt bảy ngàn dặm không phải về
quê hương thăm gia đ́nh, không phải đi nghỉ
mát, không cả v́ làm ăn business thường t́nh như
thiên hạ, mà lại lăn vào một chỗ chẳng biết
ngày nào "mất mạng" như anh th́ không biết nhỏ
hay không!
Vượt bảy
ngàn dặm để lao vào vùng giao tranh dữ dội,
vượt bảy ngàn dặm để chấp nhận hiểm
nguy có thể đến với ḿnh bất cứ lúc nào
trong khi có thể an lành mỗi ngày lái xe đi làm, thứ bảy
Chúa Nhật ra Bolsa, Westminster, Garden Grove uống cà phê, tán chuyện
đời. Đó là chưa kể c̣n muốn ăn bất
cứ món ǵ, tắm bất cứ .. loại nước
nóng lạnh, vùng vẫy trong bể bơi, đùa giỡn với
sóng biển vào thời điểm nào cũng được,
tôi nghĩ thật buồn. Tôi tiếp:
- Lẽ ra với
mớ kiến thức, với bằng cấp, và với khả
năng ngoại ngữ giỏi như anh, chuyện ngồi
một chỗ nào đó trong văn pḥng, sau máy tính, làm những
công việc nhẹ nhàng không hề bị đe dọa ǵ
đến tính mạng, và hơn hết là không đ̣i hỏi
sự hy sinh phải xa gia đ́nh, xa vợ con như vậy,
có khó khăn ǵ đâu mà anh không chịu làm?
Anh cười
không đáp. Tôi cằn nhằn:
- Lẽ ra mười
mấy năm qua, anh đâu nhất thiết phải lội
mút mùa lệ thủy tận biên giới A Phú Hăn, nhiều
khi cả hai năm trời không rớ được đến
phương tiện truyền thông internet, mà ngày nay vốn
đă trở thành phổ biến, đến tận cả
những vùng nông thôn ở quê nhà cũng có như vậy? Nói
thật là nếu như bốn mươi năm trước
đây, nhận được những "lá thư viết
từ chiến trường" của anh gửi về,
chắc hẳn H.N đă bồi hồi thương cảm
v́ sự khổ nhọc của đời lính, đă xót xa
cho kẻ xa nhà chịu thiếu thốn và phải đối
diện với tử thần trong gang tấc như đă
từng thương cho những người lính Việt
Nam Cộng Ḥa ngày xưa .. Nhưng đó là hoàn cảnh lúc
đất nước c̣n chinh chiến, muốn hay không vẫn
phải chịu cảnh đao binh, chứ đang sống
thảnh thơi yên lành, đang tự do no ấm, mà nghe anh
gian lao chiến trường, nghe anh hành quân rừng lá thấp
hoài, coi bộ khó có phần thông cảm.
Anh cười nhắc
lại lời đă nói lúc nào đó với tôi. Có lẽ cái
nghiệp có "licence to kill", gọi nôm na là có bằng
cấp, chứng chỉ để giết người
đă "vận" vào với anh. Và anh hiểu tôi "la
làng" với anh v́ tôi biết rơ không chỉ là những
lao khổ ở chiến trường anh phải chịu
đựng, mà cả khi về phép thăm gia đ́nh ở
Hoa Kỳ anh cũng không thể hưởng được
những sinh hoạt b́nh thường. Anh viết cho tôi:
"Ḿnh về nhà được hơn hai tuần rồi,
debrief xong là đi tập huấn tơi tả đến
giờ. Tuy ở Mỹ nhưng vẫn tham gia đánh đấm
tưng bừng hoa lá. Nghỉ được có ba bữa,
thiệt là ít. Ít xịt! Rồi giờ th́ phải đi làm
tiếp ..".
Ít, ít xịt! Ba
ngày phép của anh từ Afgha về đến Hoa Kỳ có
thể nói c̣n ít hơn cả ít mới đúng. Chữ
"ít xịt" ở quê tôi, cũng như ở quê anh,
không những chỉ để diễn tả về môt
điều ǵ đó nhỏ bé, tí tẹo, very little, mà c̣n
cưu mang luôn cái cảm giác thất vọng. Tuy không là
đồng hương nhưng sinh trưởng ở
nơi gần gần, cách quê tôi vài chục ki lô mét, nên thỉnh
thoảng khi muốn tôi hiểu thật rơ ư ḿnh, thư cho
tôi, anh vẫn thường dùng những từ ngữ địa
phương như vậy.
Anh kể chuyện
về nhà "ít xịt" với giọng điệu
đùa giỡn, nhưng anh làm tôi bồi hồi. Tôi nhớ
đến những lá thư trước của anh. Anh viết,
"mấy tuần nay ḿnh lục tục dọn tiệm từ
Iraq dời qua A Phú Hăn. Hai tuần cuối cùng th́ inernet cũng
bị cắt mà nhà ăn cũng đóng cửa luôn. Làm cả
bọn phải gặm MREs (Meal Ready To Eat). Mà buồn hơn
là tay chân ở không, chỉ ngồi thu lu, không biết làm ǵ
cho hết giờ. Thôi th́ đành phải nói là để cho
cuộc tổng triệt thoái thêm nhiều phần bi tráng vậy!".
Và rồi vẫn với giọng điệu giỡn
chơi ấy, cuối mỗi câu thư, anh thường bỏ
thêm h́nh một mặt người cười toe toét,
như thể mọi sự chung quanh anh đều nhẹ
hẫng như lông hồng. Thư khác, lúc tôi c̣n ở Đức,
anh kể "cuộc không vận qua bên này tốn tới
mười chiếc máy bay khổng lồ C-17 về một
căn cứ tiền phương ở cực Bắc A Phú
Hăn, Camp Marmal (hỏi ông .. google th́ biết, có dính dáng tới
Bundeswehrs, quốc pḥng liên bang của H.N đó.). Mèn ơi, ở
nơi này rừng núi trùng trùng điệp điệp, mà
mưa dầm mấy ngày nay không dứt, nhiệt độ
lạnh .. bơ phờ luôn, vừa mưa vừa tuyết
..".
Anh viết vậy,
nhưng dẫu mưa tuyết băo bùng, hay nắng gắt
cháy da, th́ anh vẫn ở đó. Anh gửi cho tôi vài ba tấm
h́nh đứng cạnh những chiếc máy bay có cái bụng
thật lớn, tṛn vo như cá mập. Tôi đă ph́ cười,
bảo giống hệt như .. đồ chơi con nít.
Anh bảo:
- Ngó th́ giống
đồ chơi thiệt đó, nhưng là những loại
máy bay thiện chiến, chiến nhất bây giờ. Phải
chi hồi xưa ḿnh úynh giặc với loại này mà không
là loại dở ẹc th́ đâu có phải chạy thục
mạng ra ngoài này!
Gần như chuyện
ǵ cũng bị anh biến thành chuyện tếu, hoàn cảnh
nào cũng có thể bị anh đem ra bỡn cợt. Anh gửi
h́nh chụp với Robin Williams, kể, "bọn này mới
đến, lều trại chưa có, chỗ làm việc
chưa setup, cả toán dồn vào một cái lều tạm
cùng với cả trăm chú thuộc các đơn vị
khác nhau. H.N cứ thử tưởng tượng đến
cả trăm cái giường sắt loại hai tầng
(bunk bed), đầu giường giăng mắc các loại
ba lô, mền chiếu, quần áo, vũ khí .., nên đủ
mùi quần áo giày vớ ẩm ướt, nền đất
th́ chèm nhẹp, lại cộng thêm các loại tiếng ồn
hăm bốn trên hăm bốn, mới biết là sức
chịu đựng của cái tai, cái mũi của ḿnh cũng
vào hạng khá!". Tôi trêu:
- Bác sĩ tai mũi
họng mà qua đó chắc ăn nên làm ra. C̣n ông Robin Williams
đi một chuyến về bảo đảm sẽ nhớ
đời .. Nhưng mà quan trọng hơn là h́nh như có
người hổng thấy quê hay sao th́ phải!
Anh cười:
- Lội riết
bên mấy cái xứ này, ngày lại ngày qua lại phải
"xử ní" toàn mấy chuyện máu me nên thành vô cảm
mất tiêu rồi!
Với kiểu
đùa giỡn của anh, thật t́nh tôi không biết phải
chia xẻ điều ǵ cho đúng, nên chỉ thường
đùa lại mà thôi. Thư cho anh, tôi luôn "chúc anh đánh
giặc giỏi". Cuộc sống của anh và tôi gần
như không có điểm ǵ chung, lại cách xa nhau đến
cả vạn dặm, những điều anh kể cho tôi
nghe càng lạ lẫm hơn. Thấy tôi từng ở Đức
nhiều năm, anh viết :đây là căn cứ của
Nato, mà do Đức quản trị lâu nay. Giờ th́ Mỹ
tăng viện vào cho thêm đông, cho thêm vui. Lính của lực
lượng liên hợp gồm chừng hai chục nước
chen nhau trong cái trại chật ních. Có gặp cả mấy
chàng lính thuộc quân đội .. Mông Cổ nữa. Chèn
ơi, dân bộ lạc vậy mà xem ra c̣n có vẻ chính qui
và oai hơn .. bộ đội VC rất nhiều mới
đáng buồn chứ!". Tôi nói:
- Ai biểu anh
đi vào nơi gió cát!
Anh gọi nơi
anh ở là "nơi gió cát", là một vùng đất của
các bộ tộc bán khai nghèo khổ, man dại, theo đạo
Hồi cực đoan, c̣n làm những chuyện rợn tóc
gáy, chẳng hạn đàn bà con gái có thể bị giết,
ném đá cái một v́ những nghi ngờ không đâu từ
chồng. Hoặc làng này có thể mang dáo mác súng ống qua
tàn sát mấy chục mạng người chỉ v́ một
con dê đi lạc, nghi làng kế bên ăn trộm. "Dâu
bể tang thương, hoang sơ tiêu điều. Cả một
vùng đất rộng thênh thang là một thung lũng nhỏ
śnh lầy, có những ruộng lúa chật hẹp ngập
nước b́ bơm bao quanh bằng những vùng núi đồi
đất đá và những thảo nguyên liền theo núi
đồi trùng điệp, kéo tận đến mịt
mù". (**).
Thanksgiving anh viết,
"ḿnh đă hồ hởi sắp hàng rồng rắn chừng
nửa cây số, chung với non ngàn người lính liên
quân, giữa cơn mưa dầm, trước cái nhà ăn
nhỏ xíu, sức chứa cỡ hai trăm người,
đợi đến phiên để được ăn
một bữa ăn nóng, hot meal có mash potato, cranberry sauce và một
miếng thịt gà Tây cà lồ. Nói là hot, nhưng thật ra
tất cả đều là đồ hộp khui ra hâm lại
cho nóng .. À, tráng miệng th́ có pumpkin pie và pecant pie với cà
phê, hể hả chưa!?". Rồi kết thúc thư cũng
vẫn bằng một mặt người cười, anh
khiến tôi bùi ngùi. Anh kể chuyện hằng ngày, chuyện
lính tráng, chuyện Thanksgiving, Tết nhất đ́u hiu
nơi xứ người buồn bă đến nứt ḷng,
những "hể hả" anh có được nghe xót
dạ không chịu được. Tôi trả lời
thư anh bằng giọng đay nghiến vẫn thường
dùng, "không ai mượn mà cứ xông pha khói lửa, vác
súng ra chiến trường làm ǵ. H.N ở Sydney, không có lễ
Thanksgiving như Hoa kỳ, vẫn ăn được
nguyên một cái đùi gà tây thiệt bự vừa mới lấy
trong ḷ ra, uống hết nửa chai shiraz ngon nhất nước
Úc. Và v́ no quá nên không thèm đụng tới miếng pie nào hết!".
Anh đọc
thư xong, cười ha hả, trả lời rằng cũng
vừa mới đọc bài tôi đăng trên một trang
web của cơ quan truyền thông Tin Lành. Anh viết "có
chạy vào chỗ vườn Ê đen nḥm xem H.N thánh thiện
cỡ nào th́ mới thấy một em coi bộ hiền
lành, áo dài tha thướt, nhưng hai con mắt th́ .. nghinh
ngang quá sức nên biết t́nh h́nh .. rất gay go!". Rồi
gọi là để .. bù lỗ, anh gửi cho tôi một lô
h́nh chụp tại Do Thái, con đường khổ nạn
Via Dolorosa, chỗ Chúa Jesus chịu thập h́nh, nơi thánh
Giăng làm phép rửa (báp têm) cho Chúa Jesus, cạnh bờ
sông Jordan, rào biên giới giữa Jordan và Israel .. Anh dặn
tôi "coi cho vui hen, như một chuyến viếng
thăm thắng tích bằng h́nh". Tôi cám ơn, và viết
lại cho anh, "vui cái nỗi ǵ mà vui, chỗ đó uưnh
nhau dài dài như anh viết chớ vui ǵ!". Anh đáp
thánh địa Jerusalem được dân du lịch cả
thế giới tới thăm, nên là khu được bảo
đảm an ninh tối đa. Anh nói tôi đă từng
đi Ai Cập, th́ lần sau "chịu khó" đi thêm
một đoạn, anh sẽ đăi tôi uống cà phê ở
Do Thái.
Rảnh rỗi,
tôi hay gửi những bài viết mới, lẫn cũ của
ḿnh không đăng trên mạng internet để anh đọc.
Anh đọc rất kỹ, và lần nào cũng viết
đôi lời an ủi, kiểu "văn chương th́
dù không cơm cháo nuôi nổi bản thân tác giả ngày nào,
nhưng cũng là dưỡng chất tinh thần nhiều
lắm cho những người như .. tui đây, những
con người cùng một thế hệ, sinh ra để
nh́n thấy lắm nỗi thương đau, để chịu
lạc loài, đổ vỡ, chia xa miên viễn mà vẫn
không ngừng những nỗi thiết tha ..".
Lần anh về Tết,
lúc tôi đă định cư ở Hoa Kỳ, gọi điện
thoại cho anh, tôi trêu anh bằng hai câu thơ anh làm lúc ở
A Phú Hăn:
- Năm nay khỏi
kêu ca "anh c̣n ở chiến trường xa. Đón Tết,
là một ly cà phê đen" nhen!
Rồi tôi hỏi
về tới rồi nhưng anh đă "ăn" Tết
chưa. Anh đáp:
- Về không dài
nhưng dầu ǵ cũng được đón Giao thừa
ở nhà.
Anh làm tôi nhớ
bài viết cũ của anh từ nhiều năm về
trước, kể chuyện đón Giao Thừa ở một
"căn cứ nhỏ xíu, toàn những căn lều vải
bạt, dựng thành từ nhóm, bao chung quanh phi đạo,
cách ly với cái làng ngoài kia bằng ba lớp rào kẽm gai.
Nơi gần nhất với khu nhà dân, chỗ cái chợ nhỏ,
th́ có bức tường thành dài độ ba trăm thước,
đủ cao để ngăn bên ngoài không thấy
được bên trong, thế thôi". (**) Nơi đó có
chừng ba trăm lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ
đồn trú, và một khu an toàn tạm thời cho những
lực lượng đặc nhiệm như toán của
anh. Ở đó, đêm mồng một Tết, từ
nơi trực về lại trại, giữa một
cơn mưa dầm dề úng thủy, bất ngờ anh sững
chân bởi giọng hát của một người nữ, một
người nam văng vẳng đưa ra từ phía trong
lều. Lúc c̣n ở Úc, có lần đang đi trong sân
trường tôi cũng từng chôn chân ngay giữa trời
mưa chỉ v́ một giọng nói nhẹ nhàng mang âm điệu
Huế vang lên từ phía sau lưng ḿnh. Từ một
nơi được xem như là một thủ đô tị
nạn thứ hai của người Việt hải ngoại
sau California, chỉ cần vài bước ra khu chợ đồng
hương là có thể nghe, có thể tưởng như
ḿnh đang sống ở quê nhà, vậy mà một trích đọc
đoạn thư của Trịnh Công Sơn gửi cho Tôn
Nữ Dao Ánh được một người nào đó
đọc bằng giọng Huế giữa cơn mưa
chiều nơi xứ lạ, cũng đă làm tôi ngẩn
ngơ. Anh kể tiếng cổ nhạc, giọng ca của
Lệ Thủy, Minh Phụng mùi mẫn vang lên giữa núi rừng
A Phú Hăn ngày đầu năm níu chân anh như không cách ǵ gỡ
ra được.
Anh viết "Lạ.
Nhướn mắt nh́n kỹ, anh thấy trong góc căn lều,
khuất sau những quần áo treo tùm lum trên các giây nhợ
giăng trong pḥng, ngồi trên đầu một chiếc ghế
bố, một người lính Thủy Quân Lục Chiến
đang cúi gập người, hai tay ôm mặt, vai rung rung
..". Và anh càng ngạc nhiên hơn khi biết ra người
lính Mỹ da đen cao lớn đứng trước mặt
anh khi anh gọi anh ta ra ngoài, "không có vẻ ǵ là biết
tiếng Việt, đừng nói là hiểu được
lời, cảm được ư của cái loại nhạc
mà anh ta đang nghe, mùi mẫn đến độ khóc
sướt mướt" (**). Chuyện tṛ thêm, anh biết
ra người lính Mỹ xa nhà này gốc nửa châu Phi nửa
Việt Nam, có bà mẹ bị gia đ́nh từ không nh́n mặt
v́ đă lấy ba anh, người lính viễn chinh tại
Việt Nam trước bảy lăm. Khi mẹ anh theo ba
anh về xứ lạ, hành trang ly hương mang theo trong
ḷng là câu hát cải lương. Anh lính trẻ lớn lên,
được ru ngủ bằng những câu cổ nhạc,
được lớn lên bằng tiếng hát Lệ Thủy,
Minh Phụng. Thanh Sang .., ngày giă từ mẹ sau khi nhận
lệnh hành quân mười tám tháng nơi chiến trường
Nam Á, anh lén lấy cái CD của mẹ mang theo, nhưng rồi
chỉ để thêm nát dạ v́ nhớ nhà. Lần bạn
tôi nh́n thấy người lính này khóc là lần anh ta không thể
về thăm mẹ ḿnh đang bị ung thư ở giai
đoạn cuối. Thậm chí đến cả telephone cũng
phải chờ hai tuần mới đến lượt
để được gọi về. Bạn tôi kể
anh đă giúp người trung sĩ Thủy Quân Lục Chiến
này gọi về Hoa Kỳ sau khi "bươn bả lội
śnh quay trở lại nơi làm việc, lôi cái điện
thoại vệ tinh, loại tác vụ (***) ra, rồi quày quả
đi trở lại căn lều nọ. Trên đường
đi, anh đă kêu cho hiệu thính viên nhiệm sở BTL
Trung Đông ở Qatar, dặn "móc" (hook-up) với hiệu
thính viên đường dây dân sự ở Mỹ, khu vực
Akansas, và trực máy (Stand-by). Hỏi tên họ bà mẹ của
người lính xong, anh kêu hiệu thính viên liên lạc cho bệnh
viện của County nơi nhà của bà mẹ người
lính, xác định tên họ bệnh nhân xong, chuyền thẳng
đến pḥng ICU nơi bà mẹ nằm" .. (**).
Câu chuyện anh viết
và kể thật buồn. Những người lính xa nhà
như anh, như người lính Mỹ da đen mang nửa
gịng máu Việt, nhiều tháng năm dài miệt mài hành quân
xa, nương náu trong những lán trại quạnh hiu miền
trung Á chỉ v́ một nhiệm vụ mà nghe ra dường
như rất vô h́nh, rất mơ hồ, là để
"bảo vệ nền tự do cho toàn thế giới".
Nhiều người đă tự hỏi, và vô số
người đă lên tiếng tại sao quân đội Hoa
Kỳ phải ở lại và chiến đấu tại A
Phú Hăn sau khi quân khủng bố Al-Qaida sụp đổ và
Bin Laden đă chết từ lâu! Sau này thân nhau nhiều, anh mới
đề cập đến vấn đề đang gây ra
tranh căi khắp nơi ấy với tôi. Anh nói:
- Cái giá của tự
do không thể trả bằng tiền bạc hay những thứ
vật chất thông thường khác, mà đến hơn
chín mươi phần trăm là bằng mồ hôi, nước
mắt và máu. Ngày xưa những người lính viễn
chinh Mỹ và đồng minh hy sinh trong chiến trường
Việt Nam cũng chỉ v́ hai chữ "tự do"
mơ hồ kia. Nhưng thử tưởng tượng nếu
tường thành miền Nam sụp đổ sớm
hơn, cộng sản tràn ngập Đông Nam Á sớm
hơn và làm ra nhiều điều tang tóc hơn, th́ chúng ta
đă như thế nào? Thế giới đă ra sao?
Anh nói mặc cho ai
có những suy nghĩ khác, có những nhận định
khác và có hồ đồ cho rằng đó là những cuộc
chiến tranh vô bổ chỉ mang lại những hy sinh vô
ích; hay thậm chí có người c̣n dùng những ngôn từ
xấu hơn, tệ hơn dành cho sự hiện diện của
quân nhân Hoa Kỳ tại các chiến trường không phải
là đất nước ḿnh, th́ anh vẫn thấy anh và bạn
bè anh đang làm điều đúng. Vẫn thấy chính phủ
Hoa Kỳ đă và đang thực hiện điều
đáng làm. Bởi anh nói ngày nào những bóng ma độc
tài, khủng bố c̣n phủ quanh thế giới, ngày nào
c̣n có những tổ chức làm con người sợ hăi, và
c̣n đe dọa mạng sống của dân lành, th́ anh vẫn
sẵn sàng "chiến đấu cho đến giọt
máu cuối cùng".
Anh về thăm
nhà vài ngày vội vă. Anh nói:
- Tết, vẫn
là Tết ở xứ người, cái xứ ḿnh đang nhận
làm quê hương, không thấy hoa mai vàng, không thấy bầu
không khí yên ắng cuối năm, không thấy rộn ràng
đầu làng cuối xóm, nhưng đây là lần đầu
tiên ḿnh không phải hát "Xuân này con không về", nên vẫn
cảm thấy hết sức xôn xao.
Dành thêm chút th́ giờ,
anh kể chuyện được ăn bánh tét, thịt
kho, được đón giao thừa bên vợ con. Sau
đó anh bảo sẽ gửi cho tôi tập truyện ebook
đang nóng sốt về chính trị ở bên nhà. Tôi hứa
sẽ đọc và sẽ b́nh luận cùng anh.
*
Người ta nói
không c̣n chiến tranh ở A Phú Hăn, không cần quân đội
Mỹ hiện diện ở miền trung Á này nữa,
nhưng tin tức đưa về hằng ngày vẫn chẳng
có ǵ khả quan. Chiến trường vẫn nóng sốt và
quân Taliban vẫn tấn công quân đội đồng minh,
và giết hại hàng ngàn người dân thường ..
Những ngày sau Tết
tôi gọi lại cho anh, nhưng máy anh đă khóa. Tôi để
lại lời nhắn, chờ măi vẫn không thấy anh trả
lời.
Tôi nghĩ chắc
là anh đă trở lại vùng hành quân.
Thư cho tôi, anh
luôn chúc tôi vui vẻ. Giọng thư đầy lạc quan
và chứa chan yêu đời. Anh cũng hay dặn tôi nhớ
làm thơ, viết văn nhiều nhiều để anh em
và bè bạn đọc. Tôi thật muốn nói với anh rằng
tôi vẫn c̣n làm thơ, thỉnh thoảng vẫn viết
văn, và mỗi lần viết xong, tôi đều email cho
anh. Nhưng sau ngày anh về phép ấy, tôi hoàn toàn không nhận
được một hồi âm. Cũng như thỉnh thoảng
dầu không viết, tôi vẫn chạy vào blog của anh bạn
thi sĩ để xem có bài hay comment ǵ của anh hay không.
Tôi viết và tôi
luôn hy vọng. Nhưng cho măi đến tận bây giờ vẫn
chỉ là những hy vọng chưa được hồi
đáp.
Ḷng tôi vời vợi
buồn. Tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mấy
chữ anh thường đùa, "mất mạng", cho
dầu là mất mạng internet đi chăng nữa. Bởi
tôi nhớ anh có nói ở những nơi không lên được
internet là những nơi đang giao tranh ..
Tôi chắc chắn
anh biết tôi và bè bạn luôn lo lắng cho anh. Chuyện tử
sinh, chuyện binh lửa chiến tranh, cổ lai chinh chiến
.. là chuyện không ai muốn nhắc đến. Tôi thật
ḷng vẫn ước mơ một sáng nào đó thức dậy,
sẽ thấy tên anh hiện lên trong vi thư của ḿnh. Sẽ
nghe tiếng điện thoại reo vang và nghe tiếng anh
cười bên kia đầu dây từ quận Cam, hỏi
H.N có khỏe không.
Mùa xuân nào bạn
tôi t́nh cờ nghe những bài vọng cổ trên đất
A Phú Hăn, mùa xuân nào anh về thăm gia đ́nh, hứa bàn luận
chuyện chính trị với tôi, mùa xuân nào anh c̣n làm những
bài thơ Xuân đằm thắm, mùa Xuân nào c̣n rủ tôi
đi uống một ly cà phê ở con đường khổ
nạn Via Dolorosa. Mùa Xuân nào c̣n nhớ thuở hoa vàng áo lụa,
nhớ pháo đỏ rượu nồng, nhớ thời
thơm tho sách vở.
Mùa Xuân nào anh viết
cho tôi, "cái giá của tự do không thể trả bằng
tiền bạc ..". Tôi ngậm ngùi tự hỏi, mùa Xuân
nào như vậy, c̣n mùa Xuân này anh có về?
(*) ISAF: Viết
tắt của The International Security Assistance Force, Lực
lượng Hỗ Trợ An Ninh Quốc Tế, là tổ chức
được lănh đạo bởi NATO thực hiện sứ
mệnh bảo vệ an ninh tại Afghanistan do Hội đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc thành lập.
(**) Oki, Ngày Tết
Nghe Cải Lương.
(***) Điện
thoại chỉ dành cho tác vụ, có khả năng liên lạc
qua bất cứ vệ tinh nào.
HOÀNG NGA
(Khánh Dung sưu tầm và chuyển)