Căn
nhà lá xiêu vẹo mục nát bên bờ
ao, ra vào chỉ có hai mẹ con. Mẹ buôn
gánh bán bưng, tảo tần hôm sớm;
đứa con trai còn nhỏ dại, đỡ đần
mẹ những việc lặt vặt hàng ngày.
Một
hôm mẹ bảo con:
-
Sáng nay mẹ bắt được mấy con cua,
còn để trong giỏ ở góc bếp.
Trưa con hái rau đay nấu bát canh cua, mẹ
đi bán về hai mẹ con ăn nhé.
Cậu
bé vâng dạ, người mẹ quảy gánh
hàng rong ra đi, cậu nhìn theo bóng mẹ,
muốn nói, mẹ về mua cho con tấm bánh
đúc, nhưng lại không dám. Tuổi
thơ nhà nghèo đã sớm biết cảnh
ngộ, cha mất từ khi cậu còn ẵm ngửa,
mẹ bươn chải suốt ngày chỉ đủ
cho hai mẹ con rau cháo đỡ lòng. Dám
mơ gì đến áo quần quà bánh,
càng không dám nghĩ đến chuyện học
hành. Nhiều lần cậu bé đứng
đàng xa nhìn về ngôi trường
làng, thấy đám học trò đang
gò lưng tập viết, hoặc đồng thanh
đọc theo thầy "Nhân chi sơ tính bản
thiện .." cậu thích mê, tuy chẳng hiểu
một chữ nào nhưng cậu cảm thấy bao
điều huyền diệu trong những âm thanh trầm
bổng ấy.
Thích
thì thật thích, nhưng tuyệt đối cậu
không dám hé ra một lời với mẹ. Bởi
vì cậu biết mẹ cậu đã khổ
quá nhiều. Đôi lần cậu cảm nhận
những giọt nước mắt thầm rơi trên
tóc cậu, khi mẹ ôm cậu vào lòng.
Nhưng khi cậu nhìn lên, mẹ lại vội mỉm
cười, bảo là có hạt bụi rơi
vào mắt. Sau đó mẹ ôm cậu chặt
hơn, và hai mẹ con cùng ngồi yên lặng,
tận hưởng những giây phút sum vầy hạnh
phúc bên nhau. Hiển nhiên là cậu
không thể sống thiếu mẹ và ngược
lại, mẹ cũng không thể nào sống
mà không có cậu.
Mải
nghĩ vẩn vơ, nhìn lại đã thấy trời
gần đứng bóng, cậu bé nhớ lời
mẹ dặn, ra sau nhà hái một đám rau
đay, rửa sạch rồi để vào rổ cho
khô. Rau đay nấu với nước cua giã,
mùa hè nóng nực có bát canh nầy
thì ăn đến đâu mát ruột đến
đấy. Hôm nay mình phải nấu thật ngon,
mẹ đi bán về mệt, ăn vào chắc
chắn khỏe ra ngay. Mẹ sẽ khen con mẹ giỏi
ghê, và mẹ sẽ thưởng cho mấy
cái hôn vào má.
Chiếc
giỏ tre nằm nơi xó bếp. Mấy con cua bò lổm ngổm. Cậu
bé đến gần, định trút cua ra cối
giã. Chợt thấy những đám bọt
sùi trên thân cua, cậu ngẩn ra nhìn. Thì
ra cua cũng biết khóc ư? Chúng sợ
mình giết chúng đây mà. Tội thế
thì thôi. Làm sao mình nỡ hại
chúng được nhỉ?
Cậu mang giỏ cua ra bờ ao, trút
hết cua xuống đất. Lũ cua được hồi
sinh, vội vã bò đi tản mát. Cậu
bé nhìn theo, mỉm cười ..
Buổi trưa nắng gắt. Người
mẹ trẻ quẩy gánh hàng rong còn nặng
trĩu trở về. Từng vệt mồ hôi trắng
loang lổ trên lưng áo, chảy ròng
ròng trên mặt. Nghèo nàn cơ cực
và đau khổ đã tàn phá nhan sắc
người thiếu phụ quá sớm. Mồ côi
cha mẹ từ thuở nhỏ, ở nhờ nhà
dì chú lại bị hành hạ đuổi
xua, cô phải làm thuê ở mướn
nuôi thân qua ngày. Tuy cô hiền hậu dễ
thương, nhưng gia cảnh quá bần hàn
nên không ai muốn kết thân. Mãi về
sau, gặp được người tử tế, tưởng
số phận đã mỉm cười, vợ chồng
suốt đời nương tựa bên nhau. Nào
ngờ chồng mắc cơn bạo bệnh, không tiền
thuốc thang nên qua đời, để lại đứa
con trai mới vài tháng tuổi. Cũng an ủi
cho cô, đứa con càng lớn càng thông
minh, lại rất ngoan, rất có hiếu. Mẹ
đi bán về, bé biết rót nước mẹ
uống, quạt mát cho mẹ; thấy mẹ buồn,
bé biết rúc đầu vào lòng mẹ,
thỏ thẻ với mẹ đôi câu. Nếu
không có đứa con, chưa chắc cô
có thể gắng sống đến bây giờ.
Nghĩ đến con, người mẹ
thấy lòng dịu mát. Ở nhà chắc thằng
bé đã nấu cơm xong. Sáng giờ
chưa có gì vào bụng, người mẹ
nghe đói cồn cào. Gắng sức về đến
nhà, rửa mặt qua loa, cô mỉm cười
nghe con vừa dọn cơm vừa tíu tít.
Nhìn bát cà muối nằm chỏng
chơ trên chiếc mâm tre, người mẹ ngạc
nhiên hỏi:
- Con quên nấu canh cua chăng?
Thằng bé ngập ngừng:
- Con không quên đâu, mẹ ạ.
Nhưng .. lúc bắt cua định cho vào cối,
con thấy chúng khóc tội quá nên ..
đã thả hết rồi.
Người mẹ tức nghẹn, trố
mắt nhìn con, lát sau mới thốt lên:
- Cái gì? Mầy nói cái
gì?
Nhìn đôi mắt long lên của
mẹ, thằng bé co rúm người lại,
líu ríu không ra tiếng:
- Dạ .. con thả cua đi hết rồi.
Vừa mệt vừa đói lại vừa
tủi cực, người mẹ òa lên khóc:
- Giời ơi là giời! Sao đời
tôi khổ thế này? Người ta có con nhờ
con có của nhờ của, tôi chỉ có một
đứa con mà chẳng biết thương mẹ. Đồ
bất hiếu, xéo ngay khỏi nhà nầy! Từ
nay chẳng mẹ con gì sất!
Thuận tay, người mẹ cầm ngay
đòn gánh phang vào chân con. Thằng
bé trúng đòn vào chân đau điếng,
vội chạy ù ra khỏi cửa. Người mẹ
gục mặt vào cạnh bàn, đôi vai gầy
guộc rung lên từng hồi trong cơn đau khổ
xé lòng. Nỗi giận Trời già bất
công, nỗi thương thân phận hẩm hiu
chưa hề có một ngày vui trọn vẹn,
chưa một giờ nào thật sự thảnh
thơi. Bên cạnh, vẫn âm ỉ nỗi ân
hận đã nặng tay nặng lời với đứa
con thân yêu duy nhất. Từ trước đến
nay, có bao giờ thằng bé bị bà la mắng,
nói gì đến đánh đập đuổi
xua? Chỉ tại hôm nay trời nóng quá,
hàng họ ế ẩm, chủ nợ lại chận
đường chửi bới đủ điều. Cực
nhục quá đỗi, thân cò đơn chiếc
làm sao giữ nổi bình tỉnh khi chút hy vọng
cỏn con là một bữa ăn cải thiện
mà cũng không thành hiện thực?
Chìm vào tột cùng đau khổ,
người mẹ cứ gục đầu, không biết
thời gian trôi qua, không biết bên ngoài
trời đã xế chiều. Khi chợt tỉnh,
nhìn quanh thấy im vắng lạ thường, người
mẹ nhớ lại chuyện lúc trưa. Hốt hoảng
gọi con, không nghe tiếng thưa, cô vội
nháo nhác đi tìm ..
.. Cuộc
tìm kiếm kéo dài gần 40 năm.
Người mẹ trẻ ngày
nào đã trở thành một bà cụ
cô đơn, còm cõi, sống hiu quạnh
nơi quán nước bên đường. Hai mắt
đã mờ, hai tai đã lãng, nhưng nỗi
nhớ thương ân hận vẫn còn
tươi nguyên, vẫn còn da diết. Bao
nhiêu năm trời lang thang tìm con khắp nẻo,
không kể nắng mưa gió bụi, không kể
lạnh lùng đói khổ, bà sống nhờ
hạt cơm bố thí. Chỉ có một
chút lửa hy vọng nhìn lại mặt con,
ôm con trong vòng tay, nói lên lời xin lỗi,
mới giữ được bà còn sống đến
ngày nay. Chút hy vọng ấy như sợi dây
tơ giữ bà liên hệ với cuộc đời.
Những năm gần đây, sức đã
mòn chân đã yếu, bà đành về
làng cũ, dựng tạm quán nước bên
đường làm nơi trú thân và
để tiện việc hỏi han tin tức đứa
con lưu lạc.
Sáng nay, tự nhiên bà cụ
thấy nôn nao lạ lùng. Từ sớm, bà
đã lui cui dọn dẹp bàn ghế, quét sạch
nhà cửa, quét luôn đám lá
ngoài sân. Ly tách trên bàn đã sạch
sẽ ngay ngắn, nhà cửa đã ngăn nắp
gọn gàng mà bà vẫn luôn tay làm
việc. Dường như có một luồng sinh
khí tràn vào thân tâm khiến bà mạnh
lên, trẻ lại, nhưng bà không hiểu
nguyên do, không biết có chuyện gì sẽ
xảy ra cho mình.
Mải làm, bà không biết
có một người khách vừa đến. Khi
nghe tiếng gọi, bà mới giật mình ngẩng
lên chào hỏi. Khách là một vị tu sĩ,
trạc tuổi 50, giọng nói từ hòa trầm
ấm:
- Bà cụ mở quán nầy
lâu chưa?
Bà bưng tách trà đặt
ngay ngắn trước mặt nhà Sư, chấp tay
cung kính:
- Bạch cụ, con mới mở vài
năm nay thôi ạ. Trước đây con cũng ở
làng nầy, nhưng tận sâu trong kia.
Nhìn theo ngón tay chỉ của
bà cụ. Sư như nhận ra điều gì, vội
hỏi tiếp:
- Thế .. bà cụ ở đây
cùng với con cháu chứ?
Bà cụ đưa tay áo lên
lau giọt nước mắt vừa ứa ra, buồn
bã trả lời:
- Bạch cụ, trước kia con có
một đứa con trai. Năm nó 12 tuổi, chỉ
vì một chút bất hòa, nó
đành đoạn bỏ con đi biệt tích. Con
tìm nó suốt 40 năm nay, sức mỏn hơi
tàn nhưng cũng gắng sống chờ gặp lại
nó, nói với nó một câu xin lỗi rồi
mới yên tâm nhắm mắt. Nếu không thế
thì con không có mặt mũi nào nhìn
nhà con dưới suối vàng được ạ.
Rồi như mạch nước
được khai thông, bà cụ run run ngồi xuống
bên Sư, kể hết mọi sự tình. Bà
kể về những tháng năm mẹ con đầm
ấm bên nhau, đến chuyện một bát canh
cua làm đoạn lìa tình mẫu tử. Bà
kể về khoảng thời gian lang thang khắp nẻo,
vừa xin ăn vừa lặn lội tìm con, cho đến
tuổi già còn đau đáu ngóng vời
đứa con biệt dạng. Bà không thấy
rõ mặt Sư, vì giòng lệ nhiều
năm đã làm mờ ánh sáng của
đôi mắt trong, nhưng bà cảm nhận một
sự thân thuộc và tin cậy không tả nổi
với người khách lạ nầy. Cho nên,
tâm sự chất chứa bao năm đầy ắp,
giờ có dịp được trút cạn nỗi
niềm.
Sư sững sờ, ngồi lặng thinh.
Trước mắt Ngài hiện rõ hình ảnh
một đứa bé gầy guộc đen đủi,
mặc chiếc quần cộc đen, ngồi nhìn
đám cua đang khóc trong giỏ, rồi lui cui thả
chúng xuống ao. Đứa bé ra cửa
đón mẹ, hai mẹ con đang nói cười
vui vẻ, bỗng đâu mẹ quắc mắt
nhìn mâm cơm, và một chiếc đòn
gánh phang đến. Vết đau nơi chân
không sâu bằng vết đau trong tâm hồn
non trẻ và sự hoảng sợ khi cậu bất
chợt nhận ra một người khác nơi mẹ
mình, một con người sân hận hung dữ
mà cậu chưa hề gặp. Cậu không biết mẹ
đã biến đi đâu. Người mẹ hiền
từ dịu dàng vẫn vuốt ve ôm ấp cậu.
Cậu ôm đầu chạy trốn con người
hung dữ kia, tai vẫn văng vẳng nghe tiếng
gào thét của hắn. Cậu nhắm mắt chạy
mãi, chạy mãi để trốn tránh những
hình ảnh, những âm thanh ma quái ấy. Cho
đến khi mệt đuối, cậu ngã xuống
một bờ đê, bất tỉnh.
Bà cụ vẫn thủ thỉ kể
chuyện đời mình bằng một giọng đều
đều, nhỏ nhẻ. Sư vẫn ngồi
đó yên lặng, tiềm thức tiếp tục
trỗi dậy những hình ảnh ngày xưa. Bốn
mươi năm dài chỉ như một chớp mắt.
Cậu bé được một vị sư già
đưa về chùa săn sóc, dở tỉnh dở
mê. Cơn chấn động tinh thần dữ dội,
thêm sự nhọc mệt quá độ của thể
xác làm mất hẳn trí nhớ. Cậu
không biết mình con ai, ở đâu, tên
gì, vì sao nằm gục trên đám ruộng
xa lạ. Khi tỉnh dậy nhìn quanh, thấy mình
đang ở trong chùa, bên cạnh là vị
sư già đang nhìn cậu bằng đôi mắt
bao dung, từ ái. Kể từ hôm ấy, cậu
như mới được sinh ra, sống nương cửa
Phật, nhờ ơn giáo dưỡng của sư phụ
trụ trì. Tu hành tinh tấn, giới hạnh
trang nghiêm, cậu dần trưởng thành, trở
nên một vị chân tu thạc đức,
được sư phụ cho kế thừa trụ
trì ngôi tu viện. Trong một đêm thiền
định sâu xa, khi mọi vọng niệm bặt dứt,
trở về với bản tâm thanh tịnh rỗng lặng
sáng ngời, ngài đột nhiên nhớ lại
chuyện xưa. Thời thơ ấu bên người
mẹ hiền sớm hôm tần tảo vụt hiện
ra, rõ ràng như chuyện xảy ra hôm qua. Mẹ
giờ chắc đã già yếu, quạnh quẽ
cô đơn, từng ngày mong ngóng đứa
con duy nhất. Người tu cắt ái từ sở
thân, nhưng không vì thế mà lãng
quên công sinh thành dưỡng dục. Phải
trở về quê cũ, tìm gặp mẹ hiền,
nghĩ cách bù đắp cho Người những
gì mình thiếu sót, báo đền ơn
sâu của Người dù đã muộn
màng.
Sáng sớm hôm sau, Ngài sắp
xếp công việc trong tự viện, giao phó cho
những đệ tử thân tín, bảo là
ra đi có việc cần, khi nào xong việc sẽ
trở về. Một mình Ngài tìm về
làng xưa, nhận không ra quang cảnh cũ. Bốn
mươi năm, bao nhiêu nước chảy qua cầu.
Mái nhà tranh thân thương cạnh bờ ao
rau muống, nay chỉ là mảnh đất cỏ dại.
Đi quanh xóm, không còn một gương mặt
thân quen. Mẹ già đã phiêu bạt
nơi đâu, hay đã ra người thiên cổ?
Bốn mươi năm, hình ảnh mẹ bị phủ
che bởi lớp bụi dày vô ký, con
không hề biết trên đời nầy có mẹ,
thảnh thơi sống trong thiền môn vui với
câu kinh tiếng kệ. Chao ôi! Tu hành mà
làm gì khi một chữ hiếu chưa trả
xong, khi không biết mẹ hiền đang ở
đâu để lo bề phụng dưỡng?
Nhiều năm trôi qua như thế. Ngài
quảy gói làm du Tăng đi khắp hang
cùng ngõ hẹp hỏi thăm tin tức về một
người mẹ mất con. Trả lại câu hỏi
của Ngài, mọi người đều lắc
đầu không rõ. Rất thông cảm và
rất thương cho vị tu sĩ có hiếu,
nhưng không ai có thể giúp Ngài
được gì. Nhiều người góp
ý, có lẽ thời gian qua lâu thế, mẹ
Ngài đã khuất bóng rồi chăng, biết
bà cụ ở đâu mà tìm? Chỉ một
mình Ngài vẫn giữ trọn lòng tin, Phật
Trời không phụ người thành tâm, sẽ
có ngày mẹ con đoàn tụ.
Và bây giờ, sự thật
mà cứ ngỡ trong mơ! Mẹ đang ngồi
trước mặt, đang kể về những năm
tháng đau khổ trong đời. Mẹ kể chuyện
cho người mới gặp lần đầu, sao
có vẻ tin cậy đến thế? Phải
chăng vì từ lâu không có ai lắng
nghe bằng tất cả tấm lòng, hay vì sợi
dây tình cảm thiêng liêng đã rung
lên thành điệu nhạc vô thanh? Nhìn mẹ
say sưa nói mà nội tâm Sư đang bị
đấu tranh bởi hai tư tưởng trái
ngược: Bên nầy là tình cảm
thông thường, Sư muốn ôm chầm lấy
mẹ, khát khao hít đầy lồng ngực
mùi mồ hôi quen thuộc của mẹ. Bên
kia là trí tuệ và lòng từ của một
bậc chân tu, muốn độ mẹ hiền qua biển
khổ sinh tử. Nếu hôm nay Sư nhận mẹ,
đưa mẹ về chùa phụng dưỡng,
thì tình cảm mẹ con sẽ khiến bà
sinh tâm chiếm hữu, ỷ lại và khinh mạn
đối với chư Tăng. Mẹ vẫn còn
tâm chúng sinh với đủ tật tham, sân,
si sao khỏi tổn phước; như thế
thương mẹ mà vô tình làm hại mẹ.
Còn nếu không nhận mẹ con, để mẹ
cứ mãi cô đơn nơi quán nước
hiu quạnh, thì chẳng hóa ra bạc bẽo
tàn nhẫn lắm sao? Làm thế nào trọn
vẹn cả đôi đường, Sư có thể
gần gũi chăm sóc mẹ, hướng dẫn mẹ
tu hành theo chánh pháp, mà mẹ không tổn
phước khi sử dụng của tín thí
đàn na.
Sư trầm tư suy tính. Chợt một
ý nghĩ lóe lên. Ngài mỉm cười
tự nhủ: “Phải, cần phải làm như
thế”. Nắm bàn tay nhăn nheo gầy guộc
của mẹ, Ngài dịu dàng hỏi:
- Này cụ, cụ có muốn theo
tôi về nương cửa Phật chăng?
Bà cụ không tin vào tai
mình:
- Bạch cụ, cụ dạy gì con
không rõ?
Sư thương cảm nhắc lại từng
tiếng:
- Bà cụ muốn theo tôi về
chùa chăng?
Bà cụ mừng rỡ thốt
lên:
- Được thế thì còn
gì bằng? Nhưng .. bạch cụ, con già yếu
thế nầy, đâu thể làm công quả
cho nhà chùa được ạ?
Sư vỗ nhẹ vào tay mẹ:
- Bà cụ đừng lo. Người
khỏe có việc của người khỏe, người
già yếu khắc có việc cho người
già. Bà cụ ở chùa, sớm hôm niệm
Phật, biết đâu nhờ Phật độ
trì mà sớm tìm gặp con mình. Để
tôi về chùa bạch cùng chúng Tăng, nếu
được chấp thuận, tôi sẽ đến
đây đón cụ.
Từ đó, bà cụ về ở am tranh nhỏ sau
chùa
Từ
đó, bà cụ về ở am tranh nhỏ sau chùa. Không ai biết
bà là mẹ của Ḥa thượng trụ tŕ, ngay cả bà
cũng không ngờ ḿnh đang sống cạnh người
con yêu quư. Sáng nào Sư cũng đến thăm bà, hỏi
han sức khỏe, nhắc bà niệm Phật. Việc công
quả hàng ngày, Sư phân công bà nhặt hoa lá rụng trước
am, khỏe làm mệt nghỉ. Công việc bà thích nhất là
nhặt hoa sứ. Cây sứ lâu năm trồng phía trước
am tranh của bà, hoa nở trắng cây thơm ngát. Bà nâng niu
từng đóa, chọn những hoa c̣n tươi rửa sạch,
đặt vào hai bát sứ. Một bát bà dâng cúng Phật - bức
tượng Đức Phật Di-Đà mà Sư đă
đưa đến tặng bà. Bát hoa thứ hai, bà để
trên bàn dành biếu Sư. Mỗi lần đến, Sư
đều ngồi trên chiếc ghế trên bàn, nâng bát hoa sứ
bằng hai tay, nh́n thật lâu vào những cánh hoa, sau đó mỉm
cười cảm ơn bà cụ. Không nói ra nhưng bà cũng
biết Ngài trân trọng tấm ḷng của bà đối với
Ngài. Chỉ có thế cũng đủ làm bà cụ vui suốt
ngày. Bà ôm ấp niềm vui ấy khi làm việc, khi ăn
cơm, khi nghỉ ngơi và cả trong khi ngủ.
Theo lời
dặn của Sư, lúc nào bà cũng cầm trên tay chuỗi
hạt bồ đề do Sư tặng, tay lần chuỗi
miệng niệm thầm Lục tự Di-Đà. Khi làm việc,
bà mang chuỗi vào cổ tay. Như thế, xâu chuỗi hạt
theo bà như h́nh với bóng. Đối với bà, đó là vật
quư báu nhất đời v́ tiếp xúc với nó, bà luôn luôn
gần gũi với Đức Phật và với Ḥa
thượng trụ tŕ - người vừa có t́nh thầy
tṛ vừa có một t́nh cảm nào đó thật lạ mà bà
không dám phân tích. Bà chỉ muốn cố gắng làm vui ḷng
Ḥa thượng bằng cách vâng theo thật đúng, thật
siêng năng những lời chỉ bảo của Ngài. Mà
Ngài có nói ǵ nhiều đâu, chỉ dặn ḍ luôn nhớ niệm
Phật, ăn ngủ điều độ, chớ lo nghĩ
buồn phiền.
Cũng
thật lạ, từ khi về nương dưới mái
chùa, mỗi ngày được Sư đến thăm dù
chỉ giây lát, bà tự nhiên thấy ḿnh vô cùng hạnh phúc.
Nỗi nhớ mong đứa con lưu lạc từ lâu nặng
trĩu, bây giờ bỗng tiêu tan đâu mất. Trước
đây, mỗi khi trời chập choạng tối là bà cảm
nhận sự cô đơn quạnh quẽ hơn bao giờ
hết. Bây giờ cảm giác ấy không c̣n, thay vào đó là
sự b́nh ổn của thân tâm. Đêm đến, bà rửa
mặt sạch sẽ, đến bàn thờ Phật thắp
một nén hương. Bà không biết khấn vái ǵ nhiều,
chỉ dâng lên Đức Phật lời cảm tạ chân
thành v́ đă ban cho ḿnh niềm vui được sống và
tu dưới sự dẫn dắt của Ḥa thượng.
Bà cầu nguyện Đức Phật pḥ hộ độ
tŕ cho Ḥa thượng mạnh khỏe sống lâu để
làm lợi ích cho nhiều người. Sau đó, bà ngồi
xếp chân trên chiếc giường tre, lần chuỗi niệm
danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà. Khi đă mỏi,
bà nằm xuống nhẹ nhàng thảnh thơi đi vào giấc
ngủ.
Ngày
tháng êm đềm trôi qua. Nhờ Ḥa thượng cùng chư
Tăng bổn tự, bà cụ đă được an vui
trong tuổi xế chiều, được đầy
đủ về vật chất trong giới hạn của
người tu, được thấm nhuần Phật
pháp và tu hành theo giáo lư nhà Phật. Bà cụ đă biết gạt
bỏ phiền năo, rửa sạch tập khí, tịnh tu ba
nghiệp, một ḷng niệm Phật cầu được
văng sanh. Có thể nói, đây là giai đoạn hạnh phúc
sung măn nhất trong đời bà.
Một
buổi sáng, bà cụ bỗng lên cơn sốt, đầu
nhức mắt hoa, tay chân rũ liệt. Sư đến
thăm như thường lệ, thấy thế vội lấy
nước bà uống, xoa bóp tay chân bà rồi tự ḿnh xuống
bếp, nấu cho bà bát cháo giải cảm. Bà cụ, tuy
ḷng áy náy v́ sự chăm lo ấy của Sư, nhưng tận
sâu xa của cơi ḷng người mẹ vẫn thấy vô
cùng sung sướng. Bà nhớ ngày xưa, có lần bà bị
mệt, đứa con nhỏ thân yêu của bà cũng quấn
quưt săn sóc bà như thế. Có cái ǵ nửa lạ nửa
quen nơi vị Ḥa thượng khả kính nầy, bà
đă cảm nhận từ lâu nhưng không dám lộ ra. Vả
lại, mọi người đều rất tốt đối
với bà. Họ ân cần đối xử thăm nom bà
như một bà cụ làm công quả, một bà cụ cô
đơn được chùa cưu mang. Và bà th́ có mong
điều ǵ hơn thế, luôn tỏ ḷng cung kính biết
ơn đối với chư Tăng, đặc biệt
sâu sắc biết ơn Ḥa thượng trụ tŕ đă từ
bi ban cho ḿnh những ngày tháng cuối đời thật
b́nh an đầy đủ.
Người
già như ngọn đèn cạn dầu, chỉ cần một
cơn gió nhẹ là lịm tắt. Bà cụ từ trẻ
đến giờ, nhờ Trời tuy lam lũ nhưng ít
đau ốm nặng. Lần này, chỉ một trận cảm
xoàng nhưng sao bao nhiêu sức lực trong người hầu
như cạn kiệt. Toàn thân bà ê ẩm, rét run từng
cơn, môi khô miệng đắng. Mọi việc thuốc
thang chăm sóc, Sư đều tự tay làm một cách chu
đáo tận t́nh. Nhiều lần bà cụ vừa khóc vừa
thưa cùng Sư:
- Bạch
cụ, xin cụ hăy để mặc con, con khắc tự
ḿnh làm được. Cụ chăm con thế nầy, con
e tổn phước lắm ạ.
Sư
dịu dàng nói:
- Phụng sự chúng sinh là cúng
dường chư Phật. Bà cụ chỉ có một
ḿnh, không con không cháu, tôi thay con bà lo cho bà cũng được,
có sao đâu?
Đại
chúng biết chuyện, vừa thương bà cụ vừa
xót cho Sư, nên đưa một nữ Phật tử
đến, bạch rằng:
- Kính
bạch Thầy, vị nữ thí chủ nầy có hoàn cảnh
rất tội nghiệp, chồng con đều mất,
không nơi nương tựa, xin đến chùa ta làm công
quả. Chúng con kính tŕnh Thầy, xem có thể nhờ nữ
thí chủ đây chăm sóc bệnh t́nh bà cụ được
chăng?
Bằng
đôi mắt u ẩn, Sư nh́n người đệ tử,
nh́n sang người phụ nữ đang chắp tay cúi
đầu. Ngài trầm ngâm giây lâu, sau mới bảo:
- Thôi
được, cứ để nữ thí chủ đây ở
chung với bà cụ, hôm sớm có nhau. Hai ngày nữa, Thầy
có việc đi xa vài hôm. Bệnh t́nh bà cụ không biết
sẽ như thế nào, tuổi già thật khó lường
trước được. Mọi việc ở nhà, Thầy
nhờ các chú lo liệu cho. Có điều .. nếu bà cụ
qua đời, các chú hăy thay Thầy làm đủ lễ cho
chu tất, nhưng đừng đậy nắp áo quan.
Đợi Thầy về sẽ tính. Thầy sẽ cố
thu xếp công việc sớm, xong lúc nào Thầy về ngay
lúc ấy.
Trước
khi ra đi, Sư đến am tranh ngồi với bà cụ
rất lâu. Không biết Sư nói với bà những ǵ, trấn
an bà thế nào, nhưng khi Ngài đứng lên từ giă, bà cụ
đă để rơi những giọt nước mắt
hạnh phúc tột cùng. Bà đă trải qua những giây phút
an lạc. Đă được sống trong hào quang của
chư Phật, đă trọn vẹn tin tưởng rằng
khi trút hơi thở cuối cùng, bà sẽ được
văng sanh. Cái chết đối với bà giờ đây
như chuyến đi xa hứa hẹn nhiều điều
kỳ thú, và bà b́nh thản chờ đợi nó. Có điều,
bà hơi băn khoan, không biết Ḥa thượng có trở
về kịp để tiễn đưa ḿnh không. Thật
là lạ trong những giờ phút sau cùng của cuộc
đời, bà lại ít nhớ đến đứa con
lưu lạc của ḿnh, mà chỉ nghĩ về Ḥa thượng
như một nơi nương tựa vững chắc, một
dây liên kết giữa ḿnh và Tam Bảo. Bà nhớ câu chuyện
cổ tích kể về cô gái nghèo nhờ Bụt hóa phép trở
thành người đẹp nhất và hạnh phúc nhất
trần gian. Ḥa thượng có thể là hiện thân của
Bụt, Ngài thương xót hoàn cảnh nghèo khó neo
đơn của bà nên đến với bà bằng tấm
ḷng từ bi - ban vui và cứu khổ.
Ḥa
thượng đi rồi, đại chúng phân công nhau hàng
ngày trợ niệm cho bà cụ. Bà không mở mắt nổi,
thở yếu dần nhưng tai vẫn nghe, ư vẫn duyên
theo từng tiếng niệm Phật. Những h́nh ảnh dĩ
văng lần lượt hiện về, từ thuở nhỏ
mồ côi đến khi lấy chồng sinh con, nhất là
thời gian bốn mươi năm đằng đẵng
lang thang t́m kiếm đứa con mất tích. Bà thấy rơ
đời ḿnh quá nhiều đau khổ mà chẳng có mấy
niềm vui. Chỉ từ lúc gặp Ḥa thượng,
được nương nhờ cửa Phật, bà mới
biết thế nào là hạnh phúc. Nhờ Ḥa thượng chỉ
dạy, bà hiểu rằng do bao đời trước bà
đă tạo nhân xấu, nên kiếp nầy bà phải nhận
quả khổ. Bà không c̣n oán trách người, một ḷng niệm
Lục tự Di-Đà nguyện khi chết được
văng sinh về Tây phương Cực-Lạc, nơi có Đức
Phật A-Di-Đà và Bồ-tát Quán Thế Âm. Làng xưa của
bà có một ngôi chùa nhỏ, trước sân chùa là bức
tượng Mẹ hiền Quán Thế Âm cầm tịnh
b́nh và nhành dương liễu. Gương mặt mẹ thật
dịu hiền, đôi mắt từ ái nh́n bà mỗi khi bà
đến chắp tay cung kính lễ. Chỉ cần nh́n
gương mặt ấy, đôi mắt ấy, bà đă thấy
trong ḷng ấm áp, bao nhiêu buồn đau hận tủi tự
nhiên vơi nhẹ đi nhiều.
Nghĩ
đến Mẹ hiền Quán Thế Âm, đến Đức
Phật A-Di-Đà, tâm bà cụ chợt lắng xuống, chỉ
c̣n hiển hiện sáu chữ Nam mô A-Di-Đà Phật tràn
đầy khắp không gian, lồng lộng đất trời.
Bà đột nhiên thấy ḿnh rơi vào một đường
hầm sâu hun hút, và cuối đường hầm ấy
là một vùng ánh sáng chan ḥa rực rỡ. Và ḱa! Đức
Phật A-Di-Đà và chư Thánh chúng hiện ra rơ ràng trước
mắt bà, lung linh trong ṿng hào quang chói lọi. Vị Bồ-tát
đứng bên phải Đức Phật cầm một
hoa sen hé nở, tỏa hương thơm ngát. Bồ-tát
Quán Thế Âm đứng bên trái, h́nh dáng quen thuộc với
tịnh b́nh và nhành dương liễu. Ngài mỉm cười
với bà, phẩy nhẹ cành dương về phía bà. Lập
tức, bà cảm nhận những giọt nước mát
thấm đượm vào từng lỗ chân lông, người
thấy nhẹ nhàng thanh thản lạ lùng. Bao nhiêu đau
đớn của thể xác tự nhiên biến mất, bà
như ngợp đi, như ḥa tan vào trong vùng ánh sáng huyền
diệu của chư Phật Bồ-tát.
Một
mùi hương nhẹ nhàng ở đâu tỏa ra khắp
pḥng. Mọi người nh́n nhau thầm hỏi. Bà cụ vẫn
nằm đó, gương mặt rạng rỡ b́nh an
như đang trong giấc ngủ say không mộng mị. Một
âm thanh nào trên cao khi gần khi xa, thoạt có thoạt không,
thánh thoát du dương chưa từng có trong đời. Bà
cụ ra đi an lành thanh thản quá đỗi, như
đă rũ sạch mọi trần lao phiền năo, mọi
gánh phiền năo của suốt mấy mươi năm trả
nợ trần gian.
Những
việc hậu sự cho bà cụ được chư
Tăng và Phật tử bổn tự thực hiện chu
đáo, theo lời dặn của Ḥa thượng trước
đây. Bà cụ được tẩm liệm, được
đặt vào chiếc áo quan chưa đậy nắp, luôn
có người bên cạnh hương khói tụng niệm
suốt ngày đêm. Tất cả mọi người, kể
cả bà cụ trong quan, đều như mong ngóng Ḥa
thượng trở về.
Và Ngài
đă về, hai ngày sau khi bà cụ mất. Vừa đến
chùa, chưa kịp rửa mặt, Sư đă vội
đi qua am tranh. Từng bước chân chánh niệm theo
công phu từ lâu hành tŕ, nay gấp gáp hơn. Biết tâm
hơi xao động, Sư vội hít vào sâu thở ra dài
vài lần. Trở về với tâm an nhiên, Ngài bước
vào ngưỡng cửa. Mẹ Ngài như trong giấc ngủ,
gương mặt vẫn tươi, nụ cười
như đang phảng phất trên môi. Tưởng chừng
chỉ cần Sư lên tiếng gọi, bà sẽ mở mắt
ra, cười với Ngài một nụ cười móm mém
và hồn nhiên như trẻ nhỏ.
Thắp
nén hương trầm cắm vào bát hương c̣n nghi ngút
khói, Sư chậm răi từng bước đi quanh quan tài
bà cụ ba ṿng. Đại chúng đang tụ tập trước
am, ngạc nhiên từng cử chỉ lạ lùng của Ḥa
thượng. Chẳng ai hiểu v́ sao một vị Ḥa
thượng đạo cao đức trọng mà lại có
thái độ thành kính khác thường đối với
bà cụ không họ hàng thân thích. Từ khi bà cụ về
đây, Ngài không chỉ ban cho bà sự thông cảm, bao dung,
mà c̣n có cái ǵ ân cần, quan tâm đặc biệt. Cho đến
hôm nay, thấy Ngài đi nhiễu quanh bà cụ ba ṿng bằng
những bước chân tuy nhẹ nhàng nhưng có vẻ trầm
tư, câu hỏi "Phải chăng có mối liên hệ
nào giữa Ḥa thượng và bà cụ?" từ lâu âm ỉ
chợt dấy lên trong tâm đại chúng. Có lư nào ..
Tiếng
Sư vang lên làm mọi người giật ḿnh lắng
nghe:
-
Đức Phật từng dạy: "Một người
tu đắc đạo, cửu huyền thất tổ
sinh thiên". Nếu quả thật lời nầy không
hư dối, xin Tam Bảo chứng minh cho lời nguyền
của đệ tử: Chiếc quan tài nầy sẽ bay
lên hư không!
Ḥa
thượng vừa dứt tiếng, chiếc quan tài bỗng
như có một lực đẩy, từ từ nâng lên cao,
sát mái am tranh, lơ lửng. Mọi người đồng
loạt quỳ xuống, chắp tay, ngẩng mặt nh́n
lên trong một niềm kính ngưỡng tột cùng. Mắt
Ḥa thượng sáng ngời, an trú trong giây phút hiện tại
tuyệt vời, một giây mà đằng đẵng thiên
thu. Tâm hiếu của người con ḥa lẫn trong tâm từ
của một bậc chân tu đắc đạo, nở
tung như đóa sen tỏa hương tinh khiết, tuy vô
h́nh mà bất diệt, tuy vô thanh mà tràn ngập âm hưởng
diệu kỳ, tuy vô tướng mà chan ḥa khắp cùng cơi giới.
Khi chiếc
áo quan nhẹ nhàng trở về chỗ cũ, người
ta thấy gương mặt bà cụ - bây giờ đă rơ
là thân mẫu của Ḥa thượng trụ tŕ -
tươi nhuận rạng rỡ. Mùi hương lạ lại
tỏa ra phảng phất quanh nhà. Mọi người
đứng bất động, đắm ḿnh trong niềm
phúc lạc ngàn năm chưa dễ có.
Nơi
quán nước ngày xưa của mẹ, Sư lập một
ngôi chùa đặt tên là Mại trà lai Tự. Am tranh mẹ từng
ở có tên là Dưỡng mẫu Đường, sớm
chiều khói hương nghi ngút.
Ḥa
thượng để lại cho đời một tấm
gương đại hiếu sáng ngời muôn thuở. Ngài là Thiền sư Tông Diễn,
hiệu Chơn Dung (1640-1711), đời vua Lê Hy Tông, thuộc
tông Tào Động, quê ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang.
Chính Ngài, bằng phương tiện thiện xảo,
đă giúp nhà vua cải ác tùng thiện, quay về với Phật
pháp. Đối với triều đ́nh và môn đồ, Ngài
là Thiền sư Tông Diễn; nhưng đối với dân
chúng, Ngài là Ḥa Thượng Cua - cái tên dân dă mộc mạc
nhưng thật gần gũi thân thương. H́nh ảnh
Ngài trong ḷng mọi người, đẹp đẽ chói
ngời muôn thuở, không phải là h́nh ảnh của vị
Thiền sư, càng không phải của một tu sĩ
được vua ban chức Ngự Tiền Chi Quân và áo gấm.
Đó là h́nh ảnh của một bậc chân tu tốt
đời sáng đạo, vừa tu hành có kết quả vừa
lo tṛn chữ hiếu đối với mẹ già một
cách vượt thường đầy trí tuệ.
Chúng
ta ôn chuyện người xưa để tự nhắc
ḿnh một tấm gương đại hiếu sáng ngời.
Không chỉ Ấn Độ mới có chuyện Đức
Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất; không chỉ Trung Hoa mới
có chuyện 24 người con hiếu thảo, mà ở Việt
Nam ta cũng có những câu chuyện thật đă làm cảm
động ḷng Trời. Ḥa
thượng Cua đă lo cho mẹ những ngày cuối
đời hạnh phúc, lại độ mẹ được
văng sanh về cơi lành. C̣n chúng ta, đă báo hiếu cho
cha mẹ những ǵ khi các Người c̣n sinh tiền và khi
đă khuất bóng? - Đó là câu hỏi mà mỗi người
chúng ta, không phân biệt tôn giáo, tuổi tác, không kể xuất
gia hay tại gia, đều tự ḿnh suy gẫm và t́m cách
trả lời.