Cái Bếp của
Dân Tị Nạn
(Phạm Xuân Đài)
Vào khoảng
cuối thập niên 1990, một đài phát thanh ở Orange
County, Nam California có mục "Chúng ta đi mang theo quê
hương". Đó là mục điểm lại một
cách nghệ thuật những ǵ thuộc nếp sống Việt
Nam mà người Việt tị nạn tại đây thể
hiện lại trong đời sống hằng ngày của
ḿnh. Thật ra khi đă quần tụ thành một khu
được nước Mỹ chấp nhận gọi
là Tiểu Sài G̣n th́ c̣n ngại ngùng ǵ mà không sống tự
nhiên với tất cả thói quen văn hóa cố hữu sẵn
có? V́ thế mục "Chúng ta đi mang theo quê hương"
của VNCR tha hồ có đề tài mà khai thác. Có những
chuyện nếu ở quê nhà th́ chẳng ai cần nói đến
làm ǵ, v́ thường quá, nhưng một khi đă "mang
theo" đến tận đây trên đường
lưu lạc th́ cái thường cũng trở thành quư - mà
h́nh như càng thường th́ càng quư. Những chuyện
văn hóa cao sang như sách vở, văn học, nghệ
thuật th́ không nói làm ǵ, cộng đồng nào sang xứ
Mỹ cũng ráng bê theo để chứng tỏ bản sắc
của ḿnh. Nhưng những cái gần với nhu cầu tự
nhiên của đời sống, mà trước hết là
đồ ăn thức uống, mà "mang theo"
được mới là hay, v́ chuyện bếp núc muôn
đời vẫn là chuyện lỉnh kỉnh, để tại
chỗ nó đă lỉnh kỉnh rồi, mang đi xa ngàn dặm
th́ càng phức tạp khó khăn.
Thế mà cuối
cùng người Việt Nam mang cả cái bếp cổ truyền
của ḿnh sang đất Mỹ - và dĩ nhiên sang nhiều
nơi khác nữa trên thế giới. Bếp cổ truyền?
Đó là ba ông táo hoặc cái kiềng ba chân, đội những
cái nồi đất hay nồi đồng đen thủi
đen thùi, đun bằng củi hay rơm? Thưa không phải
đâu, "bếp" ở đây xin hiểu là nội
dung nấu nướng, nói nôm na là thức ăn được
nấu bởi người Việt Nam, chứ không phải
phương tiện đun nấu. Thực ra về h́nh thức
th́ cái bếp của người Việt đă biến
đổi rất nhiều trong hậu bán thế kỷ 20,
nhất là ở miền Nam, từ ba ông táo nấu củi
chuyển qua ḷ nấu than, rồi ḷ dầu hôi, rồi ḷ
ga, ḷ điện ngay từ trước năm 1975. "Cổ
truyền" đây chính là khẩu vị đă được
truyền qua nhiều thế hệ. Khẩu vị của
một dân tộc ít khi thay đổi lắm, hoặc có
thay đổi cũng rất chậm. Một cái "gu"
ăn uống có thể thành h́nh trải qua hàng ngàn năm chọn
lọc với tất cả cái khôn ngoan của một cộng
đồng người, một khi thành h́nh rồi th́ nó
thành một cái thói quen mà người ta hay gọi là "quốc
hồn quốc túy", truyền đời nọ qua đời
kia.
Người
Việt ra nước ngoài vẫn tiếp tục nấu thức
ăn của ḿnh. Bạn thử ghé lại những nơi
người Việt tụ tập đông đúc mà xem, có thứ
thức ăn nào vắng mặt không. Mà đặc biệt
có đủ thức của ba miền Trung Nam Bắc, kể
cả những thứ rất địa phương, rất
dân giă mà nếu ở trong nước th́ bạn phải
đến tận địa phương đó mới có
được. Và ở trong nước th́ thường v́
dân giă quá nên cũng chẳng ai để ư. Chẳng hạn
món cà pháo mắm tôm với canh rau đay của miền châu
thổ sông Hồng, món "bánh đập" của Hội
An (bánh tráng nướng "đập" vào bánh ướt,
chấm mắm nêm) th́ ở Việt Nam ai đem vào nhà hàng
làm ǵ. Thậm chí món ba khía - đại khái là một món mắm
cua đồng - rất đặc thù của đồng bằng
sông Cửu Long cũng được một số các bà nội
trợ thực hiện trong những bữa ăn đầy
tính cách hoài niệm những hương vị dân giă
xưa. C̣n nói ǵ các loại mắm phổ thông của Việt
Nam như mắm nêm, mắm ruốc, mắm thái, mắm tôm
(kiểu Bắc), dưa mắm, mắm tôm chua (kiểu Huế),
mắm tôm chà G̣ Công, mắm cá thu .. vẫn xuất hiện
đều đặn trong các bữa cơm gia đ́nh Việt
Nam tị nạn, mặc dù có thể càng ngày người ta
càng ư thức rằng các loại mắm của chúng ta quá mặn,
ăn nhiều và thường xuyên th́ không tốt cho sức
khỏe, nhất là đối với những người
lớn tuổi hay bị chứng áp huyết cao.
Nhưng mắm
chỉ là một thức ăn phổ thông, nhấn mạnh
điểm đặc trưng của một dân tộc sống
bên cạnh một bờ biển quá dài và trong xứ th́ có nhiều
sông ng̣i. Một cuộc sống với quá nhiều thủy
sản th́ kết quả là sẽ có cá khô, mực khô, tôm khô
và vô số mắm, làm thành một loạt thức mặn
để ăn với cơm, coi như là những thức
ăn cơ bản, b́nh dân, chưa có biến chế màu mè.
Nhưng với
một cách biến chế thủy sản cao cấp
hơn, chúng ta có nước mắm, một loại "sauce"
có khả năng khẳng định hẳn đặc
tính khẩu vị của dân tộc Việt Nam. Dù chúng ta có
tái hiện bao nhiêu thứ thức ăn của ḿnh nơi hải
ngoại mà thiếu nước mắm th́ kể như ..
huề, nghĩa là sẽ không có thức ăn Việt Nam
đúng nghĩa. Sự việc người Việt Nam hải
ngoại được tiếp tế đầy đủ
nguồn nước mắm là một sự việc vô cùng
quan trọng để có thể bảo tồn văn hóa
ăn uống trong hoàn cảnh ly hương. Không có nước
mắm th́ sẽ không có chả gị, không có phở, không có hủ
tiếu, không có ḿ quảng, không cá kho thịt kho, không thịt
đông dưa giá .. ; không nước mắm, cái bếp tị
nạn của chúng ta sẽ nguội lạnh đi nhiều.
Sau nước
mắm và những thứ mắm là các loại rau để
giữ ǵn đúng khẩu vị. Người Việt Nam
ăn rau "với" thức ăn chứ rau không
được dùng một cách độc lập như một
món xà lách của người Âu Mỹ. Những loại rau,
nhất là rau mùi đóng một vai tṛ đáng kể để
khẳng định một món ăn. Chả cá th́ phải
th́a là. Bún ốc, bún riêu mà thiếu kinh giới, tía tô với
rau muống chẻ th́ "chưa đúng". Canh chua miền
Nam ăn với rau ng̣ om và ng̣ gai. Hủ tiếu mà không có
giá sống và cần tàu th́ quả là "chưa đủ".
Ḿ quảng ăn với rau ghém, trong đó phải có bắp
chuối, mới là đúng điệu. Chả gị phải
có rau diếp và vô số rau thơm đi kèm. C̣n nói ǵ những
món cuốn bánh tráng, bất cứ cuốn với cá thịt
ǵ cũng phải có rau, đến nỗi người ta
không thể h́nh dung một loại cuốn nào mà lại thiếu
màu xanh của thực vật nằm ở trong! Và cũng
may là ở vùng Little Saigon này người Việt đă xoay
xở có đủ các thứ rau cho đủ loại thức
ăn của ḿnh, từ vùng nam Cali kéo dài qua Mễ khí hậu
có thể thích hợp với các loại húng, quế, th́ là,
kinh giới, rau răm, cà, bí, bầu .. quanh năm. Nếu
trục trặc th́ đă có nguồn tiếp tế từ
vùng quần đảo Hạ Uy Di, một vùng khí hậu tuyệt
vời ấm áp quanh năm và thổ ngơi có thể trồng
đủ loại rau trái nhiệt đới.
Các bà nội
trợ người Việt di dân c̣n ham nấu nướng
lắm - ở đây là nói các bà thuộc thế hệ thứ
nhất - ngoài lư do tránh bớt việc đi ăn tiệm
để tiết kiệm tiền, các bà c̣n ư thức rất
rơ bữa cơm đông đủ cả nhà là sợi giây nối
liền t́nh cảm của các thành viên trong gia đ́nh, ở
đó mỗi món ăn là tấm ḷng của người vợ,
người mẹ, ăn cơm là thưởng thức
không những tài nấu nướng những món đậm
đà hương vị quê nhà mà c̣n hưởng thụ cái
tấm ḷng đó. Các bà mẹ là những người ǵn giữ
sự bền chặt của gia đ́nh hữu hiệu nhất.
Các bà có bí quyết dùng vật chất để giữ tinh
thần, cũng giống như hồi c̣n son trẻ các bà
dùng chính bầu sữa của ḿnh truyền ḍng sống vào
cho đứa con để từ đó ǵn giữ một mối
t́nh cảm vô bờ là t́nh mẫu tử. Bữa ăn là lúc
cả nhà trao đổi, chia sẻ, giải quyết mọi
vui buồn của cuộc sống, các khó khăn, thuận
lợi của việc học, việc làm, nhờ đó giữ
được sự bền chặt tập thể gia
đ́nh, gia tộc trong một xă hội quá đề cao tự
do cá nhân. Dĩ nhiên tới một tuổi đủ lớn
th́ con cái sẽ ra đi, nhưng t́nh gia đ́nh vẫn c̣n
đậm trong ḷng họ nhờ phần lớn dư vang
không khí và hương vị của những bữa ăn
gia đ́nh mà họ đă được hưởng suốt
thời thơ ấu và niên thiếu.
Thức
ăn Việt Nam có thể nói là một yếu tố
văn hóa Việt có ảnh hưởng lớn nhất trên
lớp trẻ con em của chúng ta ở hải ngoại. Dĩ
nhiên người Việt Nam di dân cũng đă cung cấp
đủ loại thức ăn tinh thần và t́nh cảm
như báo chí, sách vở, băng nhạc, ngay cả sân khấu
và phim ảnh, ngay cả tín ngưỡng và y phục,
nhưng chắc chắn phở, hủ tiếu, cơm tấm,
bún ḅ, ḿ quảng và vô số thức ăn ngon lành khác thuộc
các bữa cơm gia đ́nh là những thứ gần gũi
với lớp trẻ hơn cả, và làm cho họ mê nhất.
Tỉ lệ giới trẻ đi ăn tiệm Việt
Nam rất cao, ít nhất là cao hơn hẳn tỉ lệ
này trong việc đọc sách báo Việt Nam, hoặc nghe ca
nhạc Việt Nam. Và họ cũng mê các quán cà phê, ở
đó họ được uống cà phê pha theo lối Việt
Nam, được ăn nói cư xử theo lối "người
ḿnh", nghĩa là thoải mái, không phải quá giữ ǵn
cung cách như khi vào quán tiệm của người Tây
phương.
Rất nhanh,
người tị nạn Việt Nam thoát khỏi cảnh
đi ở nhà thuê để mua nhà cho riêng ḿnh, sự kiện
này có thể coi là một điểm đặc biệt của
người Việt khiến người bản xứ cũng
lấy làm lạ. Một cái nhà mua từ người bản
xứ th́ dĩ nhiên từ trong ra ngoài rất Mỹ, phản
ảnh quan niệm mỹ thuật và nhân sinh quan Tây
phương. Người Mỹ sống rất tươm
tất và sạch sẽ, trong nhà không mấy khi có bàn thờ,
cách bài trí thường đơn sơ, sáng sủa và rất
mỹ thuật. Vườn th́ băi cỏ xanh được
săn sóc kỹ, đây đó trồng hoa và một ít cây
ăn trái. Nh́n chung cách xếp đặt từ trong nhà ra
ngoài vườn rất ngăn nắp, khoa học, đâu
ra đó, với một khiếu thưởng ngoạn mỹ
thuật cao. Khi vào tay người Việt Nam th́ cả khung
cảnh ấy được Việt hóa rất nhanh, không
mấy nhà giữ được sự sạch sẽ
ngăn nắp cũ. Ngoài bản tính luộm thuộm cố
hữu trong lối sống của người ḿnh, chính cái
ăn đă phá vỡ rất nhiều cảnh quan của
căn nhà mua từ người Mỹ. Người ḿnh
chưa tách không gian sinh tồn của ḿnh ra khỏi sự
ăn uống. Trong khi người Mỹ đă đơn giản
hóa sự nấu nướng đi rất nhiều, đến
độ nhiều nhà cái bếp quanh năm sạch bong v́
không mấy khi dùng đến (v́ đă có cái microwave với
những bữa ăn làm sẵn), th́ đối với ta,
công suất của cái bếp đă được tận
dụng tối đa. Những nước mắm, mắm
nêm, cá kho thịt kho, lẩu mắm, canh chua, những hành tỏi
tiêu ớt .. (và, đôi khi, cả mùi thuốc bắc
đang sắc nữa) được dùng liên tục hằng
ngày đă tạo một cái mùi đặc biệt cho các
căn nhà Việt Nam tại Mỹ. Có cái lạ là khi ở
Việt Nam chúng ta nấu nướng c̣n "ác liệt"
hơn bây giờ nhiều mà không hề nghe mùi mằn ǵ cả,
ấy là chưa kể ở đây bà nội trợ nào cũng
chê máy hút khói của Mỹ yếu quá, thay thế bằng những
máy hút cực mạnh của Đài Loan, thế mà nhà vẫn
bám mùi. Người ta nói có t́nh trạng ấy v́ nhà của
Mỹ kín quá, không mở rộng cửa cho gió lùa thông thống
như ở Việt Nam.
Khi ở
trong nước, phụ nữ Việt Nam thường
người xứ nào chỉ chuyên nấu món quen thuộc của
xứ ḿnh thôi, ví dụ bún thang, bún ốc là sở trường
của người Bắc, bún ḅ, ḿ quảng của người
Trung, hủ tiếu, lẩu mắm hầu như là độc
quyền của người Nam. Ra đến nước
ngoài th́ cái ranh giới bắc trung nam ấy đă được
xóa nḥa đi nhiều, các bà nh́n món nào cũng là món Việt
Nam cả, và học nấu những món của các địa
phương khác trước kia không có trong truyền thống
gia đ́nh hay địa phương của ḿnh. Rất nhiều
bà nội trợ bây giờ có thể nấu cả phở,
hủ tiếu, bún ḅ và vô số món linh tinh khác có nguốn gốc
xuất xứ rất xa nhau, để khoản đăi trong
phạm vi gia đ́nh. Càng nhiều món th́ nhà lại càng phảng
phất "hương thừa dường vẫn ra vào
đâu đây" một cách dai dẳng.
Nhưng cái
ăn không chỉ ảnh hưởng trong nhà, cái ăn c̣n
ra cả ngoài vườn. Người Việt Nam cũng rất
thích mỹ thuật, trong vườn hay trồng nhiều
loại hoa, nhưng ḷng yêu mỹ thuật không bao giờ lớn
đủ để đánh bạt nhu cầu về ăn
uống, kết quả là bất cứ nhà nào cũng có trồng
rau. Chúng ta chưa thoát khỏi năo trạng xem đất
đai quanh nhà ḿnh là một cái ǵ độc lập với
chuyện ăn uống của ḿnh, trái lại đó phải
là nguồn cung cấp, ít th́ các loại rau thơm như
húng cây, húng lủi, lá quế, tía tô .., nhiều th́ cải
xanh, cải ngọt, rau muống, ớt, mùng tơi, bạc
hà, có thể c̣n tiến lên đến những bụi sả
to tướng, những hàng cà chua, cà bát, cà pháo, hoặc những
giàn bầu, bí, mướp, thậm chí có cả những
giàn gấc để lấy trái nấu xôi gấc nữa
ḱa! Có lẽ cái ư niệm 'vườn rau sau hè' trong nếp
sống tự cấp tự túc đă gắn chặt vào con
người Việt Nam từ nhiều đời quá rồi,
nay định cư tại một nơi có khí hậu thuận
lợi như Nam California th́ việc trồng rau có thể
coi như một phản ứng tự nhiên, gần như
bản năng, mặc dù hệ thống siêu thị cũng
đă cung cấp không thiếu thứ rau quốc hồn quốc
túy nào cho người Việt.
Sự xuất
hiện ngày càng nhiều và ngày càng phát đạt của những
chợ thực phẩm Việt Nam trong vùng quận Cam chứng
tỏ nền ăn uống của chúng ta được củng
cố rất mạnh mẽ. Người tị nạn vẫn
c̣n dị ứng với các sản phẩm văn hóa
được chính quyền trong nước sản xuất
và bán ra, kể cả những chuyến lưu diễn của
các ca sĩ, kịch sĩ dù đă cố t́nh không mang một
màu sắc chính trị nào rơ rệt, nhưng với thức
ăn th́ dân tị nạn không "phân biệt đối xử"
v́ thấy dù sao tự căn bản đó cũng là sản
phẩm của thiên nhiên, từ đất đai sông ng̣i của
xứ sở tự bao đời tổ tiên để lại,
và do bàn tay của bao người Việt Nam chân chính vun quén
mà nên. Nhất là các bà nội trợ th́ rất khó nh́n thấy
một ư nghĩa chính trị khi cầm trên tay một chai
nước mắm hay một con cá bông lau từ Việt Nam
bán sang, hay là một tay ghiền cà phê khi pha một tách cà phê
Ban Mê Thuộc th́ vẫn rất sung sướng gặp lại
một cái gu thân thuộc đă rời xa bao nhiêu năm! ..
Con đường đến bao tử lại chính là con
đường ít chính trị nhất, hoặc trong nhiều
trường hợp người ta có thể v́ đó mà thay
đổi một đường lối chính trị. Chẳng
hạn, người cộng sản ở trong nước
từ khi ngửi thấy mùi đô la từ tay đám dân tị
nạn nước ngoài th́ bỗng đổi giọng
điệu, không c̣n gọi người tị nạn là 'phản
quốc,' là 'tôi tớ đế quốc,' mà lại là 'khúc
ruột ngh́n dặm.'
*
Một khi
các thứ căn bản đă đầy đủ th́ c̣n
đợi ǵ mà không nấu thức ăn của ḿnh?
Nh́n chung những
món ăn phổ biến ngoài xă hội, Phở là món dẫn
đầu, được nhiều người ưa thích
nhất. Phở phát xuất từ miền Bắc Việt
Nam, nguồn gốc của nó như ai là người sáng chế
ra, ở đâu, từ bao giờ .. th́ cho đến nay
chưa được xác định, mà chỉ mới có
qua một số giả thuyết. Nó có vẻ không xưa lắm
để có thể liệt vào loại món ăn cổ truyền
của Việt Nam, nhưng vị ngon của nó đă
được khẳng định từ lâu trên đất
Bắc, và cái tên Phở Bắc đă thông dụng từ những
thập niên tiền bán thế kỷ 20 như một nhăn hiệu
tŕnh ṭa - dĩ nhiên Ṭa đây là dân gian. Tên ấy khẳng
định phở là món ăn của xứ Bắc Kỳ,
không trật vào đâu được. Trước năm
1954 rất ít địa phương nào của miền
Trung hay miền Nam có tiệm phở, phở chính thức ra
đi khỏi cái nôi của nó từ cuộc di cư của
đồng bào miền Bắc sau hiệp định Genève.
Đó là chuyến ra đi rất lớn của dân tộc
Việt Nam, và trong đám hành lư thượng vàng hạ cám của
người dân di cư, có công thức nấu phở. Phở
chinh phục rất nhanh các địa phương miền
Nam, hiểu là từ phía nam vĩ tuyến 17. Trong thập
niên 50, Sài G̣n và một số nơi vẫn c̣n phở gánh, một
h́nh ảnh rất là Hà Nội, nhưng sau đó th́ biến
mất dần, để thành phở xe hay là đi thẳng
vào các cửa hiệu.
Sau 1975 phở
lại có dịp ra đi một lần nữa, và lần
này là một chuyến đi rất là thỏa chí tang bồng,
đi khắp thế giới. Hai triệu người ra
đi th́ làm sao mà quên món phở của ḿnh được!
Giở thử niên giám điện thoại của nhật
báo Người Việt tại miền Nam Cali, mục
Restaurant, th́ thấy số tiệm chuyên bán phở ở
vùng quận Cam và một phần Los Angeles là 66 tiệm! Chắc
chắn con số thực thụ những nơi có bán phở
c̣n cao hơn nhiều, v́ rất nhiều hiệu ăn tuy
không chuyên bán phở nhưng trong thực đơn vẫn
có món phở. Phở là món ăn Việt Nam duy nhất
được tổ chức dây chuyền trên nhiều
thành phố, như Phở Ḥa chín địa điểm, Phở
79 bảy địa điểm quanh vùng quận Cam, v.v ..
Không rơ thời
Pháp thuộc th́ mấy ông Tây với đầu óc thực
dân có thích thú và tán dương món ăn nào của Việt
Nam không. H́nh như không. Thời ấy có một ít ông lấy
vợ Việt Nam, nói tiếng Việt và ăn mắm tôm
đều rất sơi, nhưng một món ăn khiến giới
cai trị thừa nhận th́ không. Trời ơi, dân Pháp có
tiếng là sành ăn sành uống, nước Pháp lại là
nước đi khai hóa, dễ ǵ nó công nhận một giá
trị ẩm thực của cái thứ dân thấp kém,
ăn ở không hợp vệ sinh mà nó đang ra công dạy
dỗ (và bóc lột)!
Măi đến
giữa thập niên (19)60, khi người Mỹ hiện diện
đông đúc tại Nam Việt Nam th́ món chả gị bắt
đầu nổi tiếng. Có thể nói chả gị là một
món không thiếu được trong các buổi tiếp tân
của người Mỹ hay những bữa tiệc mời
người Mỹ do người Việt Nam khoản
đăi. Người Mỹ tiếp xúc với các nền
văn hóa lạ với thái độ cởi mở hơn
người Pháp, có lẽ do cái bản chất "hợp
chủng quốc" của họ. Nhưng thời gian
đó th́ người Mỹ lại không mấy để ư
đến món phở vốn đă đầy rẫy trên phố
phường Sài G̣n.
Có lẽ họ
cho đó là món ăn "ngoài phố", và ngoài phố th́
họ để ư đến những thứ thích thú
hơn là đi t́m món ăn! Phải chờ khoảng gần
hai chục năm sau khi những người Việt đầu
tiên di dân vào đất Mỹ, họ mới thực sự
chú ư đến món ăn này. Hai chục năm là thời
gian gầy dựng cuộc sống của người Việt
Nam, quy tụ dần thành cộng đồng, và từ
đó những nét mang cá tính của đời sống vật
chất và tinh thần mới từ từ tỏ lộ hẳn
ra. Không biết là người ta lập tiệm phở
trước hay xuất bản báo trước, nhưng chắc
chắn những tờ báo đầu tiên cũng như những
tô phở đầu tiên đều c̣n rất đơn
sơ thiếu sót chứ không hùng hậu xuất sắc
như ngày nay. Và chắc rằng phở chinh phục người
Mỹ cũng qua một tiến tŕnh từ từ chứ
không đột biến. Người ta dần dần nhận
ra rằng đó là một món ăn ngon và bổ dưỡng
đă đành, mà c̣n là một món ăn "lành". Giữa
trận chiến đấu của người Mỹ với
những loại thức ăn chứa nhiều chất béo
khiến cholesterol cao, gây ra cái chết v́ tim mạch ngày càng
tăng th́ phở xuất hiện thanh đạm, với
nước trong, bánh trắng, thịt thà vừa phải, lại
bốc mùi thơm ngào ngạt, người Mỹ đón tiếp
phở ngày càng niềm nở, để đến năm
ngoái, phở đă đánh bại món Taco của Mễ để
đạt được danh hiệu là món ăn ngoại
quốc được ưa chuộng nhất tại
nước này. Và rơ ràng trong các buổi cùng gia đ́nh đi
ăn đồ ăn Á Đông, người Mỹ đang
có khuynh hướng vào tiệm phở hay Vietnamese Restaurant
hơn là những Chinese Restaurant lâu đời đầy dầu
mỡ. Quả thật nếu so sánh thực đơn giữa
Việt và Tàu, th́ thấy món ăn Việt lành hơn nhiều
v́ thanh cảnh, rất ít chất béo, ít biến chế với
quá nhiều gia vị bí ẩn cầu kỳ, khiến
người ta có cảm tưởng thức ăn Việt
gần với vị ngon ngọt nguyên thủy của thức
ăn trong trạng thái thiên nhiên hơn. Một miếng thịt
ḅ hay thịt gà trong tô phở th́ chẳng cần ướp
gia vị ǵ cả, cứ có sao ăn vậy, thế mà cái
chất ngọt của nó lại quyến rũ giữa
nước lèo nóng hôi hổi và thơm ngát, với bánh phở
dẻo, hành tươi hơi hăng nồng.
Nói về
chuyện ăn uống của người Việt Nam mà
quên những bữa cơm chay th́ là một thiếu sót lớn.
Trong truyền thống Việt Nam, "ăn chay" gắn
liền với Phật giáo, đó là một sinh hoạt biểu
hiện chủ trương tôn trọng sự sống của
muôn loài cộng với một quan niệm rất khoa học
để giữ ǵn sức khỏe và sự sáng suốt
cho tinh thần. Phật tử di dân dĩ nhiên cũng mang
theo cái bếp nấu cơm chay của ḿnh, một cái bếp
nhỏ cho gia đ́nh và những cái bếp lớn trong các
ngôi chùa mọc lên càng ngày càng nhiều trong các cộng đồng
tị nạn. Một điều không ngờ là ăn chay
đă nhanh chóng thoát ra khỏi ṿng sinh hoạt của một
tín ngưỡng để thành một sự kiện phổ
biến trong xă hội, được chấp nhận và
yêu chuộng rộng răi. Có mấy lư do: đạo Phật
ngày càng có ảnh hưởng trong xă hội Tây
phương, người ta t́m thấy ở đó những
phương pháp tu tập cụ thể và hữu hiệu -
trong đó hẳn có việc ăn chay - để ra khỏi
các bế tắc mà người ta cảm thấy ngày càng
nhiều trong đời sống khoa học hóa cao độ.
Thêm vào đó, người Mỹ ngày càng đối diện
với sự nguy hiểm ngày càng tăng của bệnh tim
mạch, ung thư .. mà một trong những nguyên do chính là
do thức ăn không lành của họ: thịt động
vật nuôi theo lối phản thiên nhiên, thức ăn thức
uống chứa quá nhiều chất béo và cả các hóa chất
.. Họ đă t́m đến thức ăn mặn thanh
đạm ít mỡ màng của chúng ta, họ lại tiến
thêm một bước nữa t́m đến thức ăn
chay cũng trong một truyền thống nấu nướng
rất ít béo của người Việt Nam (quả có thế,
so với cách nấu đồ chay của người Tàu,
thức ăn chay của Việt Nam lại một lần
nữa tỏ ra .. khôn hơn: thanh đạm, ít béo và ít biến
chế cầu kỳ, mà vẫn ngon). Kết quả là ǵ? Là
tiệm cơm chay của người Việt Nam mở ra
ngày càng nhiều trong vùng Little Sài G̣n, là kỹ nghệ làm
đậu hủ và các sản phẩm từ đậu
nành phát triển như chưa bao giờ phát triển đến
thế. Ngày nay, bữa ăn "lunch" bạn bè buổi
trưa rủ nhau đến tiệm cơm chay là chuyện
thường, việc đăi đằng nhau bằng một
bữa "cỗ chay"cũng xảy ra luôn không cần
phải chờ những dịp cúng kiếng như ngày
xưa nữa. Các tiệm cơm chay th́ mỗi tiệm dĩ
nhiên có "gu" khác nhau, nơi đạm bạc gần
với phong cách dân giă, nơi cầu kỳ hợp với
kiểu cách nhà quan, nhưng nói chung, khách đi ăn chay, dù
Việt hay là Mỹ, đều toát ra một vẻ thanh thản
hiền lành.
*
Bây giờ
th́ sự "giao lưu" hai chiều giữa trong nước
và hải ngoại ngày một nhiều. Người về
thăm quê ngày càng đông đảo đă đành, người
trong nước đi ngoại quốc cũng không phải
là hiếm như trước nữa. Theo đánh giá của
nhiều người ở cả hai chiều th́ phở hải
ngoại ngày nay ngon hơn phở trong nước! Đó là
một thành tựu đặc biệt của sự bảo
tồn và phát triển văn hóa Việt Nam của người
đi tị nạn. Chả thế mà có Việt kiều dám
mang tiền về "đầu tư" mở cả
tiệm phở ở Sài G̣n, dĩ nhiên theo cung cách nấu và
tiêu chuẩn vệ sinh của hải ngoại. Nhưng từ
sự kiện này, chúng ta có thể rút ra một điều,
là cách nấu phở qua bao nhiêu biến thiên của thời
gian cho tới nay vẫn không thay đổi.
Một món
ăn truyền thống khi đă có một cái tên th́ nội
dung và cả h́nh thức của nó thường ổn định,
có thay đổi cũng ít thôi. Công thức nấu phở từ
Bắc vô Nam vẫn như cũ, chỉ thêm khi dọn phở
th́ có bày thêm một đĩa rau thơm và giá sống
như tại Sài G̣n, hoặc một đĩa đu đủ
dầm chua, tại một vài nơi ở miền Trung. Bún
ḅ cũng thế, từ Huế vô Sài G̣n là có thêm một
đĩa rau ghém hoặc giá. Cái đất Sài G̣n cũng lạ,
không biết có phải do khí hậu và thổ ngơi hay
không, mà thường thêm thắt cái phần tươi mát
vào các món ăn cổ truyền của miền ngoài vốn
đă tạo ra những loại khẩu vị ổn định
vững chắc rất thuần túy, không cần thêm "yếu
tố ngoại lai" nào. Nhưng phải nhận rằng
dù là bước đường phiêu bạt đă rất
xa xôi và lâu dài, món phở không thay đổi công thức khi
từ Bắc vào Nam, rồi từ Nam ra hải ngoại. Và
đây là món duy nhất của Việt Nam cho đến hiện
nay đă được bán theo lối tổ chức dây
chuyền tại nước Mỹ cũng như tại
Thái Lan. Ở thủ đô Paris th́ số tiệm phở cũng
đă khá nhiều đóng đô quanh vùng quận 13, và khách
hàng th́ tây đầm sánh vai với người Việt và
các giống dân khác không phân biệt. Vai tṛ "quốc gia"
rồi "quốc tế" của nó như thế là
đă rơ ràng và vững chắc. Cái mộng làm tên lính "xung
kích quốc tế" cho đệ tam cộng sản của
ông Hồ Chí Minh cuối cùng rồi chẳng đi tới
đâu ngoài việc làm chết mấy triệu người
Việt Nam một cách oan uổng, trong khi phở, dù không
định trước, vẫn hoàn thành "nhiệm vụ
quốc tế" của ḿnh một cách xuất sắc.
Mà lại đem lại sự ngon lành bổ khỏe cho biết
bao nhiêu người, chứ chẳng cần đấu tố,
chẳng cần "chiến tranh giải phóng", và nhất
là chẳng cần cái món "xă hội chủ nghĩa"
chỉ chuyên đem lại nghèo đói, giam hăm, kiệt quệ.
Xem ra, phở mới là sứ giả xứng đáng của
dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế,
đă đem lại biết bao lợi lạc cho ḿnh, cho
người. Cần ǵ phải đi bê những thứ ngoại
lai về để làm tổn hại cho dân tộc và đất
nước, hăy cứ giới thiệu những tinh túy truyền
thống của dân tộc th́ cũng đă có khối điều
hay!
Nhưng
như trên đă nói, trên đường tị nạn
người Việt Nam mang cả cái bếp của ḿnh
đi chứ không phải chỉ công thức của một
vài món đặc biệt. Bữa cơm gia đ́nh th́ có thể
nói mang đầy đủ hương vị quê nhà, từ
cà pháo, canh rau đay, rau muống luộc, cá bống kho tiêu
cho đến đủ thứ mắm và lẩu mắm của
miền Nam. Trong các siêu thị nguyên liệu nấu ăn
không thiếu thứ ǵ. Nhưng tất cả những ǵ có
trong bữa cơm gia đ́nh th́ ngoài tiệm cũng dần
dần đủ hết. Để đáp ứng nhu cầu
những gia đ́nh không có nhiều th́ giờ để nấu
nướng, hoặc không muốn nấu những món "nặng
mùi quê hương" làm hôi nhà cửa sang trọng theo lối
Mỹ, những tiệm bán thức ăn theo lối "cơm
chỉ" bên nhà (tất cả các món ăn được
nấu sẵn và bày biện ra, muốn ăn thức nào th́
lấy tay chỉ thức đó) bây giờ rất phát triển.
Có cơm nấu bằng nồi cơm điện ở
nhà, chỉ cần mua vài ba đôla thức ăn làm sẵn
là có thể đủ bữa cho một hai người. Tiện
lợi, rẻ tiền, vẫn đầy đủ
hương vị.
Nhiều món
ăn địa phương không đạt được
mức độ quốc tế như phở nhưng dĩ
nhiên cũng đă có mặt thường xuyên tại các
nơi có đông đảo người Việt Nam, như
bún ḅ và các món Huế khác, bún nước lèo Bạc Liêu, ḿ Quảng,
hủ tiếu, các món bún của miền Bắc như bún chả,
bún thang, bún mộc, bún riêu, bún ốc .. Hầu hết đều
cố giữ lấy hương vị xưa, như là giữ
lấy cái căn cước Việt Nam của ḿnh. Những
yếu tố nào đă đưa một món ăn đến
chỗ phổ quát (như phở), những yếu tố
nào đă khiến nhiều món khác sau bao năm tháng trưng
ra với thiên hạ vẫn tiếp tục giữ vai tṛ
khiêm tốn cục bộ, có lẽ chúng ta nên để tâm
nghiên cứu. Trung thành với truyền thống không có nghĩa
là chống đối sự cải tiến, sửa đổi.
Nghe nói nền ăn uống trong nước bây giờ
đă có nhiều sáng kiến mới lạ, liệu có món
nào đạt đến tŕnh độ "cổ điển"
như phở chưa? Những phát kiến lớn, ít nhất
trong lănh vực ăn uống mà chúng ta đang nói, phần
nhiều không bắt nguồn từ những cố gắng
chụp giựt, ăn xổi ở th́, mà là từ những
suy nghiệm sâu xa có căn có cội từ một nền tảng
văn hóa. Và một món ăn, để trở thành cổ
điển, rất cần một yếu tố khác nữa,
đó là thời gian.
Và cái bếp
của dân tị nạn, đă tồn tại ở nước
ngoài một phần ba thế kỷ, liệu sẽ tồn
tại bao lâu nữa trong tương lai?
PHẠM XUÂN ĐÀI
(Diễm
Trinh sưu tầm và chuyển)