Thầy có nhớ con không ?
(NGUYỄN ĐỒNG DANH)
Trong sách Quốc Văn giáo khoa
thư, mà chúng ta đă đưọc học từ nửa
thế kỷ qua, có một bài tập đọc tựa là
Học tṛ biết ơn thầy. Truyện kể về một
ông quan lớn tên là Carnot. Nhân một ngày về quê chơi,
khi ông đi ngang qua trường học ở làng, trông thấy
ông thầy dạy học của ḿnh lúc nhỏ, bây giờ
tóc đă bạc phơ, đang ngồi trong lớp. Ông
Carnot xuống xe ngựa, bước vào lớp, chào thầy
và hỏi "Thưa thầy, thầy có nhớ
con không?". Sau khi kể rơ nguồn
cơn cho thầy cũ nghe, ông Carnot quay xuống lớp nói
với đám học tṛ nhỏ: "Ta
b́nh sanh, nhất là mang ơn cha mẹ, sau là ơn thầy.
Nhờ thầy chịu khó dạy bảo, ta mới nên sự
nghiệp ngày nay".
Tôi cũng
đă từng được nghe câu hỏi tương tợ
như vậy (thầy có nhớ con không?) nhưng không phải
trong khung cảnh một ngôi trường nhỏ bé, trong
ngôi làng êm ả thanh b́nh.
-
Giữa
năm 1976, sau một năm học tập, viên chức và
sĩ quan chế độ cũ ở trại cải tạo
Trảng Lớn tỉnh Tây Ninh, được phép thăm
nuôi. Trại Trảng Lớn lúc đó chứa 4 Tiểu
đoàn tù cải tạo. Tiểu đoàn 1 ở sát rào với
Tiểu đoàn 2 của tôi. Chiều chiều, tôi vẫn
nh́n thấy danh ca Duy Trác (luật sư Khuất Duy Trác)
đang tập ca bè cho ca đoàn Tiểu đoàn 1 ở bên
kia hàng rào. Việc thăm nuôi được tổ chức
luân phiên. Tuần này tiểu đoàn 1, tuần sau tiểu
đoàn 2, rồi 3 và sau cùng là 4. Hôm đó tiểu đoàn 1
được thân nhân vào thăm. Chúng tôi, tiểu đoàn
2, vẫn đi công tác cắt tranh hay gỡ vỉ sắt
ngoài phi trường căn cứ Trảng Lớn.
Ba người
bạn tù chúng tôi chọn một điểm lao động
gần đường nhựa, để có dịp ngó ông
đi qua bà đi lại. Một năm trời tù túng trong
ṿng rào kẽm gai, chỉ nh́n thấy màu áo kaki của bộ
đội, màu áo cháo ḷng nham nhở rách bươm của bạn
tù, cho nên được nh́n thấy màu áo sặc sỡ là một
hạnh phúc lớn lao đối với chúng tôi. Vừa lao
động, chúng tôi vừa nh́n ra đường nhựa
(trong căn cứ Trảng Lớn, có nhiều đường
nhựa xe 10 bánh chạy được, có cả phi trường
cho máy bay quân sự). Vừa lúc đó có ba thiếu nữ
đang gồng gánh quà vào thăm tthân nhân. Chợt một
trong ba cô la lên "thầy Danh".
Nghe gọi, tôi nh́n lên, vừa mừng vừa sợ. Mừng
v́ có người quen, sợ v́ nếu chuyện tṛ với
người ngoài mà bị cán bộ bắt gặp th́ sẽ
bị kỷ luật (nhốt vào thùng connex). Đang c̣n
ngơ ngác th́ nghe hỏi "Thầy
có nhớ con không?". Trời đất, cả chục
năm đi dạy, qua bao nhiêu trường lớp với
cả ngàn học sinh, làm sao tôi nhớ hết các môn đồ.
Trong cuộc đời gơ đầu trẻ, may ra tôi chỉ
nhớ được các học sinh xuất sắc nhất
và các học sinh ba gai nhất. Cô học tṛ đứng hẳn
lại và nói tiếp "Con tên
là Giang Hà, học sinh trường Trung học Quận 9 nè".
Có lẽ Giang Hà cũng nhận ra được sự e dè
sợ sệt của tôi. Cô đảo mắt ngó quanh, không
thấy bóng dáng tên bộ đội nào, cô nhanh tay ném về
phía tôi một cái bọc nhỏ và nói "Thầy ăn lấy thảo, em đi thăm ba em
đây". Nói xong các cô tiếp tục gồng gánh
đi về hướng văn pḥng tiểu đoàn. Hôm
đó, kho lương thực của tôi có thêm dăm cục
đường tán.
Sau thời
gian cải tạo tại Trảng Lớn, tôi bị
đưa vào rừng sâu khu vực Ka Tum, gần biên giới
Việt Miên, cũng thuộc tỉnh Tây Ninh. Ở đây
lao động nặng nhọc hơn. Phải vào rừng
đốn gổ, chặt tre bương, lồ ồ. Tôi
chợt nhớ đến mấy câu thơ mà tôi đă học
từ ngày c̣n bé. Bài thơ nói về thân phận người
lính trấn thủ miền xa:
"Ba năm trấn thủ
lưu đồn,
Ngày thời canh điếm,
tối dồn việc quan.
Chém tre, đẵn gỗ
trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ,
phàn nàn cùng ai?
Miệng ăn măng trúc,
măng mai,
Những giang cùng nứa, lấy
ai bạn cùng?
Nước giếng trong,
con cá nó vẫy vùng!".
Người
xưa th́ trấn thủ lưu đồn, c̣n bọn tôi
th́:
"Ba năm cải tạo
trong tù,
Ngày thời lao động,
tối thu .. hoạch bài.
Chém tre đẵn gỗ
dài dài,
Hữu thân hữu khổ,
tương lai mịt mùng".
Cũng may
khi đi lao động như vậy, chúng tôi vẫn
thường gặp những người dân quê tử tế,
đă ném cho chúng tôi khúc mía, củ khoai, củ ḿ v.v. Đến
năm 1977, Khmer Đỏ nhiều lần đánh sâu vào lănh
thổ Việt Nam, các trại tù cải tạo dọc theo
biên giới Việt Miên được giải tán. Tôi bị
đưa về giam tại nhà giam Chí Ḥa ngay giữa trung
tâm Sài G̣n. Khi lao động cải tạo trên rừng, tuy
đói và khổ cực, nhưng cuộc sống phần
nào thoải mái. Lư do là được đi lao động
bên ngoài, đôi khi tiếp xúc với đồng bào,
được bà con thương mến tiếp tế thực
phẩm. C̣n ở Chí Hoà, khỏi phải lao động, chỉ
ngồi bó gối trong bốn bức tường giam với
cánh cửa sắt dày.
-
Khám
Chí Hoà được người Pháp xây cất theo h́nh bát
quái (tám cạnh là tám dăy lầu gồm những pḥng giam, giữa
là tháp canh cao ngất). Kiến trúc thật là kiên cố. Từ
ngày khánh thành cho đến năm tôi vào ở (1977) chưa
có một tù nhân nào vượt thoát. Chỉ có hai người
"vượt ngục" thành công với sự trợ
giúp của "tay trong". Đó là tướng cướp
Điền khắc Kim và nhà tỷ phú Nguyễn tấn
Đời.
Sinh trưởng
trong một gia đ́nh nông dân, thời trẻ Nguyễn Tấn
Đời làm nghề buôn trâu ḅ qua biên giới. Tuy vốn
liếng không nhiều nhưng ông là người luôn giữ
chữ tín trong làm ăn nên rất được giới
thương lái Campuchia tín nhiệm. Họ giao ông mỗi
chuyến vài chục, rồi đến vài trăm trâu ḅ
mang về Việt tiêu thụ, mà không cần phải trả
trước hay đặt cọc. V́ thế Nguyễn Tấn
Đời nhanh chóng tích lũy một số vốn đáng
kể và ông quyết định rời bỏ vùng biên giới
quê hương cùng nghề buôn trâu. Những năm đầu
lên Sài G̣n lập nghiệp, ông Đời đầu tư
vào địa ốc.
Với sự
hiện diện của quân đội ngoại quốc tại
miền Nam Việt nam, nhu cầu nhà cửa pḥng ốc
tăng nhanh. Ông Đời trở thành vua building và sau đó
chuyển qua ngành ngân hàng. Vào thập niên 70, khi cường
độ cuộc chiến tranh đă đến hồi khốc
liệt th́ cũng là thời điểm cực thịnh của
hệ thống ngân hàng tư nhân ở Saigon, trong đó
đứng đầu là Tín Nghĩa Ngân Hàng (TNNH), hay c̣n gọi
một cách b́nh dân là ngân hàng Ông Thần Tài của ông Nguyễn
Tấn Đời. Với hàng trăm chi nhánh trên cả
nước, hầu như TNNH đă chiếm lĩnh toàn bộ
các dịch vụ tiền gửi và cho vay.
Từ
năm 1971, TNNH bao trùm thiên hạ, lấn lướt hẳn
các ngân hàng khác, kể cả ngân hàng Việt Nam Thương
Tín. Ở tận các hang cùng ngơ hẻm, dân nghèo sở hữu
một món tiền nho nhỏ đều có thể có cuốn
sổ tiết kiệm "Thần Tài". Nhưng đùng
một cái, tỷ phú Nguyễn Tấn Đời bị bắt
và TNNH bị sụp đổ!. Chuyện ǵ đă xảy ra
cho nhà tỷ phú tiếng tăm này?. Nếu theo tin tức
đăng tải công khai trên các báo xuất bản tại
Saigon vào thời điểm đó, th́ Nguyễn Tấn
Đời đă phạm vào các tội làm TNNH mất cân
đối thu chi và không c̣n khả năng chi trả cho khách
hàng, cá nhân ông Đời đă vi phạm việc huy động
vốn và đầu tư kinh doanh ... Nhưng theo dư luận
bên ngoài, kể cả của những người am tường
nghiệp vụ ngân hàng, th́ ông Đời đă bị các
đối thủ "chơi" một vố thẳng
tay, hết đường chống đỡ. Đó là các
tập đoàn tài phiệt đang cạnh tranh với ông, họ
thấy cái thế của ông trong hệ thống ngân hàng quá
lớn (theo con số được báo chí công bố lúc
đó th́ tổng số tiền của TNNH lên đến 22
tỷ đồng, gần bằng số tiền của tất
cả các ngân hàng tư nhân gộp lại) và có khả
năng ông ta sẽ bỏ ṿi sang địa hạt chính trị.
Một câu hỏi khác đă từng được dư luận
nêu lên: phải chăng ông Nguyễn Tấn Đời
đă bị thế lực của các tướng lĩnh
trong quân đội ra tay triệt hạ?. Bởi cạnh
tranh với TNNH c̣n có Kỹ Thương Ngân Hàng - một
ngân hàng quân đội - mà đa số vốn là của các
tướng lĩnh chóp bu trong quân đội thời
đó. Sau khi chính quyền ra lệnh phong tỏa TNNH, ông Nguyễn
Tấn Đời đă bị bắt tại nơi ông lẩn
trốn là nhà dân biểu Mă Xái tại cư xá sĩ quan Chí
Hoà. Ông Nguyễn Tấn Đời bị tống giam vào
khám Chí Ḥa.
Sau ngày đổi
đời 30 tháng 4, ông Đời vẫn kẹt trong nhà tù.
Tôi nghe bọn tù h́nh sự kể lại. Gia đ́nh ông
Đời ở Rạch Giá tổ chức đám cưới
giả, xin chánh quyền Cách mạng cho ông Đời về
quê dự đám cưới vài ngày rồi trở lên Sài G̣n ở
tù tiếp. Chánh quyền Cách mạng cho xe Công an đưa
ông về Rạch Giá ăn cưới. Đêm đó ông xuống
tàu ra đi êm thắm. Không biết trong vụ này, chánh quyền
cách mạng đă ăn bao nhiêu cây vàng?.
Về Chí
Hoà, tôi ở trong khu AH. Pḥng giam to bằng một lớp học,
chứa 60 người, mỗi người chỉ sinh hoạt,
ăn ngủ, học tập, trong ṿng một chiếc chiếu
đơn. Thời gian này trong khám Chí Hoà có nhiều nhân vật
nổi tiếng như Cựu Thủ tướng Việt
Nam Cộng hoà Phan Huy Quát, Cựu Thủ tướng Căm
bốt Sơn Ngọc Thành, cựu Tổng trưởng
Chiêu hồi bác sĩ Hồ văn Châm v.v.
Một hôm,
pḥng tôi có người bệnh. Anh ta bị kiết lỵ
suốt đêm tiêu chảy nhiều lần. Sáng ra, cán bộ
cho một tên tù h́nh sự đem cáng lên để khiêng
người bệnh xuống bệnh xá. Tôi và một bạn
tù trong pḥng được chỉ định khiêng cáng, tên
tù h́nh sự gom góp, ôm theo vật dụng cá nhân của
người bệnh. Bệnh nhân đă kiệt sức, anh
ta mất nước nhiều v́ tiêu chảy suốt
đêm, tiêu không kiểm soát được nên áo quần hôi
thúi. Cô y tá bắt chúng tôi tẩy rửa bệnh nhân trước
khi cho vào pḥng khám.
Khoảng 9
giờ sáng, bác sĩ bắt đầu khám bệnh. Bác
sĩ ra lệnh cho tôi ở lại để phục vụ
bệnh nhân, c̣n ngựi bạn kia th́ được cho trở
về pḥng giam. Lúc đó chỉ có một thứ thuốc
duy nhất trị bá bệnh, đó là xuyên tâm liên. Tôi cứ
phải nâng đầu anh bạn dậy, đổ hàng chục
viên thuốc vào miệng, và cho anh một ngụm nước.
Xế chiều,
cô bác sĩ gọi tôi vào pḥng riêng và đóng cửa lại.
Cô chợt hỏi "Thầy
có nhớ con không?". Trời đất, lại thêm một
t́nh huống éo le cay đắng. Tṛ bây giờ là bác sĩ
cách mạng, thầy là tên tù ngụy quân ngụy quyền.
Bác sĩ Phượng kể:
"Năm
1968 con đang học lớp đệ tam, chị con học
đệ nhất. Tết năm đó nhà con bỗng
dưng có thêm mấy chú bác từ quê lên ăn Tết, những
người thân mà chúng con chưa hề gặp mặt.
Đêm giao thừa, Ba dặn má năm nay không được
đi chùa hay đi lăng Ông Bà Chiểu, chỉ ở nhà
cúng ông bà. Sau đó ba và các chú bác đi đâu mất biệt.
Tổng Công kích Mậu Thân xảy ra, cả thành phố biến
thành băi chiến trường. Một hôm Ba trở về,
chỉ kịp gom ít tư trang, rồi đưa cả nhà
vào mật khu. Lúc đó chị con và con được huấn
luyện qua loa về cứu thương, v́ nhu cầu chữa
trị thương binh quá lớn, nhất là trong Tổng
Công kích đợt hai vào tháng 5 năm 1968. Lâu dần, nghề
dạy nghề và trải qua mấy lớp chuyên tu, tại
chức, bỗng dưng con
trở thành y sĩ ".
Bác sĩ
Phượng giúp chúng tôi liên lạc với gia đ́nh. Vợ
con người bệnh đă gởi thuốc Tây trị kiết
lỵ cho anh ta. Nhờ đó mà anh thoát chết. Hết bệnh,
chúng tôi chia tay cô học tṛ bác sĩ, để trở về
pḥng giam, tiếp tục sống cuộc đời tù tội.
Cho đến
hôm nay, mỗi lần nhớ lại câu nói "Thầy có nhớ con không?"
của quan lớn Carnot bên Pháp ngày xưa, trong quyển Quốc
Văn giáo khoa thư, tôi vẫn c̣n bùi ngùi tấc dạ. Tôi
rất cảm động về tinh thần TÔN SƯ TRỌNG
ĐẠO của người Việt. Dù hoàn cảnh
có đổi thay thế nào đi nữa, những người
học tṛ cũ vẫn nhớ ơn và giúp đỡ thầy
cô.
Nguyễn
Đồng Danh
(P. H-T t́m thấy trong
Internet)