SU'U TÂ`M 18

Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | SUY NGÂM~ 10 | SUY NGÂM~ 11 | CHUYÊ.N CÔ? | CHUYÊ.N CÔ? [tt] | CHUYÊ.N CÔ? 1 | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | LINKS | THÚ VI. | TÊ'U

TA.P GHI 12

 

Thy có nh con không ?

(NGUYỄN ĐỒNG DANH)

 

 

 Trong sách Quốc Văn giáo khoa thư, mà chúng ta đă đưọc học từ nửa thế kỷ qua, có một bài tập đọc tựa là Học tṛ biết ơn thầy. Truyện kể về một ông quan lớn tên là Carnot. Nhân một ngày về quê chơi, khi ông đi ngang qua trường học ở làng, trông thấy ông thầy dạy học của ḿnh lúc nhỏ, bây giờ tóc đă bạc phơ, đang ngồi trong lớp. Ông Carnot xuống xe ngựa, bước vào lớp, chào thầy và hỏi "Thưa thầy, thầy có nhớ con không?". Sau khi kể rơ nguồn cơn cho thầy cũ nghe, ông Carnot quay xuống lớp nói với đám học tṛ nhỏ: "Ta b́nh sanh, nhất là mang ơn cha mẹ, sau là ơn thầy. Nhờ thầy chịu khó dạy bảo, ta mới nên sự nghiệp ngày nay".

 

Tôi cũng đă từng được nghe câu hỏi tương tợ như vậy (thầy có nhớ con không?) nhưng không phải trong khung cảnh một ngôi trường nhỏ bé, trong ngôi làng êm ả thanh b́nh.

 

- Giữa năm 1976, sau một năm học tập, viên chức và sĩ quan chế độ cũ ở trại cải tạo Trảng Lớn tỉnh Tây Ninh, được phép thăm nuôi. Trại Trảng Lớn lúc đó chứa 4 Tiểu đoàn tù cải tạo. Tiểu đoàn 1 ở sát rào với Tiểu đoàn 2 của tôi. Chiều chiều, tôi vẫn nh́n thấy danh ca Duy Trác (luật sư Khuất Duy Trác) đang tập ca bè cho ca đoàn Tiểu đoàn 1 ở bên kia hàng rào. Việc thăm nuôi được tổ chức luân phiên. Tuần này tiểu đoàn 1, tuần sau tiểu đoàn 2, rồi 3 và sau cùng là 4. Hôm đó tiểu đoàn 1 được thân nhân vào thăm. Chúng tôi, tiểu đoàn 2, vẫn đi công tác cắt tranh hay gỡ vỉ sắt ngoài phi trường căn cứ Trảng Lớn.

 

Ba người bạn tù chúng tôi chọn một điểm lao động gần đường nhựa, để có dịp ngó ông đi qua bà đi lại. Một năm trời tù túng trong ṿng rào kẽm gai, chỉ nh́n thấy màu áo kaki của bộ đội, màu áo cháo ḷng nham nhở rách bươm của bạn tù, cho nên được nh́n thấy màu áo sặc sỡ là một hạnh phúc lớn lao đối với chúng tôi. Vừa lao động, chúng tôi vừa nh́n ra đường nhựa (trong căn cứ Trảng Lớn, có nhiều đường nhựa xe 10 bánh chạy được, có cả phi trường cho máy bay quân sự). Vừa lúc đó có ba thiếu nữ đang gồng gánh quà vào thăm tthân nhân. Chợt một trong ba cô la lên "thầy Danh". Nghe gọi, tôi nh́n lên, vừa mừng vừa sợ. Mừng v́ có người quen, sợ v́ nếu chuyện tṛ với người ngoài mà bị cán bộ bắt gặp th́ sẽ bị kỷ luật (nhốt vào thùng connex). Đang c̣n ngơ ngác th́ nghe hỏi "Thầy có nhớ con không?". Trời đất, cả chục năm đi dạy, qua bao nhiêu trường lớp với cả ngàn học sinh, làm sao tôi nhớ hết các môn đồ. Trong cuộc đời gơ đầu trẻ, may ra tôi chỉ nhớ được các học sinh xuất sắc nhất và các học sinh ba gai nhất. Cô học tṛ đứng hẳn lại và nói tiếp "Con tên là Giang Hà, học sinh trường Trung học Quận 9 nè". Có lẽ Giang Hà cũng nhận ra được sự e dè sợ sệt của tôi. Cô đảo mắt ngó quanh, không thấy bóng dáng tên bộ đội nào, cô nhanh tay ném về phía tôi một cái bọc nhỏ và nói "Thầy ăn lấy thảo, em đi thăm ba em đây". Nói xong các cô tiếp tục gồng gánh đi về hướng văn pḥng tiểu đoàn. Hôm đó, kho lương thực của tôi có thêm dăm cục đường tán.

 

Sau thời gian cải tạo tại Trảng Lớn, tôi bị đưa vào rừng sâu khu vực Ka Tum, gần biên giới Việt Miên, cũng thuộc tỉnh Tây Ninh. Ở đây lao động nặng nhọc hơn. Phải vào rừng đốn gổ, chặt tre bương, lồ ồ. Tôi chợt nhớ đến mấy câu thơ mà tôi đă học từ ngày c̣n bé. Bài thơ nói về thân phận người lính trấn thủ miền xa:

"Ba năm trấn thủ lưu đồn,

Ngày thời canh điếm, tối dồn việc quan.

Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn,

Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai?

Miệng ăn măng trúc, măng mai,

Những giang cùng nứa, lấy ai bạn cùng?

Nước giếng trong, con cá nó vẫy vùng!".

 

Người xưa th́ trấn thủ lưu đồn, c̣n bọn tôi th́:

"Ba năm cải tạo trong tù,

Ngày thời lao động, tối thu ..  hoạch bài.

Chém tre đẵn gỗ dài dài,

Hữu thân hữu khổ, tương lai mịt mùng".

 

Cũng may khi đi lao động như vậy, chúng tôi vẫn thường gặp những người dân quê tử tế, đă ném cho chúng tôi khúc mía, củ khoai, củ ḿ v.v. Đến năm 1977, Khmer Đỏ nhiều lần đánh sâu vào lănh thổ Việt Nam, các trại tù cải tạo dọc theo biên giới Việt Miên được giải tán. Tôi bị đưa về giam tại nhà giam Chí Ḥa ngay giữa trung tâm Sài G̣n. Khi lao động cải tạo trên rừng, tuy đói và khổ cực, nhưng cuộc sống phần nào thoải mái. Lư do là được đi lao động bên ngoài, đôi khi tiếp xúc với đồng bào, được bà con thương mến tiếp tế thực phẩm. C̣n ở Chí Hoà, khỏi phải lao động, chỉ ngồi bó gối trong bốn bức tường giam với cánh cửa sắt dày.

 

- Khám Chí Hoà được người Pháp xây cất theo h́nh bát quái (tám cạnh là tám dăy lầu gồm những pḥng giam, giữa là tháp canh cao ngất). Kiến trúc thật là kiên cố. Từ ngày khánh thành cho đến năm tôi vào ở (1977) chưa có một tù nhân nào vượt thoát. Chỉ có hai người "vượt ngục" thành công với sự trợ giúp của "tay trong". Đó là tướng cướp Điền khắc Kim và nhà tỷ phú Nguyễn tấn Đời.

 

Sinh trưởng trong một gia đ́nh nông dân, thời trẻ Nguyễn Tấn Đời làm nghề buôn trâu ḅ qua biên giới. Tuy vốn liếng không nhiều nhưng ông là người luôn giữ chữ tín trong làm ăn nên rất được giới thương lái Campuchia tín nhiệm. Họ giao ông mỗi chuyến vài chục, rồi đến vài trăm trâu ḅ mang về Việt tiêu thụ, mà không cần phải trả trước hay đặt cọc. V́ thế Nguyễn Tấn Đời nhanh chóng tích lũy một số vốn đáng kể và ông quyết định rời bỏ vùng biên giới quê hương cùng nghề buôn trâu. Những năm đầu lên Sài G̣n lập nghiệp, ông Đời đầu tư vào địa ốc.

 

Với sự hiện diện của quân đội ngoại quốc tại miền Nam Việt nam, nhu cầu nhà cửa pḥng ốc tăng nhanh. Ông Đời trở thành vua building và sau đó chuyển qua ngành ngân hàng. Vào thập niên 70, khi cường độ cuộc chiến tranh đă đến hồi khốc liệt th́ cũng là thời điểm cực thịnh của hệ thống ngân hàng tư nhân ở Saigon, trong đó đứng đầu là Tín Nghĩa Ngân Hàng (TNNH), hay c̣n gọi một cách b́nh dân là ngân hàng Ông Thần Tài của ông Nguyễn Tấn Đời. Với hàng trăm chi nhánh trên cả nước, hầu như TNNH đă chiếm lĩnh toàn bộ các dịch vụ tiền gửi và cho vay.

 

Từ năm 1971, TNNH bao trùm thiên hạ, lấn lướt hẳn các ngân hàng khác, kể cả ngân hàng Việt Nam Thương Tín. Ở tận các hang cùng ngơ hẻm, dân nghèo sở hữu một món tiền nho nhỏ đều có thể có cuốn sổ tiết kiệm "Thần Tài". Nhưng đùng một cái, tỷ phú Nguyễn Tấn Đời bị bắt và TNNH bị sụp đổ!. Chuyện ǵ đă xảy ra cho nhà tỷ phú tiếng tăm này?. Nếu theo tin tức đăng tải công khai trên các báo xuất bản tại Saigon vào thời điểm đó, th́ Nguyễn Tấn Đời đă phạm vào các tội làm TNNH mất cân đối thu chi và không c̣n khả năng chi trả cho khách hàng, cá nhân ông Đời đă vi phạm việc huy động vốn và đầu tư kinh doanh ... Nhưng theo dư luận bên ngoài, kể cả của những người am tường nghiệp vụ ngân hàng, th́ ông Đời đă bị các đối thủ "chơi" một vố thẳng tay, hết đường chống đỡ. Đó là các tập đoàn tài phiệt đang cạnh tranh với ông, họ thấy cái thế của ông trong hệ thống ngân hàng quá lớn (theo con số được báo chí công bố lúc đó th́ tổng số tiền của TNNH lên đến 22 tỷ đồng, gần bằng số tiền của tất cả các ngân hàng tư nhân gộp lại) và có khả năng ông ta sẽ bỏ ṿi sang địa hạt chính trị. Một câu hỏi khác đă từng được dư luận nêu lên: phải chăng ông Nguyễn Tấn Đời đă bị thế lực của các tướng lĩnh trong quân đội ra tay triệt hạ?. Bởi cạnh tranh với TNNH c̣n có Kỹ Thương Ngân Hàng - một ngân hàng quân đội - mà đa số vốn là của các tướng lĩnh chóp bu trong quân đội thời đó. Sau khi chính quyền ra lệnh phong tỏa TNNH, ông Nguyễn Tấn Đời đă bị bắt tại nơi ông lẩn trốn là nhà dân biểu Mă Xái tại cư xá sĩ quan Chí Hoà. Ông Nguyễn Tấn Đời bị tống giam vào khám Chí Ḥa.

 

Sau ngày đổi đời 30 tháng 4, ông Đời vẫn kẹt trong nhà tù. Tôi nghe bọn tù h́nh sự kể lại. Gia đ́nh ông Đời ở Rạch Giá tổ chức đám cưới giả, xin chánh quyền Cách mạng cho ông Đời về quê dự đám cưới vài ngày rồi trở lên Sài G̣n ở tù tiếp. Chánh quyền Cách mạng cho xe Công an đưa ông về Rạch Giá ăn cưới. Đêm đó ông xuống tàu ra đi êm thắm. Không biết trong vụ này, chánh quyền cách mạng đă ăn bao nhiêu cây vàng?.

 

Về Chí Hoà, tôi ở trong khu AH. Pḥng giam to bằng một lớp học, chứa 60 người, mỗi người chỉ sinh hoạt, ăn ngủ, học tập, trong ṿng một chiếc chiếu đơn. Thời gian này trong khám Chí Hoà có nhiều nhân vật nổi tiếng như Cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng hoà Phan Huy Quát, Cựu Thủ tướng Căm bốt Sơn Ngọc Thành, cựu Tổng trưởng Chiêu hồi bác sĩ Hồ văn Châm v.v.

 

Một hôm, pḥng tôi có người bệnh. Anh ta bị kiết lỵ suốt đêm tiêu chảy nhiều lần. Sáng ra, cán bộ cho một tên tù h́nh sự đem cáng lên để khiêng người bệnh xuống bệnh xá. Tôi và một bạn tù trong pḥng được chỉ định khiêng cáng, tên tù h́nh sự gom góp, ôm theo vật dụng cá nhân của người bệnh. Bệnh nhân đă kiệt sức, anh ta mất nước nhiều v́ tiêu chảy suốt đêm, tiêu không kiểm soát được nên áo quần hôi thúi. Cô y tá bắt chúng tôi tẩy rửa bệnh nhân trước khi cho vào pḥng khám.

 

Khoảng 9 giờ sáng, bác sĩ bắt đầu khám bệnh. Bác sĩ ra lệnh cho tôi ở lại để phục vụ bệnh nhân, c̣n ngựi bạn kia th́ được cho trở về pḥng giam. Lúc đó chỉ có một thứ thuốc duy nhất trị bá bệnh, đó là xuyên tâm liên. Tôi cứ phải nâng đầu anh bạn dậy, đổ hàng chục viên thuốc vào miệng, và cho anh một ngụm nước.

 

Xế chiều, cô bác sĩ gọi tôi vào pḥng riêng và đóng cửa lại. Cô chợt hỏi "Thầy có nhớ con không?". Trời đất, lại thêm một t́nh huống éo le cay đắng. Tṛ bây giờ là bác sĩ cách mạng, thầy là tên tù ngụy quân ngụy quyền. Bác sĩ Phượng kể:

 

"Năm 1968 con đang học lớp đệ tam, chị con học đệ nhất. Tết năm đó nhà con bỗng dưng có thêm mấy chú bác từ quê lên ăn Tết, những người thân mà chúng con chưa hề gặp mặt. Đêm giao thừa, Ba dặn má năm nay không được đi chùa hay đi lăng Ông Bà Chiểu, chỉ ở nhà cúng ông bà. Sau đó ba và các chú bác đi đâu mất biệt. Tổng Công kích Mậu Thân xảy ra, cả thành phố biến thành băi chiến trường. Một hôm Ba trở về, chỉ kịp gom ít tư trang, rồi đưa cả nhà vào mật khu. Lúc đó chị con và con được huấn luyện qua loa về cứu thương, v́ nhu cầu chữa trị thương binh quá lớn, nhất là trong Tổng Công kích đợt hai vào tháng 5 năm 1968. Lâu dần, nghề dạy nghề và trải qua mấy lớp chuyên tu, tại chức, bỗng dưng   con trở thành y sĩ ".

 

Bác sĩ Phượng giúp chúng tôi liên lạc với gia đ́nh. Vợ con người bệnh đă gởi thuốc Tây trị kiết lỵ cho anh ta. Nhờ đó mà anh thoát chết. Hết bệnh, chúng tôi chia tay cô học tṛ bác sĩ, để trở về pḥng giam, tiếp tục sống cuộc đời tù tội.

 

 

Cho đến hôm nay, mỗi lần nhớ lại câu nói "Thầy có nhớ con không?" của quan lớn Carnot bên Pháp ngày xưa, trong quyển Quốc Văn giáo khoa thư, tôi vẫn c̣n bùi ngùi tấc dạ. Tôi rất cảm động về tinh thần TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO của người Việt. Dù hoàn cảnh có đổi thay thế nào đi nữa, những người học tṛ cũ vẫn nhớ ơn và giúp đỡ thầy cô.

 

 

Nguyễn Đồng Danh

 

(P. H-T t́m thấy trong Internet)

 

 

website counter