Chuyện
về một
người hầu bàn Nhật
(Tác giả: Nguyễn Quang Thiều)
Một
lời từ chối lịch sự, một cái cúi đầu,
một bước đi lùi, một nụ cười thân
ái, một gương mặt tự tin chỉ của một
người hầu bàn đă một lần nữa làm nên
nhân cách người Nhật.
Cả
lượt đi và về Hà Nội - Boston và Boston - Hà Nội,
tôi đều "quá cảnh" ở sân bay Narita, Tokyo chừng
dăm tiếng đồng hồ. Khi mua vé, một số
người khuyên đừng đi qua Nhật v́ có thể
bị nhiễm phóng xạ. Nhưng có lẽ v́ tôi đă
"quá cảnh" Tokyo nhiều lần rồi nên thành thói
quen và cũng thấy nhớ. Và thú thực, tôi cũng muốn
được quan sát nước Nhật đang sống
như thế nào sau cơn " tiểu hồng thủy"
mới tràn qua cho dù chỉ ở một trong không gian nhỏ
là một sân bay. Báo chí đă nói về bản lĩnh và nhân
cách người Nhật sau thảm họa sóng thần cũng
như bản lĩnh và nhân cách người Nhật sau khi
người Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống
đất nước này. Và cả
bản lĩnh của người Nhật ngay khi dân tộc
họ trở thành một trong những dân tộc giàu có nhất
thế giới.
Ở nhiều
nơi trong khu vực sân bay Narita, người ta có dán một
tờ giấy với nội dung nước Nhật
đang gặp khó khăn sau thảm họa sóng thần nên
thiếu năng lượng, v́ vậy quản lư sân bay xin
lỗi hành khách khi hệ thống điều ḥa trong khu vực
sân bay không thể phục vụ hành khách như trước
kia. Lúc đầu không nh́n thấy lời xin lỗi đó, tôi tỏ ra khó chịu
với sự nóng bức trong sân bay sau một chuyến bay
quá dài. Nhưng khi đọc được lời xin lỗi
đó th́ tôi lại thầm xin lỗi những người
Nhật. Lúc đó, tôi thấy ḿnh thật ích kỷ. Sống
tử tế thật khó. Có lẽ chỉ khi chết rồi
con người mới có thể tuyên bố rằng ḿnh
đă sống hoàn toàn tử tế.
Tôi là kẻ
nghiện thuốc lá. Bởi thế, xuống đến
sân bay là tôi đảo mắt kiếm t́m pḥng hút thuốc.
Cho đến bây giờ, chỉ ở Mỹ là tôi không t́m
thấy pḥng hút thuốc trong sân bay c̣n tất cả các sân
bay tôi đă từng qua đều có pḥng hút thuốc.
Nhưng chưa ở đâu, pḥng hút thuốc trong sân bay lại
rộng, đẹp và sạch như ở sân bay Narita. Tất
cả mọi thứ trong pḥng hút thuốc ở Narita đều
đẹp và sạch như là một pḥng khánh tiết. Nh́n
là biết những người quản lư sân bay đă quan
tâm đến cái pḥng hút thuốc như thế nào. Nhưng
xin bạn nhớ rằng họ quan tâm không phải v́ họ
khuyến khích người ta hút thuốc mà là lối sống
văn hóa của họ. Hút thuốc có hại sức khỏe
cho người hút thuốc và cũng có hại phần nào
đó cho người bên cạnh. Nhưng không v́ sự có hại
đó mà người không hút thuốc tẩy chay người
hút thuốc. Phép ứng xử với những người
hút thuốc qua cách thiết kế và chăm sóc các pḥng hút
thuốc là một phép ứng xử văn hóa của những
người quản lư sân bay Narita. Hút thuốc không có tội,
nghĩa là không vi phạm luật pháp trừ khi anh hút thuốc
ở nơi cấm hút. Và v́ vậy, người hút thuốc
phải được ứng xử một cách văn hóa
và b́nh đẳng. Tôi nói vậy v́ tôi thấy pḥng hút thuốc
ở nhiều sân bay trên thế giới giống như
địa ngục. Một cái pḥng nhỏ xíu chỉ dăm
người vào hút thuốc là chật cứng. Những
người hút thuốc chen nhau trong mù mịt khói thuốc
trông thật thảm hại. Có lẽ những người
quản lư ở các sân bay đó t́m cách đày đọa và sỉ
nhục những người hút thuốc để cho họ
phải bỏ thuốc chăng ?
Tôi c̣n nhớ
măi một trong những câu chuyện đau ḷng trong các trại
giam giữ những người Việt Nam vượt biên
ở Hongkong những năm đầu thập kỷ 80 của
thế kỷ trước. Cảnh sát Hongkong cai quản những
trại đó đă ra lệnh những người Việt
Nam vượt biên mỗi ngày mỗi người phải bắt
50 con ruồi th́ mới được phát khẩu phần
ăn. Đó là một sự sỉ nhục. Đó là vô
lương tâm. Tôi đă trực tiếp tṛ chuyện với
một số người từ trại đó trở về.
Họ đă khóc khi kể lại câu chuyện bắt ruồi
để được ăn. Trước kia tôi không nghĩ
đến việc bỏ thuốc lá. Nhưng khi nh́n những
pḥng hút thuốc ở sân bay Narita và cách những người
lao công lau chùi pḥng hút thuốc đă làm tôi nghĩ tới việc
bỏ thuốc lá. Người ta chỉ có thể thức tỉnh con
người bằng văn hóa chứ không bao giờ thức tỉnh con người bằng áp bức dưới bất cứ h́nh thức nào được.
V́ thời
gian "quá cảnh" ở sân bay Narita quá dài nên chúng tôi
t́m đến một quán ăn trong sân bay. Tôi gọi một
bát ḿ hải sản. Theo trí nhớ của tôi th́ giá một
bát ḿ như vậy vẫn không có ǵ thay đổi sau cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu và đặc biệt
sau thảm họa sóng thần. Lúc đó, nghĩ lại những
cơn băo giá ở trong nước như trận đồ
bát quái mà người tiêu dùng không thể t́m thấy
đường thoát ra. Khi chúng tôi ngồi vào bàn th́ một
người hầu bàn bước đến cúi đầu
chào chúng tôi và hỏi chúng tôi dùng ǵ. Rồi anh mang nước
cho chúng tôi. Lúc đó, tôi vô t́nh chạm vào tay anh và làm đổ
cốc nước. Nước làm ướt một chiếc
giày của tôi. Trong khi tôi lúng túng chưa biết làm ǵ th́
người hầu bàn đă nói lời xin lỗi và quỳ
xuống lau chiếc giày của tôi bằng một chiếc
khăn trắng tinh. Tôi thực sự bất ngờ và thấy
xấu hổ. Tôi nghĩ đến cách ứng xử của
những người Việt Nam ở những nơi công cộng.
Người hầu bàn lau chiếc giày bị ướt của
tôi kỹ lưỡng như đang lau một viên kim cương.
Tôi cam chắc rằng nếu một người hầu
bàn trong những quán ăn ở Việt Nam cúi xuống lau
giày cho khách th́ họ sẽ rất xấu hổ. Nhưng họ
biết đâu rằng : chính tôi, người có chiếc
giày được lau, mới là người thấy xấu
hổ chứ không phải là người lau chiếc giày ấy
cho tôi.
Khi ăn
xong, tôi đă để lại một món tiền tip kha khá
v́ muốn bày tỏ sự biết ơn của ḿnh với
người hầu bàn đó. Nhưng người hầu
bàn nói họ không nhận tiền tip. Một lần nữa,
tôi thực sự ngạc nhiên. Tôi cố t́m cách đưa
tiền tip cho người hầu bàn nhưng người hầu
bàn vẫn nhă nhặn từ chối. Năm 1992, trong chuyến
đi đầu tiên của ḿnh đến Mỹ, tôi có
đến một quán ăn người Việt ở New
York. Khi ăn xong tôi đă để 10 đô la tiền tip lại.
Người hầu bàn là một người Mỹ gốc
Việt đă tỏ ra vô cùng bực bội với tôi v́ tôi
đă không để 12 đô la mà chỉ để
10 đô la. Sau này tôi mới biết họ tính phần
trăm tiền tip theo tổng giá của bữa ăn. Tôi
thực sự không biết điều đó. Sao người
hầu bàn kia không giải thích cho tôi? Và sao người hầu
bàn kia không có thể nói: "Quư ông c̣n thiếu 2 đô la tiền
tip theo quy định, nhưng nếu quư ông không có 2 đô
la th́ cũng không sao. Mong quư ông trở lại nhà hàng chúng tôi
để chúng tôi được phục vụ quư ông".
Nếu nói như vậy, người hầu bàn và nhà hàng của
anh ta sẽ không bao giờ mất 2 đô la (v́
đương nhiên tôi sẽ trả thêm) mà c̣n được
một cái ǵ đó giá trị gấp ngàn lần giá trị của
2 đô la kia. Và chắc chắn những lần tới New
York sau đó tôi sẽ t́m đến nhà hàng đó. Bởi có ǵ hạnh phúc hơn khi được trở lại một nơi chốn đă từng gieo vào ḷng ḿnh sự xúc động và kính trọng.
Nhưng bây giờ, trong các nhà hàng ở Mỹ, người
ta tính tiền tip vào luôn hóa đơn thanh toán. Nghe rất
khoa học và ṣng phẳng nhưng vẫn không ổn ở
một khía cạnh nào đó.
Sau khi từ
chối tiền tip, người hầu bàn hỏi chúng tôi
có cần ǵ nữa mà anh ta có thể phục vụ chúng tôi.
Chúng tôi cảm ơn anh. Anh cúi đầu chào chúng tôi và
bước lùi một bước mời chúng tôi đi. Một
lời từ chối lịch sự, một cái cúi đầu,
một bước đi lùi, một nụ cười thân
ái, một gương mặt tự tin chỉ của một
người hầu bàn đă một lần nữa làm nên
nhân cách người Nhật. Họ đă từ một
đất nước nghèo nàn và tan hoang v́ chiến tranh trở
thành một đất nước văn minh, văn hóa và
giàu có. Họ không bán hàng giả, hàng độc hại, họ
không dùng tiền hay vũ khí đe dọa người khác.
Sự nhẫn nại trong hành động lau chiếc giày
cho khách và sự chối từ tiền tip của người
hầu bàn Nhật và sự nhẫn nại của người
bán trứng Trung Quốc và cách ăn ḿ tôm của cậu
sinh viên Trung Quốc hoàn toàn khác nhau.
Sự nhẫn
nại của người Nhật là sự rèn luyện nhân
cách, là ứng xử văn hóa, là sự tôn trọng con
người và ư chí vươn lên. Sự nhẫn nại
đó không chứa đựng những tham vọng ngông cuồng
và những mưu mô. Cũng như người Nhật
đă dạy cho con em của họ về những khó
khăn mà dân tộc Nhật phải đương đầu,
dạy cho mỗi người Nhật hăy bằng hành động
trung thực của ḿnh làm cho văn hóa Nhật, nhân cách Nhật
cũng như giá trị những sản phẩm made in Japan
lan tỏa vào ḷng con người trên toàn thế giới chứ
không phải là những cuộc "xâm lăng" đầy
mưu tính đôi khi phi nhân và ác độc.
NGUYỄN QUANG THIỀU
(VoHongVang sưu tầm,
LiH. CoCo chuyển)