Về một
sinh viên Trung Quốc
ăn
mỳ
tôm
(Nguyễn Quang Thiều)
Một
buổi sáng tôi nh́n thấy cậu ăn mỳ tôm với
sườn nướng mà chúng tôi nướng từ chiều
hôm trước chưa ăn hết. Cậu ngồi ăn
kiên nhẫn không để lại một chút thịt nào
trên miếng sườn đó.
Đến
Australia, đến Na-uy, đến Mỹ ... ở đâu
tôi cũng mang cảm giác bị "thập diện mai phục"
bởi hàng hóa và những người Trung Quốc. Trong chuyến
đi Mỹ tháng sáu vừa qua, tôi đă như lục tung một
số siêu thị khổng lồ ở Mỹ để t́m
mua mấy món quà cho bạn bè mà không có ḍng chữ "made in
China" nhưng tôi đă thất bại ...
Khoảng
mười năm trở lại đây, nỗi ám ảnh về
hàng hóa "made in China" làm tôi ngạt thở. Nỗi ám ảnh
này gây nên bởi những cuộc "xâm lược" của
hàng hóa độc hại và rẻ tiền Trung Quốc qua
biên giới Việt - Trung. Đấy không phải là cơn
hoảng sợ vô căn cứ của tôi. Đấy là sự
thật mà chính không ít những người Trung Quốc
cũng phải thừa nhận.
Những cuộc
tấn công của hàng ngàn tấn thực phẩm
tươi sống ướp hóa chất mà báo chí mấy
năm gần đây nói đến như những đợt
sóng thần khổng lồ vượt qua những dăy núi
cao ngất ở phía Bắc đổ vào các thành phố Việt
Nam. Và những người buôn bán tham lam và ngốc nghếch
Việt Nam đă tiếp sức đẩy những con sóng
thần ấy lan rộng. Nhiều lúc, tôi nghĩ rằng:
hàng trăm ngàn tấn thực phẩm "chết người"
đó chẳng khác ǵ những quả bom sinh học ném xuống
mảnh đất của chúng ta. Và hậu
quả của nó như thế nào trong tương lai gần
th́ ai cũng hiểu.
Chiến
lược của Trung Quốc thật ghê gớm. Năm
1992, tôi đến Australia. Tôi t́m mua một con búp bê cho con
gái ḿnh. Và tôi nhận ra rằng: ẩn sâu trong con búp bê có
gương mặt xinh đẹp và cái môi đỏ chót là
một ḍng chữ nhỏ xíu: Made
in China. Tôi có nói chuyện với một giáo sư
Australia về chuyện đó. Nghe xong, ông mỉm cười
bí hiểm và kể cho tôi nghe câu chuyện về các China Town
ở Australia.
Sau vài chục
năm theo dơi, ông nhận thấy rằng: mười
năm đầu khi một China Town nào đó được
thành lập, những người Australia đến
thăm với cảm giác họ đi thăm một hội
chợ hàng Trung Quốc ở Australia. Nhưng sau mười
năm, họ đến China Town và nhận ra đó là đất
Trung Quốc nằm trong lănh thổ Australia.
Cái giật ḿnh về một điều ǵ đó bắt
đầu từ đấy.
Mười
lăm năm trước, tôi có đọc một cuốn
sách xuất bản tại Mỹ viết về những
ḍng người Trung Quốc đến Mỹ học tập
và nghiên cứu. Tác giả cuốn sách cho biết: mỗi
năm (vào những năm đầu 1990) có khoảng 70.000
sinh viên và nghiên cứu sinh Trung Quốc đến Mỹ học
tập và nghiên cứu. Rồi những người này t́m
cách vào làm việc trong các công sở, viện nghiên cứu,
trường đại học ... của Mỹ và t́m cách ở
lại và bắt đầu cuộc hành tŕnh vào sâu trong
nước Mỹ. Tác giả cuốn sách dự báo rồi
đến một ngày nào đó, những người Mỹ
tỉnh dậy và nhận thấy Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
đă bị Trung Hoa hóa hay nói cách khác là bị Trung Hoa ăn
rỗng bên trong.
Tôi đă từng
viết về một thanh niên Trung Quốc bán trứng ở
Australia. Anh ta kiên nhẫn ngày ngày xách một khay trứng
đi bán. Sự kiên nhẫn của anh làm cho tôi nghĩ rằng
sẽ không có ǵ có thể làm cho sự kiên nhẫn của
anh ta gục ngă. Dù anh ta không nói nhưng tôi biết bên trong
đôi mắt một mí kia là một tham vọng ghê gớm
và một sự kiên nhẫn kinh hoàng.
Đă có những người Trung Quốc nhẫn nại
bán từng gói lạc rang húng ĺu, từng chiếc bánh bao
nhân thịt ... trở thành những tỉ phú. Và người
thanh niên bán trứng kia cũng mang tham vọng ấy.
Và lúc này, tôi
bắt đầu muốn nói về Lou, một sinh viên Trung
Quốc theo học nhạc ở Mỹ. Tôi gặp Lou ở
nhà một giáo sư Mỹ. Lou được một giáo
sư Mỹ dạy nhạc xin cho học bổng một phần
sang Mỹ học. Người giáo sư bạn tôi thấy
gia đ́nh Lou khó khăn đă giúp đỡ cậu bằng
cách đưa cậu về ở nhà ḿnh. Lou ở trong một
căn pḥng nhỏ dưới tầng hầm. Cậu nói bố
mẹ cậu làm công nhân và thật khó để kiếm
được 5.000 đô la cho cậu đóng tiền học
trong một năm. Nhưng sau một năm, cậu đă
t́m cách xin được học bổng toàn phần. Cậu
cứ lặng lẽ gặp từng giáo sư Mỹ dạy
cậu và những người có liên quan ở trường
và cuối cùng cậu đă "thắng" từng giáo
sư dẫn đến "thắng" tất Hội
đồng giáo sư và họ đồng ư trao học bổng
toàn phần cho cậu. Và hàng ngày, cậu vẫn lặng lẽ
lên xe của con cái chúng ta để đi nhờ đến
trường trong tuyết lạnh.
Một buổi
sáng tôi nh́n thấy cậu ăn mỳ tôm với sườn
nướng mà chúng tôi nướng từ chiều hôm
trước chưa ăn hết. Cậu ngồi ăn kiên
nhẫn không để lại một chút thịt nào trên dẻ
sườn đó. Đó là mỳ tôm Hảo Hảo mà chúng
tôi mang từ Việt Nam sang và sườn nướng
ướp theo kiểu Mỹ mà vị giáo đă nướng.
Có thể, mỳ tôm và sườn nướng kia không hợp
với khẩu vị của cậu như há cảo, vằn
thắn, màn thầu ... Nhưng mỳ tôm của ai, sườn
nướng ướp gia vị ǵ không quan trọng với
cậu lúc này. Cậu cần phải ăn và cần phải
đi tiếp con đường đă vạch trong đầu
cậu và có thể cả những tham vọng phía sau
đôi mắt một mí ấy.
Trong mấy
ngày ở trong ngôi nhà người bạn giáo sư, tôi thấy
cậu mang dáng vẻ của một cậu bé con nhà nghèo và
yếu thế qua cách ăn nói, đi đứng. Nhưng
có thể đến một ngày nào đó, cậu bỗng hiện
ra là một người khác và mua một biệt thự
sang trọng, giành lấy một trang trại ... chứ
không phải ở trong một pḥng dưới tầng hầm
mà người ta dành cho cậu với sự chia sẻ và
biến những người khác thành kẻ cầu xin ḿnh.
Nhưng bây giờ, cậu chỉ là một sinh viên như
con cái chúng ta. Cậu đang cầu xin người khác hăy
thương cậu, hăy giúp cậu. Và với ḷng nhân ái, những
người tốt đă đưa bàn tay về phía cậu.
Khi viết về
cậu sinh viên Lou, tôi lại nhớ về một người
Trung Quốc mà tôi gặp ở Đài Bắc năm 2007 khi
tôi đến đó dự Liên hoan thơ quốc tế.
Người đàn ông đó là Lưu Kiến Sinh. Ông đă
từ Chợ Lớn, Sài G̣n sang định cư ở Pháp
rồi về Đài Bắc. Với tôi, ông là một Trung Quốc
khác. Sau chuyến đi ấy, tôi đă viết về ông.
Bây giờ, tôi xin trích một số đoạn trong bài viết
về người đàn ông Trung Quốc này 5 năm về
trước:
Lưu Kiến
Sinh đọc báo thấy có một nhà thơ Việt Nam
đến Đài Bắc dự Liên hoan thơ Đài Bắc
2007. Ông đến để gặp một người từ
mảnh đất ông đă sinh ra và lớn lên. Buổi tối
ấy, Lưu Kiến Sinh chọn một chỗ ngồi gần
cuối hội trường. Ông lặng lẽ nghe các nhà
thơ đọc thơ. Khi tôi kết thúc phần đọc
thơ, ông không đến bắt tay chúc mừng tôi như
những người Đài Loan khác có mặt ở đó.
Ông vẫn ngồi im lặng và nh́n về phía tôi. Chỉ khi
đêm thơ kết thúc và những người bạn
Đài Loan đến dự đêm thơ đó đă chia
tay tôi, ông mới đến trước tôi và nói rằng
ông đă im lặng để nghe tiếng Việt qua giọng
đọc thơ của tôi. Tôi cố t́m kiếm một sự
xúc động trên gương mặt ông. Nhưng tôi vẫn
chỉ thấy ánh buồn từ đôi mắt ông. Lúc
đó, tôi cảm giác như ông là một cái ǵ đó xa xôi và
khuất một nửa trong bóng tối.
Sau đêm
thơ, mấy người bạn nghệ sỹ Đài Bắc
rủ tôi đi chợ đêm. Chợ đêm ở Đài Bắc
là một "đặc sản" không chỉ dành cho những
người du lịch mà cả những người
Đài Bắc. Chúng tôi đi lang thang và tṛ chuyện về mọi
thứ. Thi thoảng tôi chợt nhớ đến Lưu Kiến
Sinh đi cùng, tôi quay lại kiếm t́m ông và vẫn thấy
ông lặng lẽ đi sau chúng tôi. H́nh như ông chẳng
tham gia vào bất cứ câu chuyện nào của chúng tôi.
Nhưng ông không rời bỏ chúng tôi nửa bước.
Trong chuyến đi chơi chợ đêm đó, Lưu Kiến
Sinh chỉ hỏi tôi một câu là Hà Nội bây giờ ra sao
và có chợ đêm như ở Đài Bắc không.
Lưu Kiến
Sinh đă đến thăm Hà Nội hai lần sau năm
1975. Trước năm 1975, ông chỉ biết đến
Hà Nội qua những trang viết của Nhất Linh. Ông
nói với tôi cho đến bây giờ ông vẫn giữ măi
h́nh ảnh của Hà Nội qua văn của Nhất Linh. Gần
30 năm sống ở nước ngoài, ông chưa một lần
trở về Trung Quốc cho dù đó chính là nơi cụ kị
ông sinh ra và lớn lên. Nhưng cứ vài năm ông lại trở
về Việt Nam và t́m cách đi Hà Nội khi nào có thể.
Sau khi phải
rời Việt Nam, Lưu Kiến Sinh định cư ở
Đài Loan một thời gian. Nhưng ông vẫn cảm thấy
trống vắng và hoang mang. Một cái ǵ đó làm cho ông cảm
thấy ông không thể nào yên ḷng. Cái ǵ? Ông cũng không biết
một cách rành mạch và đầy đủ. Thế rồi
ông quyết định sang Pháp làm ăn và sinh sống. Ông
đă yêu một cô gái Trung Quốc sống ở Bắc Kinh
sang Pháp du học. Rồi họ lấy nhau và sinh một cậu
con trai. Nhưng ông vẫn không một lần trở về
Trung Quốc. Ông nói ông sợ với một nỗi sợ vừa
rành rọt vừa mơ hồ.
Sau gần
mười năm sống ở Paris, ông vẫn thấy ông
chưa ở đâu cả mà vẫn lang thang trên con
đường nào đó trên mặt đất này. Ông nói với
tôi rằng mỗi tối trở về ngôi nhà ở Paris
ông vẫn thấy gió lạnh
thổi vào lưng. Có lẽ đó là cách nói của ông
để nói về sự trống vắng nào đó
chăng? Và gần mười năm ở Paris, theo ông, công
việc có ư nghĩa nhất của ông là dịch tác phẩm
của Nhất Linh sang tiếng Hoa và in trên một tờ
Trung Hoa Báo xuất bản ở Pháp.
Khi c̣n ở
Chợ Lớn, ông đă dịch Nhớ rừng của Thế
Lữ sang tiếng Hoa và xuất bản trên tờ báo tiếng
Hoa ở Sài G̣n năm 1972. Tôi tự đoán lư do v́ sao ông lại
yêu bài thơ Nhớ rừng như thế. Có một khoảng
u tối và một khát vọng mạnh mẽ trong thân xác
mong manh và gương mặt yếu đuối của
người đàn ông là Lưu Kiến Sinh. Thế là sau nhiều
năm ở Paris, ông lại trở về Đài Bắc. Ông
vẫn đi t́m một nơi trú ngụ. Một nơi mà mỗi
tối để ông trở về không c̣n thấy gió lạnh
thổi vào lưng nữa.
Trong những
ngày ở Đài Bắc, buổi nào có tôi đọc thơ
là ông lại đến. Vẫn như lần đầu
tôi nh́n thấy, ông lặng lẽ t́m một chỗ ngồi
hơi khuất ánh sáng và nghe thơ. Tôi không biết ông đến
để nghe thơ hay nghe giọng nói tiếng Việt.
Ông cũng sáng tác thơ nhưng không nhiều và sáng tác bằng
tiếng Trung Quốc. Mấy năm nay ông viết ca khúc.
Ông có ư định xuất bản một đĩa nhạc
gồm những ca khúc của ông ở Việt Nam. Ông hỏi
tôi ông có thể thu âm những ca khúc của ông ở Việt
Nam không? Ông vẫn ao ước lời những ca khúc của
ông được dịch ra tiếng Việt và được
hát ở Việt Nam.
Một chiều
được nghỉ, tôi và ông lang thang dọc một số
đường phố ở Đài Bắc. Trời có gió
và bắt đầu se lạnh. Khi chúng tôi ngồi nghỉ
trên một chiếc ghế ở khu phố đi bộ,
tôi đề nghị ông hát một bài hát của ông cho tôi
nghe. Ông cúi đầu một lát rồi cất giọng hát.
Có một người đi vào trong rừng và không bao giờ
trở lại ... Đấy là lời bài hát mà ông dịch
ra tiếng Việt cho tôi nghe. Trong gió lạnh ở một
chốn xa lạ và với đôi mắt lúc nào cũng buồn
và xa xôi.
Cho đến
lúc này, ḷng tôi mỗi lúc một vang lên câu hỏi: Lưu Kiến
Sinh, ông là một người Trung Hoa. Cố hương của
ông là ở chốn đó sao ông lại
sợ
trở
về?
NGUYỄN QUANG THIỀU
(@TuanVietnam.net)