Ông Mỹ Tho
(Trần
Mộng Tú)
Cũng như hầu hết những
cặp vợ chồng không chung một chủng tộc,
quê hương của người phối ngẫu bao
giờ cũng là một vùng đất hấp dẫn
để đến quan sát, tìm hiểu và
thưởng thức. Hơn ba chục năm lập gia
đình với người phụ nữ Việt Nam
này, trong khoảng thời gian mười năm gần
đây, anh đã về quê vợ đến
sáu lần, lần nào anh cũng thấy hài
lòng cho chuyến đi của mình.
Cái hài lòng của anh
giản dị lắm! Anh đến Việt Nam chỉ muốn
tìm xem đời sống, văn hóa của một
nước Á Châu khác nước Mỹ
như thế nào, nhất là nước
đó lại sau mấy chục năm nội chiến.
Anh là người thích tìm hiểu về
đường sá, về địa phương ở
những chỗ khác nhau, và anh rất giỏi ở
mặt này. Chỉ với một cái bản đồ
trong tay, không cần biết ở quốc gia nào,
và dùng ngôn ngữ nào, bao giờ anh cũng
tìm ra những con đường một cách dễ
dàng. Có lần anh chị sang tận Hung (Hungary)
đi cùng với hai người bạn văn của
chị ở Na-Uy, anh cũng là người hướng
dẫn đường sá, không hề lạc, mặc
dù bản đồ xe bus và bảng chỉ
đường bằng tiếng Hung, cả bốn người,
chẳng ai đọc được.
Lần nào đến Việt
Nam cũng thế, những ngày không đi du ngoạn
xa chung với nhau, chị muốn đi mua sắm, đi
thăm bạn riêng, chị đưa cho anh một
ít tiền, cắt nghĩa qua về trị giá
khác biệt giữa một trăm ngàn đồng
Việt và một Mỹ kim thế nào, dặn anh
mua bán ra sao, rồi chị đưa cho anh tấm thiệp
của khách sạn cất vào túi, sợ anh
lạc đường về. Sau này chính anh phải
cắt nghĩa lại về tiền cho vợ khi chị
lúng túng, anh nghĩ anh giỏi toán hơn vợ,
chị chỉ biết làm thơ; anh chào chị,
đi lang thang một mình, không bao giờ lạc.
Anh có thói quen thức dậy thật sớm, ra
đi cùng với tiếng chuông nhà thờ.
Những buổi sáng ở
Hà Nội, có khi chị còn ngủ, anh dậy
đi xem lễ 5 giờ sáng ở nhà Thờ Lớn.
Xem lễ xong anh quay về góc phố gần khách
sạn anh chị ở, ngay vỉa hè nơi có
bà cụ bán nước trà, bánh
chưng rán, bánh mì và trứng ốp la
cho khách. Anh kéo chiếc ghế thấp sát
đất, ngồi chênh vênh trên cái ghế
quá nhỏ với mình; vừa ăn, anh vừa mở
cuốn tự điển cầm tay nhỏ xíu ra,
nói chuyện với bà cụ chít khăn mỏ
quạ, răng đen. Anh ngắm cụ, cụ ngắm
anh, cả hai cùng hạnh phúc.
Sau hai năm anh trở lại
góc phố này, tìm bà cụ ngày
trước, cụ vẫn ngồi đó, nhưng
không nhận ra người khách cũ, anh buồn
mãi, than với chị, tại sao không nhận ra
tôi. Chị biết rồi, cụ cũng coi anh như
những ông “Tây ba lô ấy mà,” cụ
bán hàng xong, cụ nhớ làm gì, cụ
đâu có biết anh có tình như thế.
Tội nghiệp anh!
Có lần anh thuê một chiếc
xe đạp, anh đi lang thang mỗi ngày, anh chụp
hình, anh mua nải chuối, quả bưởi,
cái bánh đa, gói xôi của những
người buôn gánh, bán bưng, anh mang về
xếp đầy buồng. Khi bất chợt có
người thân đến tìm thăm anh chị,
anh đem ra mời, để được dịp kể
lại những khuôn mặt, cách bán mua ở
những người anh được may mắn gặp
trên phố. Anh đi cả năm cửa Ô bằng
chiếc xe đạp này, anh về nói với vợ:
Chân cầu Long Biên bẩn quá sức, người
ta buôn bán ngay ở đó, không biết
làm sao mà thở được!
Có một buổi sáng
khác, anh thức dậy trước tiếng
chuông, anh ngủ lơ mơ thế nào, cứ ngỡ
chuông nhà thờ đổ rồi, anh vội
vàng sửa soạn đi, anh xuống nhà,
đánh thức người gác khách sạn,
mở cửa cho anh. Ra đến ngoài đường,
anh mới giật mình vì trời còn tối
quá, chắc mới hai, ba giờ sáng (anh không
bao giờ đeo đồng hồ,) quay lại
đánh thức người gác cửa lần nữa,
không nỡ; anh đi thử một quãng, mới
vài chục bước, bỗng từ đâu, bốn
năm phụ nữ ùa ra, chặn trước mặt
anh; anh nhìn cách ăn mặc của họ, phấn
son trên mặt, anh biết anh đang gặp ai rồi,
anh cứ bước thẳng về phía nhà thờ.
Một cô níu tay anh lại, cô không
nói được tiếng Anh, cô giơ tay
làm hiệu, anh lắc đầu, cô khác lại
đến cắt nghĩa thêm, anh lắc đầu tiếp.
Anh đành phải quay lại làm phiền người
gác cửa. Anh về kể cho vợ nghe, rồi than,
đáng nhẽ tôi phải cho người ta
ít tiền chứ, nhưng tôi không có nhiều
trong túi. Tội nghiệp họ, việc làm của
họ mà.
Anh đang đi ngoài đường,
gặp những thanh niên lao động, hay sinh viên
ngồi ăn ở vỉa hè, bên dưới
cái bảng có chữ “Chả
Rươi” hay có chữ: “Miến
Lươn,” anh chẳng biết là món
gì, nhưng họ giơ chai bia lên, cười với
anh, chỉ nói: “Hello” thế là anh
sà xuống ngay; anh nói với chị là họ
muốn thực tập tiếng Anh đấy. Hôm sau
anh lại hẹn hò ra ngồi uống bia với họ,
cho họ thực tập tiếp.
Một lần khác anh đang
đi trên cầu Long Biên, đang ngó ngang
ngó dọc, bỗng anh thấy có ai móc tay
vào túi sau quần, anh quơ tay lại, nắm
được cổ tay một thanh niên, người
đó sợ quá, vội buông cái ví
đã cầm được trong tay ra, rồi vụt
chạy. Anh thấy người đàn ông
đó ốm yếu, anh rượt theo, muốn cho
ít tiền, nhưng người đó chắc sợ
anh đánh, nên chạy vụt xuống phía
dưới chân cầu; anh về kể với vợ,
chạy nhanh quá, tôi không bắt kịp.
Anh thích nhất được
cắt tóc ở vỉa hè, chị cản thế
nào cũng không được. Chị
đành đi theo anh đến chỗ cắt
tóc. Người thợ treo cái gương nước
thủy đã mờ trên một bức tường
thấp, sứt mẻ, nước vôi cũ, loang lổ;
hộp đồ nghề để dưới chân
tường, anh ngồi vào ghế, người thợ
mở ra một cái khăn có một mầu nhờ
nhờ, không phải trắng, không phải
vàng, nó gần tiệp mầu với cái
áo người thợ đang mặc, giũ một
cái rồi đeo vào cổ khách. Chị gần
đứng tim khi thấy người thợ mở con dao
lưỡi lam cán dài ra đưa vào cổ
anh cạo ngược lên mặt. Chị rên thầm
trong cuống họng. “Chúa ơi, ông này
không phải là người trở về từ
Trường Sơn chứ? Ông ta có từng
hô chống Mỹ cứu nước không? Ông
ta có bị chiến tranh làm cho tinh thần suy sụp
không?” Chị thở phào khi thấy con dao
lưỡi lam được gấp lại cho vào
cái hộp gỗ dưới đất. May quá!
Ông thợ ít nói, nhưng không chống Mỹ.
Anh ngồi nhắm mắt một cách khoan khoái
khi được ông thợ tẩm quất trên
vai, trên cổ. Lần kế về Hà Nội, chị
nhất định không cho anh cắt tóc vỉa
hè nữa, chị dọa anh, coi chừng lưỡi
dao đó có vi trùng HIV, và có thể
làm trầy da anh. Anh nể vợ, thôi lần
đó, nhưng cũng trốn đi cắt tóc vỉa
hè ở hai chuyến về Việt Nam kế tiếp.
Anh về Yên Bái nơi
có họ hàng bên nội của vợ, anh cũng
sẵn sàng đón miếng trầu từ tay mấy
bà chị, cho vào miệng nhai thử. Anh ăn tất
cả những thức ăn được tiếp
vào bát, dù đã quá no, hay có miếng
rất lạ, chưa ăn bao giờ. Ăn xong anh cũng
ra giếng múc nước rửa tay, rửa mặt,
anh nói với chị. Họ sung sướng hơn
mình nhiều! Anh làm sao hiểu được con
sông Hồng sau nhà là một mối lo cho mọi
người. Anh theo các anh chị ra thăm mồ mả
thân nhân bên vợ ngoài đồng, đi
theo những rẻo đất bên bờ ruộng,
và ao ước có một ngày được
bước xuống cấy thử một nắm mạ,
được tát thử một gầu nước
như mấy nông gia ở đây. Anh nói với
chị, thế nào anh cũng phải thử một lần
cho biết.
Anh về nhà cháu vợ ở
vùng ngoại ô Tân Thái Sơn, Sài
Gòn. Những người hàng xóm, những trẻ
con trong xóm kéo đến đầy nhà
thăm hỏi vợ chồng anh. Chỉ mười
phút sau, chị đã thấy anh ngồi trên
một cái thành tường thấp, đưa
hai chân xuống cho trẻ nhỏ bám đu
lên, và hai mươi phút sau thì đứa
trên vai, đứa trên lòng bu kín lấy
anh, không nhìn thấy anh đâu cả, chỉ
nghe thấy tiếng cười ròn rã, tiếng
nói huyên thuyên của trẻ con tranh nhau
đòi trèo lên anh.
Lần đi Việt Nam vừa qua,
anh cũng có thêm bao nhiêu bạn. Một
người cháu có nhà trong một con hẻm
ở đường Nguyễn Trãi, Sài Gòn,
mời anh chị đến ở. Cháu bận đi
làm việc cả ngày, đưa chùm
chìa khóa cho anh chị, nên anh chị đi, về
rất thoải mái. Sáng sớm, chị còn
ngủ, anh đã ra đường, anh đi bộ ra
công viên ở góc Phạm Ngũ Lão
và Nguyễn Trãi, xem hoặc cùng tập thể
dục với những người ở đó, rồi
anh đi bộ ra chợ Bến Thành, lấy xe bus trở
về lại Nguyễn Trãi. Bao giờ anh về cũng
có gói quít, và cái bánh đa.
Đó là bữa điểm tâm của anh. Rồi
anh lang thang vào sâu những con hẻm nhỏ
hơn ở phía sau nhà, những con hẻm chia ra
như những con lạch nhỏ giữa hai con hẻm
chính của Nguyễn Trãi và Cống Quỳnh.
Chính trong những hẻm này anh đã
lúc trưa, lúc chiều ngồi xuống với từng
nhóm bạn mới, chung quanh một cái bàn thấp
kê sát tường hay dưới một gốc
cây, hay trước một cái quán, với
vài ba cái ghế nhỏ. Những người
đàn ông làm bạn với anh, có
nhóm mới khoảng trên dưới ba
mươi, có nhóm xấp xỉ tuổi anh. Anh
và họ không nói chung một ngôn ngữ
nhưng vẫn hiểu nhau nói gì, và vẫn
hòa đồng với nhau trong một “buổi nhậu”
được. Anh ăn bất cứ cái gì họ
mời, anh luôn luôn giành phần trả tiền,
nhưng đôi khi với số tiền nhỏ anh
để họ trả như một điều anh
tôn trọng họ. Có hôm anh về hỏi chị:
- Em biết chả
chìa là chả gì không?
- Biết chứ,
là thịt thái mỏng, xiên vào cái
que nhỏ nướng chứ gì?
- Sai rồi, thịt
đó ở cái xương sườn, người
ta tuốt thịt vào giữa, để chìa hai
đầu xương ra, rồi mới nướng.
Chị há
hốc miệng, à ra thế. Hóa ra anh ngồi ở
mấy cái quán “Cầy Tơ” trong con hẻm
Cống Quỳnh. Anh kể lại với chị, mới
đầu anh tưởng thịt bò, ăn xong họ
mới nói là thịt chó, tôi không
dám ăn nữa.
Anh chị ở
Sài Gòn ít ngày, xong ra Hà Nội,
đi Cam Bốt, rồi quay lại Sài Gòn ở
thêm mấy ngày nữa. Chị ngất ngư, muốn
nghỉ ngơi trước khi về Mỹ, nhưng anh
thì không. Anh tiếc rẻ mấy ngày
còn lại, muốn đi thăm được
càng nhiều nơi càng thích. Anh lấy mấy
tấm bản đồ, trải ra, anh tìm đường
đi Vũng Tàu. Anh làm một chuyến đi
“Solo”, vừa đi vừa về trong ngày.
Đi bằng cả đường thủy, đường
bộ cho biết. Chị tin anh làm được,
đưa cho anh thêm ít tiền, dặn anh đến
nơi phải gọi về cho chị an lòng. Anh
đi xe đò từ Sài gòn lúc bảy
giờ sáng; buổi trưa chị đã nhận
được email anh gửi về từ Vũng
Tàu. Anh về lại Sài Gòn bằng tàu
cánh ngầm, bảy giờ chiều anh đã ngồi
ở quán cóc với bạn.
Anh có
cái thú nói chuyện với thanh niên lao
động, với những bà bán hàng
gánh (chẳng hiểu bằng cách nào mà
họ hiểu nhau). Anh thích nhìn hình ảnh
trẻ em mặc đồng phục tan học túa ra ở
cổng trường, thích ngắm nghía những
người đàn ông lớn tuổi ở
Hà Nội đi cái xe đạp khiêm nhường
không có chắn bùn, chắn xích, mặc
cái áo vét cũ nhưng vẫn rất
tươm tất, anh nói ngay cả những người
rất nghèo ở Việt Nam, nhất là Hà Nội,
áo quần luôn thẳng, không nhàu nhĩ,
chị bảo, đó là những người
có gốc Hà Nội cũ, họ cố giữ
câu “Đói cho sạch, rách cho
thơm” đấy.
Hơn ba
mươi năm lập gia đình với chị, anh
ăn những thức ăn chị nấu, bưng lên
bàn. Món thích, ăn nhiều, món
không thích lắm, ăn ít, anh không bao giờ
kén chọn. Chắc anh ăn cái tình của
chị trong thức ăn hơn là chính thức
ăn. Hình như cái bao tử của anh cũng bị
Á Đông hóa rồi, nên thỉnh thoảng
ăn thức ăn của Âu, Mỹ anh than nặng bụng
quá. Cuối tuần chị có đi chơi với
bạn gái, chỉ cần thổi cho anh một đĩa
xôi lạc, để sẵn lên bàn, chị
yên tâm đi chơi nửa ngày. Anh yêu
không khí tụ họp giỗ tết trong gia
đình, anh giới thiệu với các bạn Mỹ
về truyền thống tốt đẹp của bên
vợ và anh mời các bạn mình đến
dự, khi chị làm giỗ cho cha mẹ chồng. Anh
sống thoải mái với phong tục, tập
quán Việt, mặc dù trước khi lập gia
đình với chị, anh không có một
chút khái niệm gì về quê hương
chị. Hơn thế nữa, chị là người
phụ nữ Á Đông đầu tiên anh gặp.
Anh như dòng nước mặn hòa tan vào
dòng nước ngọt không một chút do dự.
Trong khi chị sống ở Mỹ, lúc nào cũng
lúng túng, không tự nhiên như một
người bé nhỏ được ai cho cái
áo dày quá, rộng quá, hơi sặc sỡ,
mặc vào vì lịch sự cộng thêm một
chút hàm ơn, thế thôi.
Chị đặt
tên anh là: “Ông Mỹ Tho” vì anh
đã Việt hóa. Còn chị, chị yêu
chồng, yêu con, yêu cái phần đất bao
dung chị, nhưng vẫn chẳng bao giờ Mỹ
hóa được. Chị nghĩ, trong cuộc
hôn nhân này, anh là người sung sướng
hơn chị.
TRẦN MỘNG TÚ
Tháng 2/2010
- Viết sau chuyến thăm
Việt Nam -
(Kiều Diễm sưu tầm
và chuyển)