VÀI NÉT VỀ NGÔI ĐỀN
THI CA VIỆT NAM
(Trần Khải Thanh Thuỷ)
1.
Đôi điều bày tỏ:
... Cũng như bao nhiêu ngôi đền
khác (tri thức, lịch sử, văn hoá, khoa học
v. v. . ) lẽ ra ngôi đền
này phải thực sự linh thiêng, nơi chỉ
có những người tài giỏi, có chữ
nghĩa, văn chương (mang đầy đủ
thiên chức của một nhà văn) mới
vào được.
Đơn giản, để phản ánh xã
hội, theo kịp dòng chảy chung của dân tộc,
trong mỗi nhà văn phải hội tụ rất nhiều
nhà khác nhau, như : Nhà sử
học, nhà kinh tế, nhà tâm lý, nhà
văn hoá, xã hội v. v... Kèm một
phương pháp tư duy độc đáo,
cách thể hiện sinh động mới phản
ánh được muôn mặt của đời sống. Từ cái sâu,
cái xa, cái tiềm ẩn, cái nông sờ,
cái sáng tỏ, cái chập chờn, cái
thật, cái ảo, cái uyển chuyển, mềm
mại, thì trang viết mới thu
hút được độc giả. Nói ngắn gọn
thì "văn chương là chuyện đời
thông qua việc đào bới bản thể
mình ở chiều sâu tâm hồn, chứ
không phải chỉ đi hớt lấy cái
váng bọt nổi trên mặt của ngoại vật"...
Tiếc rằng ngôi đền văn chương ở
Việt Nam
cũng chịu thảm cảnh chung
như rất nhiều ngôi đền khác, đầy
cỏ giả, rác rến.
Số người biết đào bới
bản thể mình, cất lên tiếng nói
riêng để đối thoại, tranh luận, biện
bác với các ý thức xã hội,
ý thức nghệ thuật của thời đại
rất hiếm. Thậm
chí có thể đếm trên đầu
ngón tay như Ma văn Kháng,
Nguyễn Huy Thiệp, Phan thị Vàng Anh, Nguyễn thị
Thu Huệ v. v... Còn lại đa phần "ăn theo, nói leo" các quan điểm,
nghị quyết thống soái của đảng. Văn chương
đánh đu chính trị, minh hoạ cho các
điều nọ, luật kia theo
đơn đặt hàng, lấy miếng mà
không phải lấy tiếng. Nếu không đánh
đu thì cũng là một thứ văn
chương "phải đạo", lúc nào cũng
quần chùng, khăn xếp, áo thâm đen, một
lô các xiềng xích phong kiến bao quanh cổ...
Số người dám chấp nhận rủi ro, nhất
quyết nhập cuộc, không tìm sự an
toàn ở ngoài vòng nguy biến theo kiểu
khí tiết nho quân tử kết hợp với bản
lĩnh trí thức hiện đại có lẽ mới
chỉ có Dương Thu Hương, Nguyễn Ngọc
Tư, Trần Mạnh Hảo, Dư thị Hoàn v.
v....
2. Con
đường vào hội nhà văn Việt Nam :
Như rất nhiều các hội khác ở
Việt Nam (Kiến
trúc, dân gian, khoa học v. v) Con đường
vào hội nhà văn Việt Nam vô cùng gập
ghềnh, trúc trắc.
Cửa chính rất hẹp, còn
cửa sau luôn rộng mở, cửa trước
giành cho nghệ thuật, cửa sau cũng giành
cho nghệ thuật nhưng mà là nghệ thuật...
giải ngân. Nếu
người Đức nói "Phải biết mở
mọi cánh cửa bằng đồng đê mac,
thì người Việt thời mở cửa hội
nhập cũng nói:
"Đô la đi trước, mực thước
theo sau".
Chính vì thế mà không ít
người có bề dày tác phẩm- cả
in chung lẫn in riêng bằng đúng số tuổi
của mình nhưng cứ xếp hàng, dài cổ
ra mà chờ: 5 năm,
10 năm hoặc lâu hơn nữa ... tận đến lúc
"nói tiếng đất, quên tiếng trời"
mà đơn chưa được hội xét duyệt,
đành phải đem theo "ống quyển",
"hồ thỉ tang bồng" của mình xuống
âm phủ. Ngược
lại biết hành xử theo quan
điểm của thời hiện đại: "đô la lân la xin
chữ ký, đô la vật ngã thủ trưởng"
thì chỉ tháng trước, tháng sau
đã ... "ghế cao ngồi tót sỗ
sàng" rồi.
Trường hợp của nhà thơ
Hương Trâm (hội văn nghệ Hà Nội),
từ năm 2003 đến nay đã 3 năm có lẻ
mà anh em trong và ngoài hội, còn đồn
thổi, đơm đặt mãi, chỉ vì
nhà thơ có cái tên rất thơ
này từng hối lộ cho nhà thơ Phạm Tiến
Duật -(trưởng ban xét duyệt
của hội) một đôi giày ngoại,
kèm 2 triệu tiền mặt để vào. Lẽ ra
"ông trao chân giò, bà thò chai rượu". Song khi ông
đã trao rồi mà danh sách các hội
viên được kết nạp vào hội
năm đó lại chẳng có tên
Hương Trâm.
Thế là ... xăm xăm băng hội nhà
văn mà vào... chống
nạnh, bắc miệng chỉ tay từ cổng hội
lên mà chửi ... nồng nàn, quyết liệt
luôn (như ả đàn bà mất chó, mất
gà ở nhà quê), làm nhà thơ họ
Phạm... không...
tiến, không duật được, phải trốn
biệt xuống gầm bàn của phòng làm
việc. Ngay tối
hôm ấy, ngài Phạm phải cởi đôi
giày ngoại đang đi dưới chân,
dùng si đánh bóng mạ kền như mới,
gói vào giấy báo (kèm 2 triệu) nhờ
vợ đem đến lạy lục như tế sao
để nhà thơ cấp thành nhận lại,
kẻo đã cháy nhà ra mặt Duật rồi
thì tai tiếng oan gia suốt đời, tham giày
mà bỏ... ghế như chơi (!) .
3. Việc
xét giải thưởng của hội.
Giống như việc chen
chân vào hội, việc xét giải thưởng
đầy tiêu cực, dối trá. Người ta sẵn
sàng mua ban tổ chức với cái giá
cưa đôi. Họ
thậm thụt đi đêm với nhau và giao hẹn
rõ ràng rành mạch. Nếu tôi
được giải thì số tiền thưởng
cứ chia đôi, coi như bồi dưỡng ban tổ
chức một nửa.
Nếu giải thưởng là hiện vật chỉ
có một thứ duy nhất như vô tuyến, tủ
lạnh, thì... người
được xét chỉ được tiếng,
mà phải để lại miếng cho ban tổ chức
xơi, ban tổ chức sài. Nhà thơ Trần Quang
Quý, nguyên tổng biên tập báo gia
đình và xã hội, một tờ báo
có khá nhiều độc giả ở Việt Nam,
trong khi giải trình về số tiền tham ô một
tỷ, đã khẳng định chi 300 triệu cho việc
mua giải thưởng của hội cho tập thơ của
mình với cái tên vô cùng độc
đáo: "Giấc
mơ mang hình chiếc thớt". Chính vì sự độc
đáo đến mức gở miệng này
mà ngay sau khi nhận giải nhất năm 2005 do hội
nhà văn trao tặng, nhà thơ liền bị
... lên "thớt".
Không phải "cái ghế quan
trường giết chết thơ" như mọi
trường hợp bình thường và phổ
biến khác mà chính giải thưởng tập
thơ đã giết chết tươi cái ghế
tổng biên tập.
Tất nhiên, 300 triệu cũng phải bôi
đủ kiểu, từ mời ban sáng tác, ban
xét giải, ban thi đua đến chủ tịch,
phó chủ tịch hội, các trưởng
phó phòng, thậm chí cả bạn bè của
họ, cứ thấy được khao là "alố
alô" gọi bạn bè, anh em chiến hữu
đến. Đâm lao phải theo lao, thà "khao nhầm
còn hơn bỏ sót", sau đó đến
tiết mục phong bao. Cả
một cơn mưa phong bì rơi tới tấp xuống
đầu các quan chức của hội hoặc ở
nhà riêng, hoặc ở phòng làm việc... cốt để
: " có 300 triệu giải này mới
xuôi"
4. Vai
trò, chức năng của người cầm bút:
Nhà văn Tạ Duy Anh trong cuốn đi
tìm nhân vật (một cuốn sách bị cấm
ở Việt Nam)
đã nói:
"Xem ra ở xứ ta, nhà văn, nghệ sĩ
có thể làm bất cứ việc gì, trừ... nghệ thuật". Nghĩa là có thể
"ăn theo, nói leo", có thể tụng ca,
có thể đẻ non, có thể chửa hoang,
đánh đĩ, nhưng ngủ với ông chồng
văn chương mà đẻ ra những áng
văn chương đích thực cho đời, chuyện
chữ nghĩa vượt qua cả giới hạn chữ
nghĩa, phản ánh cái thối tha, ung nhọt của
cuộc đời, thì liệu hồn, không bị
ban văn hoá tư tưởng bóp cổ chết
tươi cũng bóng gió răn đe theo kiểu
lưỡi không xương, miệng không cạp: "à, mày toàn
dùng những từ ngữ oái oăm, ma mãnh,
quỷ biện, huyễn hoặc, quái đản để
gọi tên sự vật, mày định ám chỉ
điều gì, hả ? Tại sao trong văn mày lại
viết là "mất bay cái chức đảng
trưởng" ? Có phải
ám chỉ tổng bí thư
không? Rồi: "Viết
như thế là làm giảm sút sức chiến
đấu, hiện nay cả dân tộc đang gồng
mình đánh Pháp mà lại viết
:
"Ôi những cánh đồng
quê máu chảy
Dây thép gai đâm nát trời
chiều"
Một loạt các nhà văn chân
chính, kiến thức văn học rộng rãi,
ý thức thâm sâu, lời văn đẹp
đẽ nhưng chỉ cần mang ý vị siêu
hình, ý tại ngôn ngoại, biến hoá
vi diệu, thậm chí chỉ cần đậm
đà mầu sắc dân gian thôi là bị
đảng hành cho tới số, không tổ chức
kiểm thảo, đấu tố cũng phải tiến
hành rửa não, sao cho hết chất nghệ thuật
trong đầu mới thôi.
Ví dụ nói "anh yêu em" thì lập
tức phải ví... như yêu đất nước,
vất vả đau thương tươi thắm vô
ngần, hoặc nói đến chiến tranh cũng
không được nói đến sự chết
chóc, đau thương, mà phải là
"đầu súng trăng treo" rồi
"trái tim anh chia ba phần tươi đỏ, anh
giành riêng cho đảng phần nhiều, phần
cho anh và phần để em yêu"... Nói
đến lãnh tụ bành trướng cũng phải
nói: Bác Mao
nào phải đâu xa, bác hồ ta đó
chính là bác Mao v. v... Xem ra ngoài sự
ăn theo nói leo tư tưởng
nghị quyết chính sách của Đảng cầm
quyền thì nhà văn chẳng còn quyền
gì khác, ngoài sự ngu tối, u mê...
5. Thay
cho lời kết:
Do không khí thiếu tự do, dân chủ
mà nhà văn không được quyền tự
do tư tưởng, tự do sáng tác. Do bị đảng cộng sản
áp đặt và đè nén, cùng nỗi
ám ảnh từ nghìn năm trước mà họ
phải “Tâm hệ nhất xứ, thủ khẩu
như bình” nghĩa là buộc trái tim lại, miệng giữ kín như hũ
nút để tồn tại, sống còn. Nếu làm ngược lại,
bung trái tim ra, miệng nói theo
những lời trái tim mách bảo thì thể
nào cũng bị đảng kết tội phản
động, chống đảng và bị đảng
tịch thu tác phẩm.
Chưa kể họp hành, luận tội, đấu
tố, kiểm điểm tư tưởng liên
miên ngày này sang ngày khác rồi
đưa vào danh sách đen của công an,
báo cáo với ban văn hoá tư tưởng
trung ương, v. v...
Chính vì thế mà phần lớn
các nhà văn không dám nói lên những
suy tư thật của mình, hoặc muốn nói
cũng phải ẩn dụ, vòng vo tam quốc,
rào dậu chán chê mê mỏi mới
dám đề cập đến cái cốt
lõi, sâu xa của hiện tượng. Cho nên những
giọt mật họ đóng góp trong chõ mật
văn chương của đời thường, tuy
không ít ỏi về lượng nhưng quá
kém cỏi về chất. Nói chính xác
hơn là thành tựu họ đóng góp
cho nền văn chương Việt Nam quá eo
hẹp. Có thể
nói không ngoa rằng, cho đến nay, chế độ Cộng Sản Việt
Nam đã không sản sinh ra những nhà
văn lớn ở miền
Bắc, mặc dù đó là cái nôi của
văn minh và văn hóa nước nhà.
Để kết thúc bài viết nhỏ,
mang tính chấm phá này, tác giả xin
mượn lời của nhà văn Nguyễn
Đình Thi (trong tác phẩm Nguyễn Trãi ở
Đông Quan), một tác phẩm gây nhiều
tai tiếng trong thập kỷ 80, vì đã
đưa ra những nhận định vô cùng
xác đáng: "Bao nhiêu con người hai tay phải
chắp lại, mắt phải khép xuống, đầu
óc phải nghĩ theo cùng một khuôn, sống
từ bé đến lớn đến già phải
làm theo những điều do các bề trên sắp
đặt. Trí tuệ
con người chỉ còn là cái túi
để bỏ vào đây cái kinh chuyện
thánh hiền, bao nhiêu sách vở đều phải
chép như nhau cũng những câu chuyện ấy,
sự học chỉ là làm sao ghi nhớ cho thuộc
lòng, không được mở mắt nhận
xét, so sánh, không được hỏi,
tìm xem sự vật trong cuộc đời ra làm
sao ? Cứ như thế, cha truyền con nối, con
không được làm khác với cha, đời
sau không được thay đổi nề nếp
đã định từ trước, cứ như thế,
tất cả khô héo dần, hóa thành
đá, không một mầm xanh nào được
mọc lên trong tâm hồn con người”
Chân
cầu 18-12-2006
TRẦN KHẢI THANH THỦY
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)