ĐẦU NĂM KIẾM CHUYỆN với
“HỒN
THIÊNG SÔNG NÚI”
(Tưởng Năng Tiến)
Đời vẫn vốn không
nương người thất thế.
(Nguyễn Tất Nhiên)
Người Việt sính thơ, và hay
sáng tác những bài thơ (rất) … vụng.
Ngoài cái tật hay làm thơ ra,
dân Việt còn có một cái thói xấu
(lớn) khác nữa là thích bắt người
khác phải nghe hay đọc những câu thơ
ngô nghê của mình. Nếu
bạn không tin như vậy, cứ thử vào xem
Đàn Chim Việt Online sẽ thấy. Ở diễn đàn này, trong phần
góp ý, bên dưới những bài chủ,
bao giờ cũng xuất hiện năm bẩy bài
thơ lãng xẹt.
Tôi cũng là người Việt, nên cũng
thích làm thơ, cũng chuyên môn sản xuất
ra loại thơ … (rất) vụng, và cũng
không từ bỏ một cơ hội nào để
gởi thơ lên net. Bài thơ đỡ dở nhất
– tôi viết vào mùa Hè năm 1980,
tên “Chiều Vọng Các,” sau khi leo rào từ một trại tị nạn
ở Thái Lan ra Bankok chơi - có những đoạn
(hơi) sến, như sau:
Chiều về trên xứ lạ
Cười nụ cười Anglais
Buồn qua hơi thuốc Thái
Thèm một phin cà phê
Chiều về
trên xứ lạ
Execuse me
I’m sorry
nói mãi
Thương một
câu chửi thề
Chiều về
trên xứ lạ
Ngỡ
ngàng Chinatown.
Ðây
rượu nồng thịt béo
Mà bạn
bè nơi nao
Dừng
chân nơi quán lạ
Thèm
cơm chiều hương quê
Mẹ cha
ơi đừng đợi
Chiều nay con
không về
(Chị ơi
thôi đừng đợi
Chiều nay em
chưa về)
Thơ thẩn cỡ
đó, nếu đem dự thi chắc rớt (rớt
chắc) nhưng mang gửi về Việt Nam cho gia
đình cho ông bà già chơi thì họ
… phê hết biết luôn. Má tui đọc
xong, khóc ròng cả tháng. Bả lu loa, mếu
máo kể lể với mọi người:
- Coi: thằng út
tui là dân nhậu. Trên tay nếu không cầm
ly thì cũng cầm chai. Nó sinh ra để uống.
Bỏ uống là chết mẹ. Nó rất thích
cảnh cơm hàng - cháo chợ, và thấy
rượu thịt là vui mừng như lân thấy
pháo. Vậy mà (Trời ơi) bây giờ thằng
nhỏ bước vô quán như cái xác
không hồn, thẫn thờ nhớ mẹ nhớ cha,
nhớ bạn nhớ bè … tới đắng miệng,
ruợu uống không vô ! Sao mà khổ thân
dữ vậy con ơi? Vì ai mà con tui phải
lìa xa gia đình, quê hương và …
lưu lạc nơi xứ lạ quê người
như vậy, hả mấy ông cách mạng ?
Ở thời điểm
này, không riêng chi má tui đâu nha,
ít nhứt cũng nửa nước Việt Nam
đã ngộ nhận về thiện chí của
nhà cầm quyền như thế. Người dân
tưởng rằng chế độ bao cấp, chính
sách hộ khẩu, tem phiếu, kinh tế mới, cải
tạo công thương nghiệp, đổi tiền
… đều chỉ là những phương thức
cào bằng, bần cùng hoá cả xã hội,
và tha hoá con người … nên cùng
nhau bỏ chạy. Còn về phiá nhà nước,
khi thấy thiện chí xây dựng một xã
hội công bằng, độc lập, tự do, ấm
no, hạnh phúc … bị người dân
cương quyết khước từ - bằng cách
liều mạng bỏ phiếu bằng chân - nên nổi
giận, và đã (có) nặng lời
chút đỉnh:
- Tất cả chỉ
là những ngộ nhận nhất thời, và thời
đó đã qua. Bây giờ là một thời
khác hẳn. Những kẻ (lỡ) bỏ đi, vẫn
thường được phép trở về.
Và khi về, đều được Đảng
và Nhà Nước hân hoan chào
đón.
Năm 2004, có 19
người Việt ở hải ngoại được
vinh danh tại Văn Miếu, Hà Nội (1).
Năm 2005, thêm 19 người khác tiếp tục
được nhận lãnh cái vinh dự (to lớn)
tương tự (2).
“Nhận xét về
tổ chức Lễ Vinh danh nước Việt, ông
Nguyễn Chơn Trung - Chủ nhiệm Uỷ ban Người
Việt Nam ở nước ngoài TP.HCM đánh
giá cao chương trình mà Báo Điện
tử Vietnamnet đã thực hiện và thành
công như mong đợi. Ông Trung cho rằng, Nghị
quyết 36 của Bộ Chính trị với nhiều
chính sách đổi mới ngày càng
thông thoáng hơn và tạo điều kiện
cho bà con kiều bào ngày càng gần với
quê hương, đất nước.”
“Thật vô
cùng xúc động khi những người con Việt
ở xa Tổ quốc hội tụ về đây,
cùng lắng nghe tiếng gọi của non sông
hào hùng từ ngàn xưa vọng về. Họ
đại diện cho gần 3 triệu người Việt
Nam ở nước ngoài, mang trong người
dòng máu Lạc Hồng đã có những
đóng góp trong quá trình đổi mới
và phát triển đất nước. Họ xứng
đáng là ‘Những sứ giả Lạc Hồng’,
là chiếc cầu nối giữa người Việt
trong nước và ngoài nước, giữa Việt
Nam và cộng đồng Quốc tế.”
Nhà báo Nguyệt
Quế đã viết những dòng chữ
(vô cùng) thắm thiết như trên, trong
bài báo có tựa là Khi Hồn Thiêng
Sông Núi Gọi Về tại chuyên san Người
Viễn Xứ, ngày 6 tháng 2 năm 2006
Tui in bài báo
này, gửi dìa nhà cho ông bà già
coi chơi. Ba má tui sẽ hãnh diện và sung
sướng (muốn chết) khi biết rằng nhờ sự
thông thoáng của NQ 36, thằng con đã
được chuyển từ diện “cặn
bã xã hội” qua thành … “những
sứ giả Lạc Hồng” rồi ! (Tui viết
rõ ràng là “Lạc Hồng”, đừng
có đánh máy hay đọc lộn thành
“Lạc Hồn” nha, mấy cha). Hậu vận của
tui, rõ ràng, quá tốt. Tui quả là
người (cực kỳ) may mắn.
Không phải ai tha
phương cầu thực cũng đều có cái
may mắn đó đâu. Bà Tạ Thị
Giám là một người, không may, như thế.
Trong một bài
bào có tên Taiwan Shelter Helps Abused Vietnamese
Workers,” đọc được trên nhật
báo Mercury News – số ra ngày 12 tháng 12
năm 2006 – ký giả K. Oanh Ha đã mô tả
hiện cảnh của bà Giám, như sau:
“Tạ Thị
Giám, một người phụ nữ Việt Nam,
đã bị hấp dẫn bởi lời hứa hẹn
về số tiền luơng 500 Mỹ Kim mỗi
tháng. Bà rời nhà nơi làng quê
nghèo nàn ở ngoại thành Hà Nội
để lao động cật lực trong một viện
dưỡng lão tại Đài Loan, với hi vọng
có tiền cho con đi học.”
“Ngược lại,
bà Giám cho biết, bà đã bị biến
thành nô lệ cho người chủ Đài
Loan, bị chủ đánh đập, không cho
ăn, và buộc phải làm việc cho đến
khi gục ngã. ‘Họ đối xử với
chúng tôi như một con vật, chứ không
phải là một con người… vì biết
rằng chúng tôi đã lâm đến
bước đường cùng, không còn
nương tựa vào ai được nữa’.
Bà Giám, 36 tuổi, đã nói như thế”
Tưởng
“như thế” đã đủ nát
lòng, vậy mà nhiều cảnh đời lưu
lạc còn truân chuyên hơn thế nữa. Những
nạn nhân trong cuộc - theo tường thuật của
Tuần báo Viet Tide, qua bài phóng sự
“Người Việt Trên Đất Đài: Lời
Kêu Cứu Của Những Phận Người Bị
Chà Đạp,” phát hành từ California
ngày 20/05/2005 - đều xin được giấu
tên:
- N. nói:
“Quê tôi ở Việt Trì... Làng
tôi nghèo lắm khó kiếm được
công ăn việc làm … Tôi sang Đài
Loan ngày 18 tháng Giêng năm 2005. Theo hợp
đồng với công ty môi giới tại Việt
Nam, tôi sẽ chăm sóc một ông già bị
liệt toàn thân. Khi đi tôi đã vay gần
20 triệu tiền Việt Nam để giao cho công ty
môi giới... Tôi bị cưỡng hiếp nhiều
lần trong suốt thời gian bị cầm giữ trong
nhà tay chủ môi giới này”.
– M. nói:
“Làng quê của em ở Tây Ninh, nghèo
lắm. Bọn em chưa hề biết Sài Gòn
là gì, vậy mà bay giờ luân lạc
sang tận Đài Loan. Lúc ra đi, bọn em chỉ
mong lấy được tấm chồng, rồi kiếm
việc làm để gửi tiền về giúp
cha mẹ cất mái nhà ở. Không ngờ
thân bọn em bị ô nhục đến thế.”
– T. khóc:
“Vừa đặt chân đến phi trường
Đài Bắc, tên môi giới hôn nhân
cùng đồng bọn giữ hết giấy tờ hộ
chiếu rồi đưa chị em em lên xe chở thẳng
đến một căn nhà 16 tầng. Ở
đó, bọn em bị canh giữ ngày
đêm. Bọn em bị cưỡng bức phải
tiếp khách. Suốt 21 ngày, thân xác bọn
em bị khách chơi hành hạ ... Tương lai
ra sao, về nước hay ở lại, bọn em cũng
không biết, mà cũng không dám nghĩ tới
... Cứu bọn em các anh chị ơi.”
Không hiểu con
đường khổ nạn của những người
lưu lạc (như bà Giám, bà M., bà N.,
bà T…) ở Đài Loan còn bao xa nữa
nhưng đối với một số phụ nữ Việt
Nam khác - vừa có mặt ở Mã Lai -
thì họ mới chỉ bắt đầu cuộc
hành trình (không may) tương tự. Theo nhật
báo International Herald Tribune – số ra ngày 19
tháng 12 năm 2006 - hiện có hàng chục thiếu
nữ VN đang được trưng bầy tại
các quán cà phê ở Mã Lai, để
chờ được mua về làm vợ. Sự kiện
này khiến cho người dân bản xứ cảm
thấy bất an. Họ mô tả đó là một
việc làm “bệnh hoạn và vô
luân” (The pratice has been described as “sickening and
immoral…).
Những người
phụ nữ đã sa chân lỡ bước
này, nếu (cũng) được “hồn
thiêng sông núi” gọi về thì thiệt
là đỡ khổ cho họ (và cũng đỡ
tủi cho toàn dân Việt Nam) biết mấy. Những
đưá bé thơ tên Xuân, tên Yến
- đang bán thân nuôi miệng - ở Cao
Miên cũng vậy. Hoàn cảnh của các em
khiến mọi người đều phải xót xa,
mà sao “hồn thiêng sông núi” (cứ)
tỉnh queo như vậy cà ?
Cách gọi của
“hồn thiêng sông núi”, dường
như, có cái gì không ổn. Tui
“rà xoát” lại chuyện này
chút đỉnh và biết thêm rằng chuyện
“vinh danh” hàng năm là do báo điện
tử Vietnamnet tổ chức, còn gọi ai về
để vinh danh lại là chuyện (riêng) của
… Mặt Trận Tổ Quốc !
Nói cách
khác, giản dị và dễ hiểu hơn,
là thông qua Mặt Trận Tổ Quốc, Đảng
đang lãnh đạo và chỉ đạo
luôn cả … “hồn thiêng sông
núi” nữa. Thiệt là quá đã
(và quá đáng) !
Mà Đảng (ta)
thì làm gì mà không có tính
toán. Và toàn là những toan tính bẩn
thỉu, ti tiện, và đểu cáng. Chỗ
nào thấy không có lợi, và ai không
có tiền thì Đảng làm lơ, chớ gọi
(về) làm chi - cho chật chỗ?
Toàn thể
nhân loại đều biết chuyện phụ nữ
VN bị bầy bán trong những quán cà
phê ở Mã Lai nhưng cả toà đại sứ
VN ở Mã Lai thì không một ai biết
là có chuyện (đáng tiếc) này -
theo như tường thuật của phái viên AP,
vào ngày 19 tháng 12 năm 2006: “Vietnam’s
ambassador to Malaysia, Nguyen Quoc Dung, said officials were not aware of such
incidents…Đại sứ Việt Nam ở Mã Lai,
Nguyễn Quốc Dũng, nói rằng giới chức
có thẩm quyền không hề biết có những
sự cố như vậy … ”
Và như vậy -
trong những đợt vinh danh tới - những người
như bà Tạ Thị Giám, cũng như những
cô gái Việt đang ngồi phơi mặt trong
những quán cà phê ở Mã Lai (chắc
chắn) sẽ không được “hồn
thiêng sông núi gọi về” đâu. Ủa,
sao kỳ vậy, cùng là “Việt Kiều”
hết trơn mà ?
Coi: ông đại
sứ Việt Nam ở Mã Lai mà còn không
biết là họ có mặt bên xứ
đó thì “hồn thiêng sông
núi” làm sao có danh sách (để) gọi
về chớ. Hơn nữa Văn Miếu - Quốc Tử
Giám (ở Hà Nội) là chỗ linh
thiêng, chỉ có loại ma cô đĩ điếm
đã được chuyển diện thành
“sứ giả Lạc Hồng” mới xứng
đáng được mời về để vinh
danh thôi. Chớ còn cái thứ đang bán
thân nuôi miệng, và bán với cái rất
bèo, ở mấy xứ Á Châu thì …
khỏi !
Đời vẫn vốn
không nương người thất thế. Đảng
cũng vậy thôi à. Nhưng nói vậy, e
chưa hết lẽ. Cũng có lúc Đảng
nương (vào) người thất thế
đó chớ. Nếu không, lấy đâu ra
lý do để làm cách mạng và cướp
chính quyền.
TƯỞNG
NĂNG TIẾN
--------------------------------------------------------------------------------
Ghi chú: (1)
Ông Vũ Gỉan, Thụy Sĩ ; tiến sĩ Nguyễn
Đăng Hưng, Vương quốc Bỉ; tiến sĩ
Lương Văn Hy, Canada; tiến sĩ Nguyễn
Chánh Khê, Việt Nam; viện sĩ Trần Văn
Khê, Paris; tiến sĩ Đặng Lương Mô ,
Việt Nam; ông Nguyễn Ngọc Mỹ, Việt Nam; tiến
sĩ Ngô Thanh Nhàn, Hoa Kỳ; ông Lê Phi Phi,
Việt Nam; tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong, Hoa Kỳ;
tiến sĩ Nguyễn Công Phú, Pháp; tiến
sĩ Nguyễn Quang Riệu, Pháp; nghệ sĩ
Đăng Thái Sơn, Canada; ông Bùi Kiến
Thành, Hoa Kỳ; tiến sĩ Trần Văn Thọ,
Nhật; tiến sĩ Trịnh Xuân Thuận, Hoa Kỳ
; tiến sĩ Võ Văn Tới, Hoa Kỳ; kiến
trúc sư Hồ Thiệu Trị, Pháp; tiến sĩ
Trần Thanh Vân, Pháp
Nguồn: Người
Viễn Xứ.
(2) TS. Nguyễn
Quốc Bình (VK Canada); TS. Nguyễn Trọng Bình
(VK Mỹ); PGS, TS. Nguyễn Lương Dũng (VK Đức);
TS. Nguyễn Trí Dũng (VK Nhật); Họa sĩ
Lê Bá Đảng (VK Pháp); GS,TS. Nguyễn
Quý Đạo (VK Pháp); Nhạc sĩ Nguyễn
Thiên Đạo (VK Pháp); Bác sĩ Bùi Minh
Đức (VK Mỹ); TS. Lê Phước Hùng (VK Mỹ);
ThS. Phạm Đức Trung Kiên (VK Mỹ); GS,TS.
Đoàn Kim Sơn (VK Pháp); GS Toán học
Lê Tự Quốc Thắng (VK Mỹ); Ông Phan Thành
– Chủ tịch HĐQT HHNVNONN TPHCM (VK Canada); GS,TS Nguyễn
Văn Tuấn (VK Úc) và GS,TS Nguyễn Lân Tuất,
VK Nga Nguồn: Người Viễn Xứ
(Sưu Tầm
Liên Mạng chuyển)