TẾT TÂY và TẾT TA
(Nguyễn Hưng Quốc)
Sống ở ngoại quốc
đúng 30 năm, tôi, cũng như bất cứ người
Việt nào đang định cư ở hải ngoại,
mỗi năm cũng đều có đến hai cái Tết:
Tết Tây và Tết ta. Nhưng với riêng tôi, h́nh như có
sự thiên vị rơ rệt: Chỉ có Tết ta mới thực
sự là Tết.
Sự thiên vị ấy có cái
ǵ như nghịch lư. Bởi, về phương diện xă
hội, Tết Tây dễ thấy hơn Tết ta. Cả mấy
tuần trước, đi đâu cũng thấy không khí Tết:
Tết trên đường phố và ở các cửa tiệm.
Trong quan hệ liên cá nhân, Tết cũng hiện diện
trong những bức thiệp và những lời chúc, trong những
gói quà người ta nhận được hoặc gửi
tặng cho bạn bè đồng nghiệp. Giao thừa Tết
tây lại càng lớn. Ở thành phố Melbourne, nơi tôi sống,
vào đêm giao thừa có cả hàng triệu người
đổ xuống đường để cười
đùa, hát ḥ và ngắm pháo bông. Pháo bông ở Melbourne không lớn
và đẹp như ở Sydney nhưng dù sao cũng rất
ấn tượng, đủ để cả triệu
người say mê.
Trong môi trường đại
học, nơi tôi làm việc, không khí Tết cũng rất
rơ rệt qua việc nghỉ lễ kéo dài cả tuần lễ,
từ Giáng sinh đến tận mồng 3 hay mồng 4
tháng giêng. Vậy mà, lạ, tự đáy ḷng, tôi vẫn
không thấy đó là Tết. Tôi gửi thiệp hoặc tặng
quà cho người này người nọ như một thứ
thủ tục trong quan hệ xă hội và nghề nghiệp.
Những lời chúc bằng tiếng Anh gửi đi hoặc
nhận được đều có cái ǵ như sáo ngữ
chứ không có một nội dung cụ thể nào cả.
Trong khi đó, với Tết
Việt Nam th́ lại khác. Trước Tết mấy tuần,
đă có chút ǵ nao nao và nôn nao. Cứ đếm từng ngày,
từng ngày. Để làm ǵ? Tôi cũng không biết nữa.
Những năm Tết Việt Nam rơi vào giữa tuần,
tôi vẫn phải đi làm. Ở nhà cũng không có ǵ đặc
biệt. Không bàn thờ. Không cúng. Không đến chùa. Không
hái lộc. Không xem hướng xuất hành. Không xông đất.
Và cũng hiếm, thật hiếm khi tham gia các hội chợ
Tết do các cộng đồng tổ chức. Vậy mà,
năm nào tôi cũng thấy không khí Tết đầy ắp
trong nhà. Và, nhất là, trong ḷng: Có cái ǵ đó cứ nôn nao.
Ngay cả khi ngồi một ḿnh, giữa khuya, trước
màn ảnh computer, vẫn có cảm giác như có người,
nườm nượp người, chung quanh. Không phải
chỉ có những người c̣n sống mà cả những
người đă chết. Những người muôn
năm cũ. Tất cả đều về, đông
đúc và ồn ào. Để đón Tết với tôi.
Tại sao? Lư do chủ yếu, theo tôi, là Tết ta gắn
liền với KƯ ỨC, c̣n Tết
tây th́ không. Và v́ gắn liền với kư ức, Tết ta,
với chúng ta, không phải là sự kiện mà là một
không gian. Chúng ta có thể tránh được sự kiện,
nhưng không tránh được không gian. Không gian bao trùm lấy
chúng ta, hơn nữa, chuyển hóa mọi sinh hoạt thành
Tết, hay nói cách khác, nó Tết-hóa mọi thứ.
Xin lấy chuyện ăn uống
ngày Tết làm ví dụ.
Ở những nơi khác,
người ta đón Tết, mừng Tết; ở Việt
Nam, chúng ta ăn Tết. Ăn, như ăn tiệc,
ăn cưới, ăn giỗ, ăn liên hoan. Thật ra,
chúng ta cũng cử hành nhiều nghi lễ và tổ chức
nhiều hội hè như ở các nơi khác, nhưng việc
ăn uống, với chúng ta, bao giờ cũng chiếm vị
trí trung tâm. Người sống ăn. Người chết
ăn (cúng). Cả thần linh (ông Táo) cũng được
ăn uống linh đ́nh. Trong kư ức cũng như tâm thức
của người Việt, không có ǵ liên quan đến Tết
mà lại không gắn liền với một số loại
thực phẩm nào đó. Trong sáu h́nh ảnh tiêu biểu của
ngày Tết được nêu lên trong câu đối quen thuộc
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ / Cây
nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh, có đến ba thứ, tức
một nửa, là thực phẩm. Nhưng đó không phải
là tất cả. Cái gọi là thịt mỡ ấy, ở
miền Bắc thường là thịt đông; ở miền
Nam, là thịt kho tàu; ở miền Trung, là gị heo hầm chuối
chát hoặc thịt ngâm nước mắm. Dưa hành chủ
yếu ở miền Bắc, ở miền Trung là củ kiệu
và dưa món; ở miền Nam là các loại dưa giá hẹ
muối xổi. Hiện nay bánh chưng phổ biến khắp
nơi, nhưng ngày trước, ở miền Nam và miền
Trung, hầu như chỉ có bánh tét.
Nhiều người than thở:
Các loại thực phẩm vốn được xem là
đặc sản của Tết đang dần dần mất
hết ư nghĩa. Bây giờ, trong chợ hay siêu thị, từ
Việt Nam ra ngoại quốc, ở đâu có đông
người Việt, bất cứ ngày nào, tháng nào, mùa nào cũng
có bánh chưng và bánh tét. Thịt kho hay thịt đông, ngày
xưa, chỉ xuất hiện trên các mâm cỗ Tết, bây
giờ, là thức ăn hàng ngày. Thích lúc nào người ta
ăn lúc ấy. Chả có ǵ là đặc biệt nữa.
Th́ đành là đúng. Nhưng
điều đó không có nghĩa là ư nghĩa của thức
ăn ngày Tết không c̣n. C̣n, ở một điểm: B́nh
thường, chúng là thức ăn, ăn cho no hoặc cho
khoái khẩu; ngày Tết, chúng là thức
ăn của huyền thoại, ăn để nhớ.
Như bánh chưng, chẳng hạn.
Ngày thường, chúng ta có thể ăn bánh chưng.
Nhưng những lúc ấy, bánh chưng chỉ là bánh
chưng. Người ta ăn v́ thích, hoặc nhiều
hơn, v́ tiện: khỏi phải nấu nướng và có
thể giữ được lâu. Trong không khí ngày Tết,
việc mua hoặc nấu bánh chưng không c̣n là một chọn
lựa ngẫu nhiên hay một ư thích bất chợt, xuất
phát từ khẩu vị, mà là một điều gần
như bắt buộc, gắn liền với bổn phận,
có tính chất nghi lễ: Nhà nào cũng có. Tính chất bắt
buộc, bổn phận và nghi lễ ấy làm cái bánh
chưng trở thành một biểu tượng, nghĩa là
vừa là một vật thể vừa là một ư nghĩa.
Ư nghĩa ấy lại gắn liền với sự tích
bánh chưng và bánh dày với Lang Liêu (hay c̣n gọi là Tiết
Liêu) và vua Hùng Vương thứ 6, với ư niệm về
Trời và Đất, về công cha và nghĩa mẹ, và gần
đây, theo một số học giả về Việt học,
về tín ngưỡng phồn thực với h́nh ảnh của
dương vật (bánh chưng, ngày xưa, có h́nh dài, giống
bánh tét bây giờ) và âm vật (bánh dày).
Từ đó, trong ngày Tết,
chỉ trong ngày Tết, bánh chưng trở thành biểu
tượng của truyền thống, và nhờ tính truyền
thống ấy, cái bánh bỗng có chiều dày của thời
gian. Nó có kư ức. Trước hết là kư ức chính thức
được ghi trong sử sách: Ăn bánh chưng trong
ngày Tết, do đó, là ăn cùng với Lang Liêu, với các
vua Hùng, và với tổ tiên nói chung. Sau nữa là kư ức cá
nhân: Không có người nào sinh ra và lớn lên tại Việt
Nam mà lại không có ít hay nhiều kỷ niệm với bánh
chưng, từ kỷ niệm mổ heo đến kỷ
niệm nấu bánh và ăn bánh. Văn chương Việt
Nam đầy dẫy những loại kỷ niệm
như thế. Ăn bánh chưng, do đó, là sống lại
một quăng đời đă mất.
Cả kư ức cá nhân lẫn
kư ức tập thể ấy đều đưa chúng ta
về nguồn: Việt Nam.
Một thứ trái cây khác,
như dưa hấu, cũng vậy. Mùa hè, trời nóng, hầu
như trong chúng ta ai cũng ít nhiều ăn dưa hấu.
Bản thân tôi, có thời gian, mùa hè, hầu như ngày nào cũng
ăn dưa hấu. Đi làm về, bước ra khỏi
xe vào nhà, mồ hôi đầm đ́a, công việc đầu
tiên tôi làm là mở tủ lạnh, lấy dĩa dưa hấu
cắt sẵn, ngoạm từng miếng. Dưa hấu
trôi đến đâu, hơi mát tràn đến đó.
Nhưng, những lúc như thế, tôi chỉ ăn dưa
hấu. Thuần túy là dưa hấu. Dưa hấu mua từ
chợ hoặc siêu thị.
Nhưng cũng những miếng
dưa hấu ấy, trong ngày Tết, có cái ǵ khác hẳn.
Tôi thường thoáng chút ngần ngại khi phải bổ
trái dưa hấu. Tôi muốn đặt nguyên trái trên bàn.
Để có không khí. Khi ăn, tôi cắn từng miếng,
từng miếng thật chậm. Và Tết nào cũng thế,
cũng đều nhớ đến chuyện An Tiêm ngày
xưa. Đó là trái dưa hấu của An Tiêm, con nuôi của
vua Hùng. Nhớ thế, tôi ngỡ như đang ăn
dưa hấu chung với An Tiêm.
Mà đâu phải chỉ có An
Tiêm. Cùng với An Tiêm, c̣n có Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh
và Kiều Phú, những người đầu tiên chép truyện
An Tiêm trong Lĩnh Nam chích quái (thế kỷ 14-15), rồi
Nguyễn Trọng Thuật, tác giả của Quả
dưa đỏ (1925), một trong những cuốn tiểu
thuyết đầu tiên của Việt Nam mà tôi đọc
hồi nhỏ, những năm đầu của trung học.
Ngoài những tên tuổi lớn ấy, mỗi lần
ăn dưa hấu ngày Tết, tôi c̣n nhớ một người
khác, Lê Quư Long, một người đồng hương của
tôi, người, trong cuốn Việt sử văn vần,
xuất bản ở Huế năm 1971, có bài thơ về
An Tiêm: An Tiêm phải bị cha đày / Sống nơi
hoang đảo chuỗi ngày bơ vơ / Một hôm chim lạ
t́nh cờ / Nhả rơi một hạt ai ngờ giống
dưa [] Mang theo dưa hấu nặng nề / Nên bây giờ
có khắp quê hương ḿnh. Bài thơ đơn giản,
như một bài diễn ca, không có ǵ đặc sắc, vậy
mà, không hiểu sao, đă trên 40 năm rồi, tôi vẫn nhớ.
Không trọn vẹn. Nhưng nhớ. Tôi nghĩ, nhớ
được, không phải v́ bản thân bài thơ. Mà là v́
những quả dưa hấu ngày Tết: Chúng nhắc.
Những ví dụ nho nhỏ
trên cho thấy, trong ngày Tết, ngay cả những thứ
mọn nhất, từ một quả dưa hấu đến
một lát bánh chưng hay bánh tét, đều có hấp lực
kéo chúng ta về quá khứ: Nhỏ, là những kỷ niệm
thuộc về cá nhân; lớn, là truyền thống của
cả một dân tộc. Chính v́ thế, Tết, chúng ta
thường hay hồi tưởng và nhớ vu vơ. Tuy
nhiên, đó chỉ là một khía cạnh. Có một khía cạnh
khác, lớn và có ư nghĩa chính trị hơn: mọi thứ
trong ngày Tết đều vun bồi kư ức tập thể
trong mỗi người, khiến mỗi người tự
thấy ḿnh là một thành viên của cả một cộng
đồng đông đúc, là một đoạn ngắn
trong chuỗi dài của lịch sử dằng dặc. Với
ư thức ấy, chúng ta trở về với gốc rễ của
chúng ta: Việt Nam.
Nói Tết ta khác với Tết
Tây là v́ thế.
Nguyễn Hưng Quốc VOA
(Rose KD
sưu tầm và chuyển)