Làm sao cho người Việt tin nhau?
(Ngô Nhân Dụng)
Trên báo Tia Sáng, ông
Giáp Văn Dương viết một bài rất đáng
đọc, ông đặt câu hỏi: Tại sao ở nước
ta mọi người không tin nhau. Ông kể chuyện có lúc
đă sống ở một nước ngoài 12 năm, thấy
người ta bao giờ cũng tin nhau.
Ông kể, "Tôi
và một người bạn đi mua bảo hiểm xe. (Hợp
đồng bảo hiểm viết rằng), nếu mất
xe th́ sẽ được đền xe mới. Bạn tôi
hỏi: "Nếu chúng tôi bán xe rồi báo bị mất
th́ sao?" Nhân viên bảo hiểm ngạc nhiên, một lúc
lâu mới nghĩ ra được câu trả lời:
"Tôi tin các anh không làm thế." Giáp Văn Dương
kết luận: Nước họ giàu mạnh v́ họ tin ở
con người.
Ngược lại,
khi trở về sống ở Việt Nam, ông thấy
người ta luôn luôn nghi ngờ nhau trước, không ai
tin ai cả. Lănh hành lư ở phi trường bị hỏi
giấy tờ, "Tên tôi đây. Địa chỉ tôi đây.
Hộ chiếu của tôi đây. Vậy sao mà rắc rối
đến vậy? Sao phải xác nhận? Sao phải chứng
minh? Sao phải công chứng bản gốc?"
Vào siêu thị th́
lúc ra trả tiền phải đi qua hai chặng, trả
tiền rồi, đi hai thước lại có nhân viên kiểm
soát hóa đơn, thấy con dấu đỏ "đă
thanh toán" mới được đi qua. Ông
Dương hỏi: "V́ sao người Việt không tin
nhau?"
Ḿnh không cần nhắc
đến tên Việt Nam trong câu hỏi này. Ở nhiều
nước khác người ta cũng không ai tin ai cả.
Nên đặt câu hỏi là: "Trong những xă hội
như thế nào th́ người ta dễ tin nhau? C̣n những
xă hội người ta không tin nhau th́ nó sống thế
nào?"
Ḿnh không nên nghĩ
oan cho giống dân Việt. Có lần tôi kể chuyện những
thành phố người ta bỏ xe đạp ngoài
đường qua đêm, không khóa; như ở Dubuque, Iowa;
hay ở Helsinki, Phần Lan (trước khi di dân Đông Âu qua).
Họ không lo mất xe, v́ tin là mọi người chung
quanh đều lương thiện. Nhiều độc giả
đă viết thư nhắc nhở rằng xưa kia ở
nước ta cũng vậy. Một vị cho biết hồi
1950 ở Sài G̣n ông đă sống như thế. Đêm không khóa
cửa nhà, xe đạp dựng trước nhà cũng
không khóa. Một vị độc giả khác kể chuyện
năm 1959 ông dựng cái xe đạp ngoài bờ sông Sài G̣n
đứng hóng mát; sau đó có một người rủ
lên xe hơi đi uống bia. Ông đi tới 11 giờ
khuya, trở lại Bến Bạch Đằng thấy cái xe
không khóa vẫn dựng đó không mất. Bác Sĩ Nguyễn
Tư Mô kể hồi 1955 ông đi trong một phái đoàn y
tế xuống Châu Đốc chẩn bệnh phát thuốc; lúc
vào chợ ăn trưa th́ một người trong đoàn
bỏ quên cặp kính mát. Tới buổi chiều, một
nhân viên xă mang cặp kính mát đến hỏi có ai đánh rớt
không? Có người lượm được, đem
đến trả phái đoàn, v́ biết chỉ dân ở
Sài G̣n mới mua được kính mát loại sang như vậy.
Người Việt
Nam vốn đă tin nhau chứ chẳng phải không. V́ ông
bà chúng ta vẫn dạy dỗ con cháu sống theo đạo
lư, và chính họ sống làm gương. Trong xă hội nào mọi
người cũng sống với những hợp đồng
ngầm hiểu, dài hạn, hết đời này sang đời
khác. Các xă hội Á Đông theo truyền thống Nho Giáo đều
có những "hợp đồng hiểu ngầm"
như vậy. Ra đường gặp ai là có thể tin
đến 99% rằng người đó cũng được
cha mẹ dạy các quy tắc Lễ Nghĩa Liêm Sỉ giống
như ḿnh. Ngay cả sau khi nước ta bị Pháp đô hộ,
bản Hợp Đồng Tín Nghĩa vẫn được giữ
ǵn. Cách sống của Phan Châu Trinh cũng không khác lối
cư xử của Nguyễn Đ́nh Chiểu hay Hoàng Diệu.
Tư cách đó vẫn truyền qua đến Trần Trọng
Kim, Khái Hưng, Nguyễn An Ninh, hay Phan Văn Hùm. Nền tảng
đạo lư đó chỉ bị phá vỡ từ khi có một
chính quyền chủ tâm xóa bỏ hết nền văn hóa cũ,
thay thế bằng "văn hóa vô sản".
Tại sao các
nước Á Đông khác, ngoài Việt Nam và Trung Quốc, vẫn
giữ được những bản hợp đồng
Tín Nghĩa suốt đời này sang đời khác trong hai
ngàn năm?
Phân tích theo lối
kinh tế học, th́ lư do chính là: Tín
Nghĩa là một cách sống có lợi về lâu về dài. Không
ai muốn làm sai bản hợp đồng tín nghĩa v́ nếu
nó bị xóa bỏ, chính ḿnh sẽ bị thiệt tḥi. Nói rơ
hơn: Cuộc sống của mỗi người sẽ
"tốn kém" hơn! Mức tốn kém tăng lên từ
một khoản chi tiêu mà các nhà kinh tế gọi là "phí
tổn giao dịch" (transaction costs). Hăy lấy những
thí dụ mà ông Giáp Văn Dương nêu ra. Một người
vào siêu thị mua hàng, trả tiền, được mang thức
ăn về nhà. Trong "giao dịch" kinh tế này, siêu
thị cũng phải trả tiền khi mua hàng, khi thuê
mướn cửa hàng, thuê nhân viên, vân vân. Người mua
trả một số tiền lớn bằng số chi phí của
siêu thị, cộng với tiền lời mà nếu không có
th́ không ai mở siêu thị.
Nhưng trong một
xă hội mà người ta không tin nhau th́ siêu thị phải
lo đặt hệ thống báo động, phải thuê
thêm người canh gác, thêm người kiểm soát lần
thứ hai bên ngoài quầy trả tiền. Tất cả những
chi phí mới đó, tất nhiên, chủ nhân họ tính ngay
trong giá bán. Đó là một thứ phí tổn giao dịch phụ
trội; mà nếu trong xă hội mọi người tin nhau
th́ không cần. Nh́n rộng ra, trong một xă hội mà
người ta không tin nhau th́ phí tổn giao dịch sẽ
tăng vọt trên khắp mọi mặt. Cả xă hội
phải chịu. Thử nh́n vào số lượng công an, cảnh
sát ở nước ta. Tại sao một nước cần
nhiều công an như vậy? V́ người ta nghi ngờ
nhau. Chính quyền nghi ngờ dân. Nếu mọi người
tin nhau th́ mấy trăm ngàn công an cảnh sát có thể giải
ngũ. Những người đó có thể đi làm những
việc hữu ích hơn về kinh tế, như làm kỹ
sư, đi kinh doanh, làm ca sĩ, hay trồng cây ăn trái
bán. Bởi v́ trong nước vẫn cần rất nhiều
kỹ sư, nhiều nhà kinh doanh, nhiều nhà nông có tài. Lực lượng công an thu hút mất
bao nhiêu người ưu tú, đó là một thiệt hại
lớn cho cả nền kinh tế quốc dân.
Làm cách nào để
xă hội cùng theo những quy tắc sống có Tín Nghĩa?
Làm cách nào để mọi người nh́n thấy nhau là
hăy tin cậy trước khi nghi ngờ, nghe ai nói ǵ th́
trước hết hăy tin đó là lời nói thật? Có thể
thiết lập lại bản hợp đồng xă hội
lấy Tín Nghĩa làm tiêu chuẩn hay không?
Có lẽ chúng ta sẽ
tránh không lên giọng hô hào phục hồi môn đạo
đức trong trường học, dù đó là một việc
chắc chắn phải làm. Nên t́m ra những giải pháp thực
tế. Mà khi nói đến chuyện thực tế th́ có thể
tính toán theo lối kinh tế học. Theo lối nh́n kinh tế
học th́ muốn người khác tin ḿnh tốt nhất là
làm sao cho người ta biết nếu ḿnh không làm đúng lời
hứa hẹn, th́ chính ḿnh sẽ bị thiệt hại rất
lớn. Ḿnh có hai đường: Giữ lời hứa có
thể bị thiệt, nhưng cũng có thể không bị
thiệt; ngược lại, nếu sai lời th́ sẽ bị
thiệt hại rất nhiều, với xác suất 100%!
Nếu mọi
người trong một xă hội đều biết
như vậy th́ hầu hết sẽ cố giữ Tín Nghĩa,
xă hội sẽ thay đổi. Quy tắc này vẫn
được sử dụng trong đời sống kinh tế:
Khi chúng ta đi vay nợ, ngân hàng yêu cầu phải có vật
cầm thế "làm tin", ghi rơ trong hợp đồng.
Nếu ḿnh không trả nợ, sẽ mất mát hơn gấp
bội!
Khả năng có
thể kư hợp đồng mà bản hợp đồng
có hiệu lực thi hành, đó là một nền tảng tạo
ra ḷng tin tưởng lẫn nhau. Trong các xă hội hoang dă,
việc thi hành hợp đồng là do mỗi người
tự làm lấy. Họ dùng vũ lực để thi hành
các bản hợp đồng. Theo lối mafia, ai không làm
đúng hợp đồng th́ cho một lưỡi đao,
hay một phát súng; v́ Mafia không thể kư những hợp
đồng hứa hẹn cùng đi ăn cướp hoặc
giết người, ai làm sai sẽ bị kiện!
C̣n trong xă hội
văn minh th́ niềm tin giữa mọi người dựa
trên hệ thống pháp luật. Muốn người ta tin
th́ cứ làm sao để người ta thấy là họ
có thể kiện ḿnh ra ṭa, nếu ḿnh làm sai. Như Thomas
Schelling diễn giải: Một người dễ
được tin tưởng khi hắn có thể bị
thưa kiện! Một người có thể bị kiện
ra ṭa (nếu làm sai lời) th́ dễ được người
khác tin tưởng hơn. Nếu tất cả đều
sống theo quy tắc đó th́ chúng ta có thể tạo nên
niềm tin cho cả nước.
Giữ cho guồng
máy nhà nước trong sạch là bước đầu tiên
để tái tạo niềm tin. Những người
đi hối lộ và ăn hối lộ đều
"xé bản hợp đồng" mà mọi người
đă thỏa thuận với nhau. Không những họ làm
người dân đút lót mất tiền, mà họ c̣n phá nát
đạo lư xă hội. Cũng giống như khi có người
lái xe ngoài đường mà bất chấp luật lệ
vậy. Nếu nhiều người cứ ngang nhiên lái xe
như thế măi, th́ cả thành phố hay cả nước
sẽ không c̣n luật lái xe. Bản hợp đồng bị
xé rồi, mạnh ai nấy sống. Nạn tham nhũng là
thứ làm tiêu hao đạo lư cả xă hội, chưa kể
nó làm cho kinh tế không tiến được đúng tiềm
năng.
Trước khi xé
bản hợp đồng với xă hội để
ăn hối lộ mà biết trước ḿnh có thể bị
thiệt hại rất nặng nếu bị bắt, th́ thế
nào người ta cũng ngần ngại không đ̣i đút
lót nữa. Xác suất bị bắt càng cao th́ càng bớt
tham nhũng. Án trừng phạt càng nặng, th́ càng bớt.
Nếu một hệ thống chính trị cứ để
cho xác suất bị bắt thấp, mà việc trừng phạt
cũng nhẹ, th́ sẽ nuôi đầy tham nhũng, hối
lộ.
Phải làm sao cho
xác xuất tội tham nhũng bị tố giác càng cao càng tốt,
đó là một cách giảm bớt tham nhũng và tạo niềm
tin trong xă hội. Muốn vậy th́ ngoài guồng máy tư
pháp công minh chính trực cần phải có nhiều "bộ
máy tư nhân" t́nh nguyện tham dự việc tố giác
tội tham nhũng. Số hội đoàn, trong xă hội
công dân càng phát triển th́ càng nhiều người tự
nguyện làm công việc đó. Nhiều người c̣n sẵn
sàng làm công việc đó, v́ có lợi cho họ. Đó là các nhà
báo, khi họ được tự do. Nhà báo nào điều
tra ra những vụ tham nhũng và loan tin sẽ được
nhiều người đọc, nhiều người kính
trọng. Chính họ sẽ tự nguyện đi t́m ra những
tin tức đó. C̣n nếu nhà báo đi điều tra rồi
lại bị tù th́ hết nói!
Khi bản hợp
đồng đạo lư của xă hội bị xé rồi,
rất khó tái lập. Phá nó dễ, xây dựng lại rất
khó. Nhưng không phải v́ khó mà chúng ta không bắt đầu
ngay. Phải thiết lập một chế độ tự
do dân chủ, quyền tư pháp độc lập, xă hội
công dân phát triển, mọi người có quyền tự
do hội họp, tự do phát biểu. Cứ như thế,
trong một vài thế hệ, sẽ không ai cần đặt
câu hỏi: Tại sao người Việt không tin nhau?
NGÔ NHÂN DỤNG
(Phùng Kim Oanh sưu tầm và chuyển)