Home | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ tt | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | HU'U~ ÍCH 3 | HU'U~ ÍCH 4 | HU'U~ ÍCH 5 | HU'U~ ÍCH 6 | TÀI T̀NH | -DÔ.C -DÁO | LINKS | THÚ VI. | THÚ VI. [tt] | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | CU'̉'I CHÚT CHO'I 1 | CU'̉'I CHÚT CHO'I 2 | CU'̉'I CHÚT CHO'I 3 | CU'̉'I CHÚT CHO'I 4 | CU'̉'I CHÚT CHO'I 5 | VUI TU'O'I | GIÚP hay GIÊ'T ?

TA.P GHI 27

hoavang_lado_ua_dep.jpg

 

Làm sao cho người Việt tin nhau?

(Ngô Nhân Dụng)

 

Trên báo Tia Sáng, ông Giáp Văn Dương viết một bài rất đáng đọc, ông đặt câu hỏi: Tại sao ở nước ta mọi người không tin nhau. Ông kể chuyện có lúc đă sống ở một nước ngoài 12 năm, thấy người ta bao giờ cũng tin nhau.

 

Ông kể, "Tôi và một người bạn đi mua bảo hiểm xe. (Hợp đồng bảo hiểm viết rằng), nếu mất xe th́ sẽ được đền xe mới. Bạn tôi hỏi: "Nếu chúng tôi bán xe rồi báo bị mất th́ sao?" Nhân viên bảo hiểm ngạc nhiên, một lúc lâu mới nghĩ ra được câu trả lời: "Tôi tin các anh không làm thế." Giáp Văn Dương kết luận: Nước họ giàu mạnh v́ họ tin ở con người.

Ngược lại, khi trở về sống ở Việt Nam, ông thấy người ta luôn luôn nghi ngờ nhau trước, không ai tin ai cả. Lănh hành lư ở phi trường bị hỏi giấy tờ, "Tên tôi đây. Địa chỉ tôi đây. Hộ chiếu của tôi đây. Vậy sao mà rắc rối đến vậy? Sao phải xác nhận? Sao phải chứng minh? Sao phải công chứng bản gốc?"

Vào siêu thị th́ lúc ra trả tiền phải đi qua hai chặng, trả tiền rồi, đi hai thước lại có nhân viên kiểm soát hóa đơn, thấy con dấu đỏ "đă thanh toán" mới được đi qua. Ông Dương hỏi: "V́ sao người Việt không tin nhau?"

Ḿnh không cần nhắc đến tên Việt Nam trong câu hỏi này. Ở nhiều nước khác người ta cũng không ai tin ai cả. Nên đặt câu hỏi là: "Trong những xă hội như thế nào th́ người ta dễ tin nhau? C̣n những xă hội người ta không tin nhau th́ nó sống thế nào?"

Ḿnh không nên nghĩ oan cho giống dân Việt. Có lần tôi kể chuyện những thành phố người ta bỏ xe đạp ngoài đường qua đêm, không khóa; như ở Dubuque, Iowa; hay ở Helsinki, Phần Lan (trước khi di dân Đông Âu qua). Họ không lo mất xe, v́ tin là mọi người chung quanh đều lương thiện. Nhiều độc giả đă viết thư nhắc nhở rằng xưa kia ở nước ta cũng vậy. Một vị cho biết hồi 1950 ở Sài G̣n ông đă sống như thế. Đêm không khóa cửa nhà, xe đạp dựng trước nhà cũng không khóa. Một vị độc giả khác kể chuyện năm 1959 ông dựng cái xe đạp ngoài bờ sông Sài G̣n đứng hóng mát; sau đó có một người rủ lên xe hơi đi uống bia. Ông đi tới 11 giờ khuya, trở lại Bến Bạch Đằng thấy cái xe không khóa vẫn dựng đó không mất. Bác Sĩ Nguyễn Tư Mô kể hồi 1955 ông đi trong một phái đoàn y tế xuống Châu Đốc chẩn bệnh phát thuốc; lúc vào chợ ăn trưa th́ một người trong đoàn bỏ quên cặp kính mát. Tới buổi chiều, một nhân viên xă mang cặp kính mát đến hỏi có ai đánh rớt không? Có người lượm được, đem đến trả phái đoàn, v́ biết chỉ dân ở Sài G̣n mới mua được kính mát loại sang như vậy.

Người Việt Nam vốn đă tin nhau chứ chẳng phải không. V́ ông bà chúng ta vẫn dạy dỗ con cháu sống theo đạo lư, và chính họ sống làm gương. Trong xă hội nào mọi người cũng sống với những hợp đồng ngầm hiểu, dài hạn, hết đời này sang đời khác. Các xă hội Á Đông theo truyền thống Nho Giáo đều có những "hợp đồng hiểu ngầm" như vậy. Ra đường gặp ai là có thể tin đến 99% rằng người đó cũng được cha mẹ dạy các quy tắc Lễ Nghĩa Liêm Sỉ giống như ḿnh. Ngay cả sau khi nước ta bị Pháp đô hộ, bản Hợp Đồng Tín Nghĩa vẫn được giữ ǵn. Cách sống của Phan Châu Trinh cũng không khác lối cư xử của Nguyễn Đ́nh Chiểu hay Hoàng Diệu. Tư cách đó vẫn truyền qua đến Trần Trọng Kim, Khái Hưng, Nguyễn An Ninh, hay Phan Văn Hùm. Nền tảng đạo lư đó chỉ bị phá vỡ từ khi có một chính quyền chủ tâm xóa bỏ hết nền văn hóa cũ, thay thế bằng "văn hóa vô sản".

 

Tại sao các nước Á Đông khác, ngoài Việt Nam và Trung Quốc, vẫn giữ được những bản hợp đồng Tín Nghĩa suốt đời này sang đời khác trong hai ngàn năm?

Phân tích theo lối kinh tế học, th́ lư do chính là: Tín Nghĩa là một cách sống có lợi về lâu về dài. Không ai muốn làm sai bản hợp đồng tín nghĩa v́ nếu nó bị xóa bỏ, chính ḿnh sẽ bị thiệt tḥi. Nói rơ hơn: Cuộc sống của mỗi người sẽ "tốn kém" hơn! Mức tốn kém tăng lên từ một khoản chi tiêu mà các nhà kinh tế gọi là "phí tổn giao dịch" (transaction costs). Hăy lấy những thí dụ mà ông Giáp Văn Dương nêu ra. Một người vào siêu thị mua hàng, trả tiền, được mang thức ăn về nhà. Trong "giao dịch" kinh tế này, siêu thị cũng phải trả tiền khi mua hàng, khi thuê mướn cửa hàng, thuê nhân viên, vân vân. Người mua trả một số tiền lớn bằng số chi phí của siêu thị, cộng với tiền lời mà nếu không có th́ không ai mở siêu thị.

Nhưng trong một xă hội mà người ta không tin nhau th́ siêu thị phải lo đặt hệ thống báo động, phải thuê thêm người canh gác, thêm người kiểm soát lần thứ hai bên ngoài quầy trả tiền. Tất cả những chi phí mới đó, tất nhiên, chủ nhân họ tính ngay trong giá bán. Đó là một thứ phí tổn giao dịch phụ trội; mà nếu trong xă hội mọi người tin nhau th́ không cần. Nh́n rộng ra, trong một xă hội mà người ta không tin nhau th́ phí tổn giao dịch sẽ tăng vọt trên khắp mọi mặt. Cả xă hội phải chịu. Thử nh́n vào số lượng công an, cảnh sát ở nước ta. Tại sao một nước cần nhiều công an như vậy? V́ người ta nghi ngờ nhau. Chính quyền nghi ngờ dân. Nếu mọi người tin nhau th́ mấy trăm ngàn công an cảnh sát có thể giải ngũ. Những người đó có thể đi làm những việc hữu ích hơn về kinh tế, như làm kỹ sư, đi kinh doanh, làm ca sĩ, hay trồng cây ăn trái bán. Bởi v́ trong nước vẫn cần rất nhiều kỹ sư, nhiều nhà kinh doanh, nhiều nhà nông có tài. Lực lượng công an thu hút mất bao nhiêu người ưu tú, đó là một thiệt hại lớn cho cả nền kinh tế quốc dân.

 

Làm cách nào để xă hội cùng theo những quy tắc sống có Tín Nghĩa? Làm cách nào để mọi người nh́n thấy nhau là hăy tin cậy trước khi nghi ngờ, nghe ai nói ǵ th́ trước hết hăy tin đó là lời nói thật? Có thể thiết lập lại bản hợp đồng xă hội lấy Tín Nghĩa làm tiêu chuẩn hay không?

Có lẽ chúng ta sẽ tránh không lên giọng hô hào phục hồi môn đạo đức trong trường học, dù đó là một việc chắc chắn phải làm. Nên t́m ra những giải pháp thực tế. Mà khi nói đến chuyện thực tế th́ có thể tính toán theo lối kinh tế học. Theo lối nh́n kinh tế học th́ muốn người khác tin ḿnh tốt nhất là làm sao cho người ta biết nếu ḿnh không làm đúng lời hứa hẹn, th́ chính ḿnh sẽ bị thiệt hại rất lớn. Ḿnh có hai đường: Giữ lời hứa có thể bị thiệt, nhưng cũng có thể không bị thiệt; ngược lại, nếu sai lời th́ sẽ bị thiệt hại rất nhiều, với xác suất 100%!

Nếu mọi người trong một xă hội đều biết như vậy th́ hầu hết sẽ cố giữ Tín Nghĩa, xă hội sẽ thay đổi. Quy tắc này vẫn được sử dụng trong đời sống kinh tế: Khi chúng ta đi vay nợ, ngân hàng yêu cầu phải có vật cầm thế "làm tin", ghi rơ trong hợp đồng. Nếu ḿnh không trả nợ, sẽ mất mát hơn gấp bội!

Khả năng có thể kư hợp đồng mà bản hợp đồng có hiệu lực thi hành, đó là một nền tảng tạo ra ḷng tin tưởng lẫn nhau. Trong các xă hội hoang dă, việc thi hành hợp đồng là do mỗi người tự làm lấy. Họ dùng vũ lực để thi hành các bản hợp đồng. Theo lối mafia, ai không làm đúng hợp đồng th́ cho một lưỡi đao, hay một phát súng; v́ Mafia không thể kư những hợp đồng hứa hẹn cùng đi ăn cướp hoặc giết người, ai làm sai sẽ bị kiện!

C̣n trong xă hội văn minh th́ niềm tin giữa mọi người dựa trên hệ thống pháp luật. Muốn người ta tin th́ cứ làm sao để người ta thấy là họ có thể kiện ḿnh ra ṭa, nếu ḿnh làm sai. Như Thomas Schelling diễn giải: Một người dễ được tin tưởng khi hắn có thể bị thưa kiện! Một người có thể bị kiện ra ṭa (nếu làm sai lời) th́ dễ được người khác tin tưởng hơn. Nếu tất cả đều sống theo quy tắc đó th́ chúng ta có thể tạo nên niềm tin cho cả nước.

 

Giữ cho guồng máy nhà nước trong sạch là bước đầu tiên để tái tạo niềm tin. Những người đi hối lộ và ăn hối lộ đều "xé bản hợp đồng" mà mọi người đă thỏa thuận với nhau. Không những họ làm người dân đút lót mất tiền, mà họ c̣n phá nát đạo lư xă hội. Cũng giống như khi có người lái xe ngoài đường mà bất chấp luật lệ vậy. Nếu nhiều người cứ ngang nhiên lái xe như thế măi, th́ cả thành phố hay cả nước sẽ không c̣n luật lái xe. Bản hợp đồng bị xé rồi, mạnh ai nấy sống. Nạn tham nhũng là thứ làm tiêu hao đạo lư cả xă hội, chưa kể nó làm cho kinh tế không tiến được đúng tiềm năng.

Trước khi xé bản hợp đồng với xă hội để ăn hối lộ mà biết trước ḿnh có thể bị thiệt hại rất nặng nếu bị bắt, th́ thế nào người ta cũng ngần ngại không đ̣i đút lót nữa. Xác suất bị bắt càng cao th́ càng bớt tham nhũng. Án trừng phạt càng nặng, th́ càng bớt. Nếu một hệ thống chính trị cứ để cho xác suất bị bắt thấp, mà việc trừng phạt cũng nhẹ, th́ sẽ nuôi đầy tham nhũng, hối lộ.

Phải làm sao cho xác xuất tội tham nhũng bị tố giác càng cao càng tốt, đó là một cách giảm bớt tham nhũng và tạo niềm tin trong xă hội. Muốn vậy th́ ngoài guồng máy tư pháp công minh chính trực cần phải có nhiều "bộ máy tư nhân" t́nh nguyện tham dự việc tố giác tội tham nhũng. Số hội đoàn, trong xă hội công dân càng phát triển th́ càng nhiều người tự nguyện làm công việc đó. Nhiều người c̣n sẵn sàng làm công việc đó, v́ có lợi cho họ. Đó là các nhà báo, khi họ được tự do. Nhà báo nào điều tra ra những vụ tham nhũng và loan tin sẽ được nhiều người đọc, nhiều người kính trọng. Chính họ sẽ tự nguyện đi t́m ra những tin tức đó. C̣n nếu nhà báo đi điều tra rồi lại bị tù th́ hết nói!

 

Khi bản hợp đồng đạo lư của xă hội bị xé rồi, rất khó tái lập. Phá nó dễ, xây dựng lại rất khó. Nhưng không phải v́ khó mà chúng ta không bắt đầu ngay. Phải thiết lập một chế độ tự do dân chủ, quyền tư pháp độc lập, xă hội công dân phát triển, mọi người có quyền tự do hội họp, tự do phát biểu. Cứ như thế, trong một vài thế hệ, sẽ không ai cần đặt câu hỏi: Tại sao người Việt không tin nhau?

 

NGÔ NHÂN DỤNG

(Phùng Kim Oanh sưu tm và chuyn)

 

hoavang_lado_ua_dep.jpg

website counter