CỬA KHÔNG
(Truyện MACDUNG)
Lão cố gắng
với tay về phía ngọn đèn nhưng hoàn toàn bất
lực. Sức lực nội tại như tan biến, hòa
vào hư không, bỏ trơ lại tấm thân tàn tạ vì mấy
tháng trời rong ruổi cùng chiếc xe đạp. Lão nhớ
rất rõ tai nạn đã xảy ra như thế nào, mặc
dù không chắc lắm hồi ức của kẻ vừa
thoát khỏi tay thần chết sẽ hoàn toàn chính xác. Sự
chính xác mà theo lão nghĩ, là một phạm trù ước
lượng hơn là một định lượng rõ
ràng. Như thế nhưng con người vẫn thích nói
"chính xác", và không hiểu rằng muốn đạt
được nó cần phải có nhiều sự chính xác
hơn nữa, để biến mớ hỗn độn
mơ hồ trở thành một thứ chân thực, hiện
hữu, có thể cân đo đong đếm được
..
Lão cố
đưa cái chân lên trước mặt và muốn biết
"chính xác" nó còn lành lặn, để có thể cùng
lão lao vào cơn bão điên khùng nhất mà mình từng đối
mặt. Cơn bão của lòng tự trọng bị tổn
thương, đau đớn, ngắc ngoải, rên siết
và giận dữ. Sự giận dữ mà lão chỉ có thể
tóm tắt với định nghĩa "tột cùng" của
sự tột cùng không thể nào khác hơn. Có ai nghĩ rằng,
một lão già ngót sáu mươi tuổi lại có thể trải
qua những điều lão đang chịu đựng. Cái
đau đớn bên ngoài nào có sá gì so với sự thiêu
đốt bằng lửa địa ngục mà lão từng
nghe các thiền sư luận giải. Tám đứa con của
lão sẽ nghĩ gì, nếu biết lão nằm đây, không
người thân thích, với những vết thương
.. cũng chỉ là vết thương, có thể lành trong
nay mai, hoặc không bao giờ hồi phục .. Bọn chúng
ở xa lắm, đều bên nước người, và
không thể nào hiểu được điều gì
đang âm ỉ trong trái tim người cha bất hạnh.
Quá khứ nào mà chẳng
đẹp! Nếu không như vậy, tại sao con người
phải mất thời gian để nhớ đến.
Theo cách nghĩ của lão, cái đẹp trong quá khứ phải
gắn mình cùng hiện thực. Hiện tại đau khổ
mà quá khứ vàng son chỉ làm cho con người dễ dàng
rơi lệ. Còn nếu như hiện tại vui thì quá khứ
chẳng nghĩa lý gì. Chính vì điều này mà lão rơi lệ,
nước mắt lai láng ..
Cô gái đôi
mươi ngày nào đã trở thành người vợ hiền
bên cạnh ông chủ tàu cá, rồi tiếp theo là những
đứa con .. Chúng lớn lên cùng biển và cũng chính biển
đem chúng đi xa .. Tám đứa con đều thành đạt
tại nước ngoài. Tiền bạc không thiếu.
Cơ ngơi khang trang. Ấy vậy mà lão bị vợ
"cắm sừng". Chuyện không thể tin và không thể
nào "chính xác" hơn chuyện ấy! Điều này
khiến lão tổn thương, đau khổ lẫn thẹn
thùng, bởi chính người đàn bà đã cùng chung sống
suốt mấy mươi năm. Làm sao có thể giải
thích minh bạch và tận tường một hệ quả
đau khổ, bắt đầu bằng những tốt
đẹp hằng đêm lão ấp ủ, yêu thương,
lẫn cả sự trân trọng .. Và mọi chuyện
đã thay đổi đến thảng thốt, choáng ngợp
mà ngay cả những người thân nhất cũng sửng
sốt trước hung tin: "Lão đã bị bỏ
rơi!". Bỏ rơi một cách không thương tiếc
và lạnh lùng ở cái tuổi gần đất xa trời.
Điều này thật khó chấp nhận ..
Nếu như ngày
còn trẻ, cuộc sống chung đụng có thể
đưa đến bất hòa, ly hôn, hoặc ly thân là chuyện
bình thường. Nhưng .. lão bị vợ cho
"rơi" vào lứa tuổi ngót sáu mươi. Một
việc không thể tin nhưng chẳng cách nào "khước
từ" khi chuyện vợ chồng luôn bắt đầu
từ hai phía. Có thể lão muốn níu lại chút hy vọng
nào đó, nhưng mọi cái trở nên bỉ ổi và
đáng khinh, khi nghĩ đến hành động van xin hay
cầu khẩn trước người vợ trẻ nhỏ
hơn mình mười mấy tuổi ..
Cuộc sống vốn
đẹp khi mọi cái thật hoàn hảo, và sẽ trở
thành địa ngục khi hiện thực trở thành ảo
ảnh. Một thứ ảo ảnh không thể sờ nắm,
chỉ dùng mắt nhìn nó xuất hiện rồi tan biến
tận trời xa. Lão nghĩ mình đang bị quả báo của
tiền kiếp nên mới gặp cảnh ngộ này. Bi
thương, uất hận, khinh bỉ, xuất hiện
trong lão như một cơn bão dữ, và lão bị cơn
bão ấy lôi đi xa mà không có hành động nào cưỡng
lại. Tài sản, cơ ngơi không còn quan trọng! Đối
với lão chỉ là sự trốn chạy, thoát ly, tránh xa
cõi trần tục mà tự thân luôn là nỗi sầu đau
giam hãm con người. Lão nguyện lên núi, đến chùa
xin xuống tóc quy y cửa Phật. Và trong cơn phẫn nộ,
nếu bị chối từ lão sẽ tìm đến cái chết,
như sự giải thoát thiết yếu không phải cãi
bàn.
Mọi cái lại
cay đắng hơn khi cõi tục vẫn là cõi tục. Tự
thân những ngôi chùa đã bị loài người biến
thành nơi mưu sinh không tốn chút mồ hôi. Mớ tóc
trên đầu lão vẫn còn đó, bởi lẽ nó không thể
rơi xuống cho một ước nguyện đơn giản
nhưng lại không đơn giản chút nào. Đâu phải
ai, cứ muốn là được, quỳ xuống chân phật
thí phát, rồi bỗng chốc trở thành hòa thượng,
trút bỏ mọi đau khổ của nhân gian. Đi tu cũng
phải có giá của nó, nếu không, khắp thiên chắc dẫy
đầy hòa thượng .. Điều này khiến lão
đau khổ cực cùng, chao đảo như cánh chim giữa
gió ngàn mất hướng ..
Sườn núi phía
tây không có chiếc xe đạp, phương tiện duy nhất
trong cơn phẫn uất lão đã mang đi. Khi con người
sầu khổ, bế tắt lại muốn hành hạ thân
xác đến kỳ cùng, và lão đã dùng nó vượt qua mấy
trăm cây số để đến được
nơi này. Một địa điểm đã được
lựa chọn, một kết cục đã phơi bày. Thế
mà quyết định sau cùng là sườn núi phía tây,
hướng về quê Phật, lão tự quyết số phận
chính mình ..
Ai có thể thấu
hiểu tâm trạng của lão trong sự nhếch nhác, rã rời
bởi những đêm không ngủ. Hành trình như kẻ mộng
du. Bước đi trong vô thức chẳng rõ ràng đích
đến. Râu tóc lổm ngổm vì trí nhớ bỏ quên. Và
từ trên thân thể cáu bẩn bốc lên cái mùi khăm khẳm,
ràn rụa mồ hôi bởi những tháng ngày rong ruổi mê
muội. Nhìn những kẻ thoáng qua trên đường
dâng hương lễ Phật, trong bóng tối mù đen phủ
đầy tri giác bỗng bừng lên một hy vọng. Ngọn
lửa bừng lên từ tâm khảm hướng bước
chân ngoắc ngoải, thương đau, lần tìm về
thánh địa giải thoát. Chỉ cửa Phật mới
chứa chấp con người cùng khốn. Chỉ Phật
Môn thanh tịnh mới giúp lão nguôi ngoai nỗi khổ
đang thống trị mình ..
Thế nhưng lão
bị từ khước! Khước từ bởi nhiều
lý do mà trong phẫn nộ lão vẫn thấy được
.. Lão trở thành kẻ vô gia cư đang tìm nơi lánh ẩn
hơn là một kẻ chán ngắt cảnh phàm trần muốn
trốn chạy thế nhân. Sự từ chối lạnh
lùng thay cho cách giải thích thỏa đáng .. Và lão tìm đến
sườn núi phía tây như một cứu cánh cho sự giải
thoát yên bình ..
Lão chưa thể
chết vì cái trượt chân trong bóng tối. Ý định
chỉ còn một nửa khi lão lăn mình xuống sườn
dốc đầy cỏ dại. Mở mắt ra, lão thấy
mình nằm đấy, trơ trọi, hiu hắt, và tự
hỏi tại sao mình vẫn sống .. Sống trong nỗi
chết, sống trong ký ức kinh hoàng về một gia
đình bỗng chốc nát tan, vỡ vụn từng mảnh,
vô vọng cứu vớt. Ấy vậy mà lão vẫn sống
.. Sống thừa và ô nhục ..
Cái chết đã từ
chối thân xác mỏi mòn, khô héo. Cái chết thật bất
công khi chẳng ra tay cứu rỗi một linh hồn nhỏ
bé đang tự nguyện dâng mình .. Lão nằm đấy với
tri giác hỗn loạn, bất định, với hơi thở
đứt đoạn từng nhịp, nhưng .. vẫn cứ
sống ..
Hấp lực trái
đất đã kéo lão lăn xuống một căn chòi bỏ
không thay cho địa ngục. Và khi tỉnh lại, lão nguyền
rủa sự may mắn của chính mình. Bây giờ lão muốn
tiếp tục được rơi xuống nhưng thân
xác lại đông cứng không thể cưỡng cầu.
Số phận đã có tiếng nói quyết định về
một con người đang cố tìm chết. Số phận
đang mỉm cười, trong khi lão là kẻ khóc than ..!
Cái chết là một
phần của sự sống. Cái chết đưa linh hồn
vào vòng sanh tử của thuyết luân hồi. Lão đã nghe
và đọc nhiều điều đó trong kinh sách,
nhưng vẫn không hiểu được kết quả
của chính mình. Bố thí tạo phước lão đã làm
không ít. Đi chùa lễ phật là công việc thanh thản
mỗi tháng lão đều làm .. Ấy vậy mà mọi thứ
đều quay lưng. Quay lưng trong hoàn cảnh tuyệt
vọng nhất của một con người lạc lõng
không nơi bám tựa. Sự lạnh lùng đó có phải do
tiền kiếp lão đã gieo nhân - một suy nghĩ lâu nay
lão vẫn nghi ngờ nhưng lại trở thành hiện thực.
Thế thì công đức bao lâu nay đi về đâu trong
khung cảnh thương hải tang điền? (biển cả
biến thành nương dâu) Lão muốn la to trong nỗi thống
khổ nghẹn lời. Muốn gào thét vang vọng thấu
trời cao. Nhưng .. trong thâm tâm hiểu rằng đó là sự
vô ích dại khờ. Không ai có thể cứu lão! Không ai
đổi hướng để "quay đầu"
(Đáo đầu thị ngạn) Mọi sự đều
quay lưng .. Cái chết là sự cứu rỗi cũng quay
lưng. Lão buồn trong sự sống và lẫn cả cái
chết ..
Mưa ư? Ồ,
mưa từ mắt lão! Vị mưa mằn mặn chảy
trên đôi môi nứt nẻ, bỏng rát .. Mưa được
định nghĩa là nước trên cao rơi xuống.
Mưa tự nhiên và mưa nhân tạo. Lão cười vì mình
có tài làm mưa. Mắt lão làm ra mưa! Gọi là mưa tự
nhiên hay nhân tạo nhỉ? ..
Trăng non trên
sườn núi phía tây xuyên qua mái tranh lỗ chỗ. Ánh
đèn lay lắt vì những ngọn gió va đập vào vách
núi .. Tất cả điều này báo hiệu sự sống
khi nhận thức quay về. Thế mà lão đâu có vui .. Ý
lão ra sao ..!?
"Chú tỉnh rồi
à?"
Trong ánh sáng mờ ảo
của ngọn đèn, lão cố giương đôi mắt
mỏi mệt để nhìn ..
"Chú là ai?"
"Tôi là người
dọn dẹp".
Lão lấy làm lạ
lắm. Trên đời có nghề dọn dẹp ư?
"Chú dọn dẹp
cái gì?"
"Bất cứ
thứ gì mà con người muốn. Tôi làm họ trả
công. Có khi làm không công nữa ấy!"
Lão muốn ngồi
dậy lắm, nhưng không sao thực hiện được.
"Có việc ấy
sao?"
"Có đấy!
Những việc không phí sức biết tính làm sao? Hoặc
giả khi gặp kẻ nghèo khó thì giúp giùm. Như thế là
không công".
Lão muốn cười
lắm nhưng đầu lại choáng. Lời nói người
này làm lão nhớ đến một việc.
"Chú muốn tạo
phước bằng cách bố thí công sức ư?"
Vẫn là tiếng
nói nhẹ nhàng ấm áp vang lên.
"Bố
thí không phải là tạo phước. Bố thí chỉ có ý
nghĩa như hành vi san sẻ giữa con người với
nhau. Việc này lâu ngày sẽ giúp ta xem thường ngoại
vật mà XUẤT TÂM TỪ BI".
Dù sao lão vẫn cố
cười trước lời nói này.
"Các nhà sư vẫn
nói "bố thí là tạo phúc" kia mà?"
"Đó là một
nhầm lẫn có khối người tin theo. Chú cứ nghĩ
mà xem, nếu bố thí là tạo phúc thì bao trùm trong thiên hạ
ai nhiều tiền bằng vua chúa, quan lại .. Những
quan chức, kẻ giàu sang, phúc sẽ to như Thái Sơn. Còn
người nghèo, không có tiền bố thí lại vô phúc
ư?".
Đến đây
thì lão thở dài. Lão vẫn thường bố thí kia mà!
Nhưng .. kết quả ..
"Vậy làm sao
để có phúc?"
"Phúc đến
do duyên. Họa đến cũng tùy duyên".
"Thế
"duyên" từ đâu mà có?".
"Duyên không có
hình hài nhưng phúc họa lại có. Vậy, nhìn phúc họa
thì được duyên. Muốn thì thấy, không muốn lại
trở về không".
Trong lòng lão cực
kỳ kinh ngạc.
"Chú là .. nhà
sư ..?"
Tiếng cười
thoảng trong gió.
"Tôi là người
dọn dẹp. Chú quên rồi à?"
"Cách nói chuyện
này là của nhà sư kia mà?"
"Ngôn ngữ là
của chung. Chẳng lẽ tôi không được nói?"
Lão bắt đầu
tôn trọng người này.
"Ai thường
thuê chú dọn dẹp?"
"Nhà cửa bề
bộn không có đường đi thì thuê tôi. Cây cối rậm
rạp cản trở tầm nhìn thì thuê tôi. Tâm trạng ngổn
ngang thì .."
"Thì .. sao
..?"
"Thì dọn dẹp".
"Chú giúp
được sao?"
"Cái đó thì
tôi không giúp được. Ngay cả hiền giả Thích
Ca cũng không giúp được".
Lão bắt đầu
giận dữ.
"Người
ta thường nói: "Phật độ chúng sinh" kia
mà? Thật là vô lý .."
Vẫn giọng
nói bình thản ấy vang lên.
"Nếu nói
"Phật độ chúng sinh" cũng chưa gọi
là đúng. Phải nói rằng "chúng sinh độ Phật"
để được bình đẳng hơn. Hiền
triết Thích Ca đã nói rằng: "Ta chỉ
là người phát hiện ra chân lý chứ không phải là kẻ
sáng tạo ra chân lý. Ta có thể chỉ ra con đường
giải thoát nhưng không thể nào đi thay cho các người
được ..". Như vậy khi ta coi
đây là một tiên đề thì rõ ràng Phật không thể
nào độ được chúng sinh, mà chúng sinh lại
độ được Phật ấy. Khi còn trẻ Thích
Ca sống trong chúng sinh và thấy được kiếp
người khốn khổ mới quyết tâm tầm
đạo "giải thoát", cuối cùng đắc
nguyện. Vậy, nếu không có chúng sinh thì ngài làm việc ấy
để mà chi? Hiện tại các bậc chân tu tại chùa
chiền, nếu ngày nào đó đắc ngộ chân lý, cũng
đã được chúng sinh độ trì chén cơm manh
áo. Như vậy chúng sinh đã độ được Phật
thì phải tự độ cho chính mình, bởi hiền giả
Thích Ca nói, không thể nào đi thay cho ta được
.."
"Vậy người
ta đi tu, lạy Phật để làm gì?"
"Tất cả
chỉ là phương tiện. Ngay cả thân xác ta cũng
là phương tiện để tìm hiểu về "chân
lý giải thoát". Sở dĩ hiền giả Thích Ca không
lập văn tự, vì sợ rằng các học trò sẽ
cho lời nói của mình là chân lý, thay vì là phương tiện
nên mới vậy! Chú có thấy vầng trăng kia không?
Đó chính là "chân lý giải thoát" mà hiền giả
Thích Ca đã từng nói. Thế nhưng con người cứ
cho ngón tay của ngài là chân lý chứ không chịu nhìn về
ánh trăng. Ngón tay chỉ là phương tiện. Ngũ giới
cũng là phương tiện. Tụng kinh niệm phật
cũng là phương tiện. Đã là phương tiện
thì có nhiều cách thay thế. Giống như muốn qua
sông thì phải dùng đò, không đò thì thay thế bằng
bè, hoặc giả bơi qua vậy".
"Vậy làm sao
để giải thoát nếu không vào chùa tu tập?".
"Nhà chùa cũng
là phương tiện. Nếu không đến chùa ta có thể
truy tầm chân lý qua con đường nhận thức. Mọi
khổ đau trong thiên hạ vốn xuất phát từ tâm.
Ta chấp trước, ta tham dục, ta vọng tưởng,
ta tham ái, đó là mảnh đất mầu mỡ cho tam
độc trỗi dậy khơi gợi khổ đau. Vô
thường là sự thay đổi. Hai người đi
chung lâu ngày tất bị chi phối bởi quy luật thành
hoại, hợp ly, có sự chết và sống. Nếu cả
hai thay đổi theo hướng giống nhau là hợp,
còn khác nhau lại ly. Ly lại phát triển theo một
hướng mới rồi hợp ở một nơi khác.
Giống như ngọn lửa, tắt nơi này lại
cháy tại nơi kia .."
"Hiện tại
tôi đau khổ cùng cực, phải làm sao để giải
tỏa?".
"Đau khổ
là hạt giống. Tâm tư là mảnh đất gieo trồng.
Giữ cho tâm tĩnh lặng như hư không, khổ
đau bám vào đâu".
Trời đêm lạnh
lắm, lão trở mình nằm suy nghĩ. Nếu tâm trống
rỗng thì thành người chết mất rồi. Người
chết khổ hết. Nhưng lão muốn chết cũng
đâu có được!
"Làm sao để
có tâm không?"
"Mây bay nước
chảy, con người cho rằng bình thường. Mặt
trời lặn, mọc chẳng ai quan tâm. Con người
chỉ quan tâm những điều liên hệ đến
thân mà thôi. Vậy quên
thân thì được "tâm không".
"Trời ạ!
Làm sao có chuyện đó?"
"Có đấy
thôi. Chú hành hạ thân xác và ra tận sườn núi phía tây,
nơi nguy hiểm để làm gì? Chú không màng sự sống,
sao để tạp niệm nhiễu phiền. Mọi cái
là "không" thì muôn việc bình thản. Tạp niệm,
vọng tưởng tiêu tan, gọi là đắc ngộ Niết
Bàn vậy".
"Thế thì Niết
Bàn có hay không? Phật có hay không?".
"Có và không chính
là vọng tưởng. Bặt hết mọi vọng
tưởng mọi cái đều là "Không". Người
đời thường nói: Khi mê thì ở bờ bên này. Khi
ngộ thì ở bờ bên kia. Như thế là chấp
trước. Lúc ngộ rồi là "lìa cả đôi bờ".
Như vậy cũng là "Không".
Ánh sáng ngọn
đèn nhòe đi trước mắt lão. Hình ảnh người
nói không thể phân định rõ ràng.
"Chú tên gì vậy?"
"Tôi không có
tên".
"Lời nói của
chú, tôi thấy lạ lắm!".
"Không gì là lạ.
Tự thân chân lý đã sẵn có, chỉ tại con người
chưa gặp duyên đối diện với chính mình".
Lão thấy đôi
mắt mình trĩu nặng. Lời nói người kia lơ
mơ trong tâm thức lẫn lộn tỉnh mê. Lão muốn
tranh luận tiếp nhưng sức lực đã đến
hồi cạn kiệt. Chỉ có giấc ngủ mới khiến
con người tỉnh táo và khỏe mạnh hơn sau những
lao lực miệt mài. Thế là lão thiếp đi, êm ái
như đứa trẻ thỏa mãn cơn khát sữa trong
đôi tay dịu dàng của mẹ hiền. Gió núi cất
điệu ru hời. Trời làm chăn màn. Đất thay
chiếu manh. Hạnh phúc ngắn ngủi chợt đến
như cơn mưa xóa tan oi bức của hạ mùa nóng bỏng
..
***
Tiếng chim hót lảnh
lót trong nắng mai khiến lão choàng tỉnh. Lão nằm im, hồi
tưởng tất cả sự việc đã xảy ra.
Biết đâu đây là một thế giới khác chào
đón lão từ cái trượt chân trong đêm tối. Và linh
hồn lão đang lang thang đâu đó trong địa ngục
thâm u tại cửu tầng. Lão dụi mắt để
trông mọi vật rõ ràng hơn với những hồi ức
liên tục hiện về. Căn chòi lá với những
cơn gió núi. Tiếng nói ấm áp của người lạ
trong ánh sáng nhập nhoạng bởi ánh đèn .. Tất cả
những việc ấy thoáng qua như cơn mơ đã
được kết dính tự thuở nào. Lời kinh, tiếng
kệ, những đoạn minh triết từ các luận
sư lưu lại trên các trước tác của mình. Tất
cả lung linh đến huyền ảo trong mắt lão ..
Chậm rãi và khoan
thai, lão đứng dậy trên đôi chân ngập đầy
vết xước. Cái đau đã bị chôn vùi và chết
lặng trong thân xác lãng quên. Bỗng chốc mọi cái vụt
tan biến, mất tăm như hòn đá được
ném vào biển cả .. Tiếng nói trong đêm tối. Ánh
đèn. Lời kinh. Tiếng kệ. Chúng đang tan ra, hòa vào
không gian và mất dần trong mắt lão ..
Sườn núi phía
tây không có ánh mặt trời. Mặt trời sau lưng,
để lại bóng chiếu hướng về tây,
như ngón tay của hiền giả Thích Ca nhắn nhủ
cùng nhân loại. Lão tiến dần xuống núi trong bóng râm
hòa dịu, không còn bận tâm đến con người kỳ
lạ đã chuyện trò cùng mình trong đêm tối khổ
đau. Mọi cái đều không thật! Trong lòng lão chỉ
còn một niềm tin không gì lay chuyển: Theo hướng
bóng chiếu của mặt trời, cuối cùng lão sẽ
bước vào vùng sáng rực rỡ của ngày mới.
Không môn đang mở. Lúc ấy, mọi sự đều
biến mất. Và xác thân lẫn tinh thần này đều
hòa vào vĩnh viễn Cửa Không ..
Saigon 30.3.2015
MacDung
Lời
bàn:
Câu chuyện được hư cấu trên một phần
của sự thật, nhân chuyến hành hương về
núi Bà Đen, Tây Ninh cách đây hơn hai mươi năm.
Người đàn ông trong truyện là có thật, với số
phận tương tự mà tôi cố gắng lột tả
tâm trạng qua khả năng thô thiển của bản
thân. Tinh thần câu chuyện đã mượn triết học
Phật giáo làm nền tảng, với tưởng sâu sắc
của hiền triết Thích Ca, người sáng lập ra
Phật giáo, của sơ tổ Đạt Ma và lục tổ
Huệ Năng, cùng các trước tác của nhiều học
giả được thể hiện qua trí nhớ. Nếu
trong tác phẩm có đoạn nào trùng lặp hay giống ý,
chẳng qua là sự thống nhất về cách nhìn nhận
thông qua quan điểm cá nhân. Suy nghĩ của nhân vật
tự thân đã có ngoài đời, chứ không nhằm vào
cá nhân hay bất cứ tổ chức nào hiện hữu.
Và tôi viết tác phẩm
này nhân cảm hứng từ bài viết của một
người bạn biết nhau qua văn hóa mạng.
Người bạn ấy, tôi chưa từng hỏi tên,
sinh nghiệp ra sao, gia cảnh như thế nào .. Chỉ biết
rằng đó là người bạn "tinh thần"
được tôi trân trọng viết tặng câu chuyện
này, với niềm tin mọi sự đều hòa vào ..
"Cửa Không" ..
MacDung:
Kính Bút
MACDUNG
(Huon Doan sưu tầm và chuyển)