NHƯ GIẤC MƠ HOA
(Huỳnh
Thanh Sơn)
Cho tới nay, đây là bài của vị
tác giả Viết Về Nước Mỹ 2015 cao niên nhất
trong năm, kể về những tình người tử tế
tại miền Nam thời chiến, từ gia đình, vợ
chồng, cho tới một tình yêu ngang trái. Tác giả là một
cựu sĩ quan VNCH, tự gọi mình là "Năm
Sơn", 84 tuổi, nhập ngũ trường Võ Bị
Thủ Đức tháng 6 năm 1954. Chức vụ sau cùng:
Trung tá thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 tại Cần
Thơ. Sau Tháng Tư 1975, hơn 10 năm tù cải tạo.
Định cư diện H.O. ngày 22 tháng 6 năm 1994, hiện
là cư dân cao niên tại Westminster. Tác giả viết bài này
ngay trong đêm Giao thừa Tết Ất Mùi 2015 và ba ngày
đầu năm.
Mừng Ông Năm vẫn tinh tường
thơ nhạc và viết với tấm lòng. Kính chúc Ông vui
khoẻ.
* * *
Viết
cho con cháu
I.
CUỘC SỐNG NỔI TRÔI
Trước năm 1940, gia đình
cha mẹ tôi là một điền chủ giàu sang ở làng
Tam Bình, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Nhưng chẳng
may ba tôi mất sớm, nên tôi phải mồ côi cha từ
lúc 9 tuổi. Vì việc học nên tôi phải rời xa làng
quê hẻo lánh ra tỉnh lỵ Mỹ Tho để ở trọ
hầu tiếp tục việc học vấn. Chủ nhà trọ
chỉ lo phần ăn uống, giặt áo quần, còn mọi
việc sinh hoạt đời sống, bảo vệ sức
khỏe và học hành thì "hay dở mặc bây".
Dạo đó vì theo chương trình
Pháp văn, nên để theo kịp chương trình,
đêm đêm tôi phải vào mùng của các anh học sinh
Trung học cùng trọ học, đấm bóp để các
anh dạy thêm các từ ngữ Pháp. Cuộc sống trọ
học cứ tiếp tục như thế nhiều
năm, chỉ được về quê thăm nhà trong các dịp
nghỉ hè, lễ tết.
Rồi chiến tranh bùng nổ khi
người Pháp quay lại, việc học của tôi đành
bỏ dở để trở về quê sinh sống cùng mẹ
và anh em trai tôi, đùm bọc nhau xiêu lạc trong lửa
đạn mù trời của vùng quê điêu tàn đổ
nát. Phần tôi phải sống bềnh bồng sông nước
để tự nuôi thân và ít nhiều giúp mẹ trong lúc khó
khăn này. Dù vậy, đêm đêm tại Mỹ Tho tôi vẫn
cố gắng theo học các lớp dạy trẻ của
giáo sư Huỳnh Đình Tràng, hầu trau dồi thêm kiến
thức. Và dù còn trẻ, nhưng tôi vẫn hiểu rằng
"Học vấn là quan trọng
hơn cả, đây là thứ tài sản duy nhất mà con
người có thể dựa chắc chắn được". Chỉ
tiếc đời người thì quá ngắn, mà việc học
thì mênh mông. Cuộc sống thì có hạn mà sự học thì
vô cùng. Lấy cuộc đời có hạn để truy
tìm học vận vô biên thì làm sao tôi để phí một
phút giây nào được. Do đó, suốt bốn năm
dài, ban ngày thì dãi nắng dầm mưa, đêm đêm tôi có gắng
theo học, dù đồng tiền tôi kiếm được
lúc đó vô cùng khiêm tốn.
Lại một dịp đổi
đời, tôi được lệnh gọi động
viên nhập ngũ tháng 6 năm 1954 để theo học
khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Sau đó,
nước Việt Nam bị chia đôi. Cộng sản chiếm
miền Bắc. Miền Nam thành Việt Nam Cộng Hoà.
Ra trường sĩ quan chẳng
bao lâu thì chiến tranh Nam Bắc bùng nổ. Đời quân
ngũ khi thì Xuân Lộc đất đỏ, rét rừng;
khi thì chiến khu D rừng rậm gian nguy; khi thì Nha Trang cát
trắng; lúc thì Quang Trung nắng cháy da người; khi thì Bạc
Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang, Cần Thơ, Chương
Thiện sình lầy sông nước. Cuộc đời binh
nghiệp thì ngoài sự khổ cực vô biên, rày đây mai
đó, còn phải đối đầu với sự sống
chết luôn xảy ra từng giờ, từng phút. Trong khi
đó, tôi thì một vai trọng trách chỉ huy, một vai
thì gánh nặng thê nhi, cho nên cuộc sống trở nên dày dạn
gió sương.
Lúc phục vị tại Quang Trung,
đêm đêm tôi và vài bạn sĩ quan lén dù về Đakao
học Anh văn tư và sau đó xoay sở được
theo học ở trường Sinh Ngữ Quân Đội lớp
căn bản và bổ túc, để sau đó tôi được
du học ở các nước Nam Á do quân đội Anh phụ
trách giảng dạy. Ít năm sau tôi được trở
lại trường Sinh Ngữ Quân Đội học lớp
Trung cấp Anh ngữ và lớp MS để chuẩn bị
du học tại Hoa Kỳ.
Nhớ những năm tháng 1969-1970
tôi được theo học tại trường Đại
học Quân Sự ở Đà Lạt thật là lý tưởng
vì được rời trách nhiệm chỉ huy, cư trú
trong cư xá sĩ quan sinh viên của trường với
đầy đủ tiện nghi. Suốt thời gian trên,
chỉ học thêm văn hóa và bổ túc về quân sự.
Cuộc sống thật êm đềm trôi. Một đêm thứ
bảy, tôi cùng một sĩ quan bạn học, từng lặn
lội khắp chiến trường miền Tây, từng
nhìn thẳng vào cái chết để tìm sự sống cho
chính mình và thuộc cấp, rủ nhau đi dự một
đêm nhạc thính phòng với chủ đề
"Đêm nhạc tình của Từ Công Phụng" do
chính tác giả trình diễn. Trong các ca khúc của anh, tôi yêu
nhất tình khúc "Qua Vùng Biển Nhớ". Nhạc Từ
Công Phụng có một sự hấp dẫn liêu trai, một
sự nhớ nhung những kỷ niệm tuyệt vời
của quá khứ.
Nhưng đến 30/4/75 biến cố
miền Nam sụp đổ, tôi bị bắt đi tù cải
tạo suốt mười năm ròng rã. Từ miền Nam
Cần Thơ, ra tận huyện Trấn Yên Yên Bái, suốt
dãy núi Hoàng Liên Sơn, trại số 5 Lam Sơn Thanh Hóa, rồi
trở lại miền Nam trại Z30A tại núi Chứa
Chan Xuân Lộc, nơi mà tôi từng cai quản năm
1955-1956.
Đói rét, khổ cực, nhọc nhằn,
tôi từ 70 kí lô khi vào trại, khi ra trại về chỉ
còn 45 kí lô. Sống cũng là phúc rồi. Trở về
đoàn tụ với vợ con tại xã Ba Rinh, huyện Kế
Sách, tỉnh Sóc Trăng. Vì nhà cũ của tôi số 15
đường Võ Duy Tập, Quận 1, thành phố Cần
Thơ đã bị trưng thu từ lâu.
Đến ngày 22/6/1994 tôi và vợ
tôi được đi định cư tại Westminster,
Hoa Kỳ. Tôi đã 62, vợ tôi 61. Hai vợ chồng bắt
đầu cuộc sống mới.
II.
THA HƯƠNG
Cuộc đời vẫn phẳng
lặng trôi trên xứ người. Hai vợ chồng già tựa
nhau để sống, tìm cách sống cho mình và cho đàn con
cháu ở quê nhà, lúc ấy còn đang gặp nhiều khó
khăn trên bước đường lập nghiệp.
Nhưng tiếc rằng sức người có hạn, tuổi
đời có hạn, như ông Đặng Dung thuở
xưa thường nói: "Thế sự du du nại lão
hà" tức chuyện thế sự còn mênh mông nhưng tiếc
rằng ta đã già.
Nơi đất khách quê người,
cũng một đêm thứ bảy, tôi đã gặp lại
người bạn năm xưa, 1970, chúng tôi lại rủ
nhau đi nghe đêm nhạc của Từ Công Phụng trình
diễn. Cũng bản nhạc cũ "Qua Vùng Biển Nhớ"
cũng chính nhạc sĩ Từ Công Phụng trình diễn
và kỷ niệm thời dĩ vãng trở về với
chúng tôi.
Mấy chục năm sau, ngồi
trước mặt người nhạc sĩ, nghe anh hát
"như cánh chim bay qua vùng biển nhớ," tôi chợt
nghẹn ngào thấy rằng mình đã bay quá xa, đã trôi dạt
xa quá với vùng trời kỷ niệm của một thời
thương nhớ. Tuy nhiên chắc tôi không phải là
người đơn độc trong một thoáng phiêu du
ngược trở lại quãng đời dĩ vãng nổi
trôi, được chuyên chở bằng những âm thanh trầm
buồn tha thiết trong đêm nhạc tình Từ Công Phụng
hôm ấy. Những khuôn mặt chợt thoáng một chút
ưu tư, những nụ cười chợt hiện,
dòng nhạc của anh bỗng làm sống lại một kỷ
niệm vui buồn nào đó, những ánh mắt long lanh, những
mái đầu phong sương hai màu tóc, sụt sùi, tưởng
nhớ ..
Trong tiếng nhạc của Từ
Công Phụng, tôi bỗng thấy mình như biến thành một
cánh chim lẻ loi bay về cùng trời cũ, một cánh
rong rêu lạc loài đang thương nhớ bến đò
xưa. Sau đêm nhạc, lái xe về một mình, tôi bỗng
thấy rùng mình với sương mù Cali. Tôi vội quay kính
xe lên, nắn vội lại chiếc cà vạt cho ấm,
trước mặt tôi cả một rừng đèn màu sắc
chớp sáng lung linh.
Rồi ngày tháng trôi mau. Tuổi đời
đã cao, trong những đêm trường sâu lắng, tôi tự
ví tôi như con bò già nằm ở bờ tre, đang nằm
nhai lại những kỷ niệm xưa, những hạnh
phúc đã qua, những hiểm nguy ở chiến trường
mà mình phải đương đầu, những nhọc
nhằn mà mình phải gánh chịu và những thiếu thốn
cùng cực đã phủ lên đời mình. Nhớ rằng
"Sinh Tử Tụ Tán" nghĩa là "Sống Chết
Hợp Tan" chỉ là một giấc mơ, cuộc
đời trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ, thắm
thoát đã hơn tám mươi năm.
Nhiều đêm nhai lại thời
gian quá khứ, nhìn vợ tôi say ngủ sau chuỗi ngày lặn
lội kiếm cơm, tôi mới thấm thía cho cuộc
đời tha phương cầu thực trên xứ người
và với tâm niệm "Nước mắt bao giờ cũng
chảy xuôi" để tự an ủi mình và cố gắng
dỗ giấc ngủ để ngày mai tiếp tục
bước sinh nhai.
Người xưa thường nói
"Tình yêu, tình thương con cháu, tình thương những
người thân không bao giờ đứng vững
được với thời gian. Thời gian sẽ là liều
thuốc nhiệm màu sẽ xóa tan hết mọi ký ức, nếu
phải sống xa nhau lâu ngày".
Nhưng, với vợ chồng tôi
thời gian không còn mầu nhiệm nữa.
III.
HOÀI NIỆM
Từ khi mồ côi cha năm chín tuổi
đến tuổi thành niên tôi luôn sống lặng lẽ,
hiền hòa, nhịn nhục chịu đựng. Khi đứa
em trai tỏ ra hỗn láo, lấn lướt vì nó là út tôi cũng
ráng nhịn nhục vì tôi muốn mẹ tôi, lúc đó đã
góa chồng, sa sút, được an vui. Khi trưởng
thành, tôi luôn ước mong trở thành một giáo chức,
lập gia đình để nuôi dưỡng mẹ tôi lúc tuổi
già sức yếu một cách bình an. Nhưng những biến
đổi chung quanh của người và của chính mình,
nghĩ lại mà chóng mặt. Đời đã vứt tôi
vào lò lửa chiến tranh suốt ngày đêm, phải đứng
trước sự sống và chết từng phút, từng
giây suốt cả 21 năm trường.
Thật tình, tôi không trách cứ ai về
những đổi thay của đời mình. Bước
qua tuổi tám mươi ở xứ người, tôi
đã già, dù cảnh tượng xung quanh không là Xuân, đã
thôi Hè, đã qua Thu, đời chỉ còn là cơn gió
Đông tàn nhẫn, vật vã quất vào mặt mình những
đòn roi lạnh căm, tê điếng.
Những ngày đầu thu vừa
qua, tôi vô cùng đau buồn tiễn đưa vợ tôi
đến nơi an nghỉ ngàn thu tại nghĩa trang
"Huỳnh Thanh" nơi quê hương tôi ở Mỹ
Tho. Tôi chỉ còn biết đem chính bản thân mình, định
mệnh mình ra mà trấn an tinh thần.
Từ đây, tôi trở thành
đơn côi từ đây ở quê người! Cụm
thông già đã vượt qua triền núi thấp. Hạnh
phúc đời người thật "tương đối"
bạn ạ! Và như thế, với cuộc sống cô
độc của tuổi già, trong nỗi quạnh hiu của
những đêm dài vô tận, tôi chọn cho tôi một góc trời
riêng để đứng. Thay vì phải tiếp tục sống
trong cái đời đá cuội nghiệt ngã triền miên
không lối thoát khi xưa!
Và cũng vì còn lại một mình nên
đôi khi đứng trước một nghịch cảnh
buồn đau, một tình trạng sức khỏe suy sụp
mà không còn ai để chia sẻ, than thở, đành một
mình .. một mình.
IV.
MỘT CHUYẾN TRỞ VỀ
Tháng 6 năm 2014, tôi đơn thân
độc mã ở tuổi đời 84, đã trở về
Việt Nam, sau bốn năm vợ tôi Anne Marie Nguyễn Thị
Mỹ mất ngày 10/7/2010 nhằm 29 tháng 5 năm Canh Dần.
Trước tiên, thăm con cháu, làm giỗ cho bà vợ và sửa
sang lại nghĩa trang "Huỳnh Thanh" của gia
đình ông bà tôi.
Chương trình thu xếp như
sau: Chúa Nhật đầu đi thăm và biếu quà cho hai
nhà sui gia tại thành phố Cần Thơ đến 10 giờ
sáng. Từ đó đến chiều vợ chồng con gái
tôi chở tôi đi thăm anh em thương phế binh Việt
Nam Cộng Hòa, do hội yểm trợ thương phế
binh ở Orange County cung cấp địa chỉ ở nội
ô thành phố Cần Thơ, tôi tự tặng chút ít tiền
gọi là chút tình đồng ngũ khi xưa. Các anh, người
thì đui mù, cụt tay, cụt chân, dù không quen biết
nhưng khi gặp nhau, cảm động ôm nhau mà không cầm
được dòng lệ rơi. Các anh sống rất
cơ cực, thiếu thốn và chỗ ở cũng làm
cho tôi xúc động vô cùng.
Chủ Nhật kế, con gái lớn
tôi cùng chồng con từ Nha Trang vô. Các cháu con anh và em tôi
(đã quá vãng) bảy tám người xuống thăm tôi, ngủ
đêm tại khách sạn Golf. Chúng tôi đi ăn đêm và
sáng hôm sau đi đò máy thăm chùa Trúc Lâm Yên Tử miền
Nam vừa mới xây xong rất rộng lớn và uy nghiêm tại
huyện Phong Điền. Sau đó các cháu trở về Sài
Gòn.
Ngày Thứ Bảy kế tiếp,
cháu tôi ở Sài Gòn cho xe nhà xuống đón tôi và đứa
con trai tôi về Sài Gòn để thăm gia đình anh và em
tôi, qua đêm tại Sài Gòn. Từ sau khi định cư tại
Mỹ, tôi chưa bao giờ về và ngủ đêm tại
Sài Gòn. Trên đường đi tôi ghé qua nghĩa trang gia
đình tôi, thắp nhang độ 30 phút và dặn các cháu tôi
ở giữ nghĩa trang chuẩn bị ngày mai gia đình
tôi đưa heo quay qua cúng giỗ vợ tôi, đồng thời
viếng mồ mả ông bà tại làng Tam Bình, Cai Lậy.
Đặc biệt sau đó, tôi ghé
qua nghĩa trang Bà M.A - Nghĩa trang cách nhau - độ một
cây số. để cúng hoa quả và thắp hương.
Cô M.A. khi thời kỳ tiêu thổ kháng chiến năm 1946,
47 ở cùng quê tôi, và cô cũng là nữ sinh trung học ở
Mỹ Tho. Thời kỳ chiến tranh, chúng tôi cũng về
quê và sau đó tôi và cô M.A. yêu nhau suốt gần bốn
năm. Chúng tôi cũng ước nguyện tiến tới
hôn nhân, nhưng khi tôi được gọi động
viên, thân mẫu cô lại quyết đoán ép gả cho một
thương gia tại Mỹ Tho. Thế là cuộc tình
đành tan rã, gây cho chúng tôi đau buồn và tiếc nhớ
khôn nguôi.
Trong những năm 1950-1954, trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, làng chúng tôi ở thuộc vùng
"xôi đậu", nên qua các cuộc ruồng bố của
Pháp, các cuộc nổi dậy của phong trào Việt Minh,
cô M.A. đã một lần xả thân cứu tôi thoát chết.
Khi mũi súng đã lên nòng chĩa vào ngực tôi sắp bóp
cò. Trong gang tấc chúng tôi đã may mắn còn tồn tại.
Do đó khi đi Sài Gòn để
trình diện nhập ngũ, trong hai tháng chờ đợi
làm lễ Vu Quy, cô M.A. tiếc vì không được làm vợ
chính thức với người mình yêu, nên đã một lần
lén mẹ ra vườn sầu riêng quyên sinh bằng cách treo
cổ. Gia đình phát giác kịp thời. Cuối cùng, cô
đành thành hôn với người mà mình chưa hề quen
biết và yêu thương.
Sau đó hai năm, tôi cũng lập
gia đình. Tôi quyết tâm không vì mối tình xưa mà làm tan
vỡ hạnh phúc của gia đình M.A. nên tôi cắt đứt
mọi liên lạc và dặn gia đình anh và em trai tôi giấu
kín bước chân của tôi trong cuộc đời quân ngũ.
Cô M.A khi trở thành thương gia giàu có, đã vài lần
mướn người tìm kiếm tôi.
Năm 1969, sau hơn 14 năm xa nàng,
trong lần tôi về học khóa Praise do Mỹ tổ chức
tại trường Quân Y ở Sài Gòn, cư ngụ tạm
ở nhà anh tôi, thì cô M.A. vô tình đến nhà anh tôi để
tìm địa chỉ tôi và xem tôi sống chết ra sao nên gặp
tôi tại đó. Thế là sau khi tôi đổi về phục
vụ tại Cần Thơ, cô M.A. từ Mỹ Tho đến
nhà tôi tại Cần Thơ ghé thăm vợ tôi, kể lể
sự tình thuở xưa và kết làm chị em. Dĩ nhiên
năm 1955 tôi gặp vợ tôi, Anne Marie Mỹ, lúc ấy
đã tốt nghiệp diplome (bằng Thành Chung) đang làm
việc tại Sài Gòn, tôi đã cho Anne Marie biết cuộc
tình tôi đã trải qua trước đây. Vợ tôi là thiếu
nữ con một gia đình ở Thủ Dầu Một
(Bình Dương sau này), được giáo dục nghiêm minh
và là một phụ nữ hiền đức. Suốt đời
làm vợ chưa bao giờ làm điều gì khinh suất
làm mất danh dự tôi trước mặt quân sĩ và xã hội.
Và từ đó, đôi ba lần trong
năm, M.A. đến thăm gia đình tôi và chúng tôi đối
xử nhau như tình thân. Tôi và cô M.A luôn kính trọng nhau, coi
nhau như bà con thân thích, cố giữ cách ăn ở với
nhau cho phải đạo.
Đến 30/4/1975 tôi bị tù cải
tạo hơn một năm tại thành phố Cần
Thơ trước khi bị đày ra Bắc, cô M.A. đã
đến cùng vợ tôi vào thăm tôi trong tù đến
hơn mười lần.
Sau mười năm tôi ở tù cải
tạo về, khi hay tin M.A. đã mạnh dạn tới
thăm vợ chồng tôi ở khu kinh tế mới và hỗ
trợ chúng tôi tiền bạc rất nhiều để tạm
sinh sống trong cảnh khó nghèo ở khu kinh tế mới.
Sau đó, khi vợ chồng tôi lên ở Sài Gòn lo khám sức
khỏe và lo thủ tục định cư ở Mỹ,
suốt một năm, M.A và hai con gái cô cũng đến yểm
trợ tài chánh tối đa để vợ chồng tôi
hoàn tất việc ra đi. Mẹ con M.A. đã đưa vợ
chồng tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất ngày
22/6/1994, để rời đất nước thân yêu,
trong cảnh chia tay lần cuối đầy nước mắt.
Trở lại chuyện về
thăm Sài Gòn, các cháu lái xe đưa chúng tôi đến nhà
thờ anh chị Tư tôi, chú thím Sáu, em tôi để cúng
hoa quả và nhang đèn. Sau đó đến thăm tro cốt
của anh chị tôi tại chùa ở Xóm Củi, quận 8,
và tro cốt của chú Sáu, em tôi, tại chùa Vĩnh Nghiêm.
Chúng tôi qua đêm ở khách sạn tại
khu Phú Mỹ Hưng. Sáng hôm sau, các cháu con bác Tư, con chú Sáu
đến cùng ăn sáng. Sau đó cùng quay lại Mỹ Tho
và gặp gia đình tôi ở Cần Thơ đi xe sang và
cùng nhau cúng giỗ và thăm viếng nghĩa trang.
Đặc biệt buổi chiều,
các cháu đưa chúng tôi qua phà Ngũ Hiệp, nhánh sông Tiền
Giang, đến cù lao Ngũ Hiệp, nơi mà hơn 60
năm trước, gia đình tôi từ một gia đình
giàu sang, qua cuộc tiêu thổ kháng chiến trở thành
nghèo túng, chạy giặc tản cư qua đây sinh sống
dưới lửa đạn và tận cùng của những
năm 1948 trở đi với má tôi và ba anh em Xuân, Sơn,
Thủy.
Cháu nội trai của tôi, nay là kỹ
sư Huỳnh Thanh Bảo, mượn xe gắn máy
đưa tôi qua các con lộ đất để đến
nơi xưa mà mẹ con tôi đã tản cư về
đây đến khi má tôi qua đời năm 1957. Xúc động
thật sự.
Gò đất năm xưa nơi nhà
tôi cất tại đây khi tản cư, giờ đã có
căn nhà khác, nhưng con lộ đất trước nhà,
bụi tre lớn trước ngõ sát bờ rạch, nơi
bến xuồng mà tôi hằng ngày băng sông Tiền qua chợ
Tam Bình, nơi mà nhà tôi cư ngụ khi xưa vẫn còn
đó. Tuy bờ gạch đã sạt lở vài ba thước
nhưng quang cảnh vẫn như xưa. Dòng nước
đập "Thủ Cầm" chảy lờ đờ,
đen ngòm trước nhà vẫn tiếp tục chảy,
các cây bần ven bờ vẫn mạnh mẽ vươn
lên, lau sậy vẫn trổ cờ, tiếng gà vẫn gáy,
chim vẫn hót trên bụi tre.
Cảnh vật thôn quê xưa vẫn
im lìm, vậy mà má tôi, anh Tư, chị Tư, chú thím Sáu, vợ
tôi Anne Marie Nguyễn Thị Mỹ, cô M.A. đã là người
thiên cổ, đã là quá khứ, cả gia đình "Huỳnh
Thanh" chỉ còn lại một mình tôi, Năm Sơn,
đứng lặng quạnh hiu, bỡ ngỡ, nhìn cảnh
xưa mà chết điếng! Tôi vội quay lại thằng
Bảo đứng sau lưng đang ngơ ngác. Bỗng tôi
òa khóc, ôm chặt Bảo vào lòng, hai dòng nước mắt
đổ xuống vùng đất khi xưa, mẹ con khổ
sở, đau buồn, sống những năm khổ
đau, sợ sệt, cùng cực trong cuộc sống suy sụp
nghèo nàn, trong lửa đạn tơi bời. Người
xưa đâu tá?
Lại nữa, cũng nơi bụi
tre này, bến xuồng này, tháng một lần, cô M.A. nhà xa
tôi vài cây số và con sông Tiền rộng 400 thước,
bơi xuồng đến khoảng 5 giờ sáng, giờ mà
ở quê tôi gọi là "Trời đâm mây ngang", chở
theo thúng gạo ngon, cau khô, cau tươi để tặng
"mẹ chồng hụt", thăm người yêu, mà
người này đã làm cho đời M.A. đầy sóng
gió suốt hơn 60 năm dài, và để được
cùng người yêu là "Năm Sơn" chả có gì là
đặc biệt, ôm nhau năm ba phút cho đỡ nhớ
thương. Trong bóng tối nhờ nhờ của thôn quê cằn
cỗi, bất an, nơi đó có mối tình lãng mạn,
sóng gió, nên thơ, nhưng không có tương lai.
Em thoạt
đến thoạt đi như giấc mộng.
Còn mình tôi
trong vườn cũ buồn thiu
Chút
hương nồng đâu còn lại bao nhiêu
Theo trăng
gió cuốn trôi vào hư ảo (..)
(Hồ Ngạn
Ngữ)
Ngay trước ngõ, có bụi hoa Hà
Tiên Cô. Đây là bụi cây má tôi bứng từ nhà ở Tam
Bình, khi tản cư qua đây trồng. Hoa của nó màu trắng,
nhụy dài vàng, mà má tôi từng yêu thích, tựa như mũ
bà Hoàng Hậu, nay vẫn sum suê. (Hiện tôi có trồng hai bụi
nơi gò mả má tôi, "Bà Nguyễn Thị Dành" ở
nghĩa trang "Huỳnh Thanh")
Năm 1950, anh Tư tôi có chụp một
bức ảnh má tôi đứng mặc áo dài trước sự
chứng kiến của hai em Sơn, Thủy. Đến
bây giờ là hình thờ của má tôi đó, với bụi
Hà Tiên Cô.
Tôi đứng nơi xưa cũ mà
như người xa lạ của thời tuổi trẻ
hơn 60 năm trước. Vài người qua lại nhìn
nhìn rồi đi, người trong nhà xúm nhau trố mắt
nhìn ra lạ lẫm, chẳng ai chào hỏi. Xa lạ, thật
xa lạ hoàn toàn. Đúng như cảnh Từ Thức, sau
khi "nhập thiên thai" cả trăm năm trở lại
quê xưa. Thật là: "Hồi hương ngẫu cảm":
Thiếu tiểu
ly gia, lão đại hồi
Hương
âm vô cái, mẫn mao thôi
Mục đồng
tương kiến, bất lương thứ
Tiếu vấn
khách tòng, hà xứ lai?
(Hạ Tri
Chương đời Đường)
Tạm dịch:
Khi đi trẻ,
lúc về già
Giọng quê vẫn
thế, tóc đà khác bao
Trẻ em thấy
lạ không chào
Hỏi rằng
khách ở phương nao đến tìm?
Trẻ thấy lạ là phải. Nay
tôi đã 84 tuổi, xa quê trên 60 năm, đầu bạc trắng,
nhưng lạ là sao thấy lòng mình vẫn tưởng
như chỉ mới vài ba năm, vẫn mong ngóng tìm về
kỷ niệm.
Cảm ơn Trời Phật cho con
được sống lại 20 phút nơi chốn mà tôi
luyến lưu nhiều kỷ niệm.
V. GIÃ TỪ TẤT CẢ
Giờ gia đình "Huỳnh
Thanh" ngày nào, nay chỉ còn lại một mình tôi, Năm
Sơn.
Một thế hệ đã qua, một
đời người vừa thoáng qua và vụt mất. Chỉ
còn lại những thì thầm trong lòng.
Thôi má há! Thôi anh Tư há! Thôi chú Sáu
há! Em đây anh Tư. Anh đây Thủy nhé, anh Năm mà em
thường lấn lướt khi còn trẻ, em Sơn của
anh Xuân, hiền lành nhẫn nhục, anh Tư còn nhớ
không anh Tư? Con đây má, đứa con trai thời trẻ
làm "công việc nội trợ của con gái" từng
bị chị Hai Tạo gọi giỡn là "Cô
Năm". Nó đã nhiều năm từng xay lúa, giã gạo,
nấu cơm, săn sóc má và bảo vệ má khi chạy giặc
tránh bom đạn trong cuộc tang thương ở quê
mình.
Cảm ơn các cháu con bác Tư, con
chú Sáu đã tận lực tạo điều kiện cho
tôi thăm lại quá khứ nhiều kỷ niệm.
Thôi Anne Marie Mỹ, em há! Em đã là
hiền phụ giúp anh nuôi bảy đứa con khi anh bôn ba ở
chiến trường, một hiền phụ trung kiên chờ
đợi chồng trong chốn lao tù mười năm,
gian khổ lo bảy đứa con học hành, có đứa
xong phần đại học, phụ anh lo sinh kế ở
quê người để giúp các con ở quê nhà lập nghiệp.
Thôi M.A. thương yêu, đã có một
thời son trẻ cùng anh chia sẻ ngọt bùi trong gian khổ
chiến tranh ở quê mình. Vì yêu tôi, em đã trao thân cho
người yêu, rồi trở thành người tình lỡ,
suốt 60 năm còn khóc mãi. Chúng ta đã cùng đau khổ
chia tay trong tuyệt vọng, nhưng suốt 60 năm qua,
Em đã chứng tỏ lòng trung kiên yêu thương với
mối tình đầu, không ngừng dõi theo cuộc sống
của vợ chồng anh trong lúc lâm nguy. Một lần nữa,
muôn ngàn cảm tạ em M.A.
Giã từ tất cả!
Thôi về
đi, đường trần đâu có gì!
Tóc xanh mấy
mùa.
Ôi phù du! Từng
tuổi xanh đã già, một ngày kia đến bờ.
Đời
người như gió qua!
(Trịnh Công
Sơn)
Tài hoa đó,
một đời giông gió bão
Nợ trần
ai chưa dứt đã về nguồn
Đêm tiễn
biệt, khóc người bao năm trước
Lá khuya
rơi, động nát một trời thương.
(Tiếc
thương, Lâm Tường Dũ)
Westminster, 21
tháng 2, 2015
HUỲNH THANH
SƠN
(Diễm Trinh
sưu tầm và chuyển)