HỒI ỨC VỀ NGƯỜI CHA.
(Lê Xuân Mỹ)
Những ngày cuối tháng tư 1975,
Sài g̣n đắm ch́m trong cơn hỗn loạn. Tin tức
về một cuộc chiến kết thúc bi thảm
được truyền đi kéo theo một ḍng người
t́m mọi cách vượt thoát khỏi quê hương. Không
nhận được tin người đến
đưa toàn bộ gia đ́nh ra đi như đă hứa,
tôi cùng ba và gia đ́nh người em gái trên chiếc xe jeep hối
hả đi về Bến Bạch Đằng nơi con tàu
VNTT đang ngập tràn những ḍng người từ khắp
nơi đổ về. Hai vợ chồng em gái lên tàu
trước. Tôi và ba chần chờ sửa soạn lên sau.
Trong cái ḍng người hoảng loạn,
trong cái âm thanh cuồng nộ những ngày cuối cùng của
tháng tư, hai cha con vẫn c̣n nh́n về hướng
Lăng Ông Bà Chiểu, nơi nhà tôi ở đó. Vẫn c̣n
hy vọng mẹ và các em đến kịp để cùng
đi. Phép lạ đă không xảy ra. Tàu sắp nhổ neo,
mẹ và các em tôi vẫn biệt tăm. Ba bảo thôi con lên
trước đi, ba đợi thêm một tí nữa, ḿnh gặp
nhau trên tàu. Trong mắt ba vẫn c̣n ánh lên một tia hy vọng.
Nhưng tôi biết là đă hết. Thời gian không c̣n kịp
nữa. Ba hối thúc tôi lên tàu, riêng ba không đành bỏ vợ
và 8 đứa con con nhỏ dại, quyết định
quay lại. Với tôi, ra đi hay ở phải là một
quyết định trong chớp mắt. Nhưng sao
đành bỏ lại ba một ḿnh với khuôn mặt và cặp
mắt thất thần như vậy. Tôi lắc đầu.
Thế là tôi và ba quay ngược lại ḍng người vẫn
cuống cuồng chạy về phía bờ sông, dù con tàu
đă từ từ rời bến. Cùng với hàng triệu
người miền Nam Việt Nam, tôi và gia đ́nh bắt
đầu sống những tháng ngày đen tối nhất.
Đêm đầu tiên, khi nghe tin
ĐT Dương Văn Minh đầu hàng trên đài phát
thanh, ngoài đường những nhóm người đội
mũ cối cầm súng đi qua đi lại, cả gia
đ́nh tôi chui dưới chân cầu thang, tắt đèn tối
thui, ẩn trốn, và ba đă khóc. Thế là chấm dứt
một quăng đời, lịch sử đă sang trang và chúng
tôi đă cảm thấy một tương lai mịt mù sắp
tới.
Trong những ngày sau đó, ba tôi sống
trong hoang mang, lo sợ, không dám bước ra khỏi nhà. Mặt
ba lúc nào cũng căng thẳng. Riêng tôi mỗi ngày vẫn
lên tŕnh diện cơ quan rồi về. Lên để biết
th́ ra có những bạn bè cùng sở làm ngày xưa, từng
cùng vui chơi sinh hoạt với ḿnh bây giờ đội
mũ cối, cầm súng lầm ĺ đi ra đi vào. Có
người c̣n chào hỏi tử tế nhưng có đứa
mặt mày vênh váo, kênh kiệu, những nhân viên c̣n lại,
không phải dân Cộng sản nằm vùng tụm lại một
pḥng trên lầu, co cụm đến tội nghiệp.
Trong những ngày đầu mất
nước tháng 5 năm 1975, tôi biết ba vẫn c̣n hy vọng
về môt người, người em út đi tập kết
từ những năm 1954, nghe đâu đang làm lớn và
h́nh như đang có mặt tại Sài G̣n. Chính ủy chính iết
ǵ đó. Ba kể hồi nhỏ ba và chú rất
thương yêu nhau, ngày chú đi vào rừng theo kháng chiến,
ba là người cuối cùng gặp và đưa chú vào chiến
khu. Ba vẫn nghĩ nếu có chú chắc ba sẽ không sao.
Như một người sắp sửa
bị ch́m tàu, cố bám víu một chút hy vọng nào đó
để sống, dù rất mỏng manh. Với riêng tôi,
h́nh ảnh về chú không hiền lành như ba tưởng
tượng mà là những con người tôi đă từng
xem qua cuốn phim "Chúng tôi muốn sống", lạnh
lùng và tàn ác. Tôi nghĩ ba quá ngây thơ, nhưng biết làm
sao được, một người lính thất trận,
một vợ và 9 đứa con nheo nhóc trong một thành phố
đă không c̣n thuộc về ḿnh, chung quanh đầy rẫy
những bóng đen ŕnh rập. Có thể ba đang cố
quên nhưng với tôi, kư ức về một Mậu Thân khủng
khiếp ở Huế vẫn c̣n đó, không thể nào không
nhớ. Những cuộc trả thù tàn khốc chắc chắn
sẽ xảy ra. Không ảo tưởng như ba, tôi chờ
đợi và biết rằng ngày đó sẽ đến,
không xa.
Một ngày đầu tháng sáu, giống
như ba đang mong đợi, chú tôi đi cùng một vài bộ
đội cầm súng ghé nhà thăm gia đ́nh chúng tôi. Một
Trung tá chính uỷ thuộc đơn vị pḥng không không
quân Hà Nội, ghé thăm cựu trung tá cảnh sát chế
độ cũ. Hai anh em thuộc hai chiến tuyến gặp
nhau tại Sài-G̣n sau 20 năm xa cách. Hai người đi
hai con đường khác nhau, cuối cùng hội tụ tại
một điểm. Cũng chào hỏi, cũng mừng mừng
tủi tủi, cũng nhắc lại chuyện xưa,
nhưng tôi biết quan hệ đă không c̣n như trước
nữa, ngượng ngùng, khách sáo. Nói thật ḷng, chú tôi
nh́n bề ngoài gầy g̣ khắc khổ, ít nói và trông có vẻ
hiền lành chứ không đến nỗi dữ dằn
như trong tưởng tượng của tôi. Nhưng tôi
vẫn không thể chuyện tṛ thân mật với chú
được. Một bức tường vô h́nh đă chắn
ngang trong quan hệ của chúng tôi.
Sau ngày đó thỉnh thoảng chú
đến thăm ba tôi, và cũng kể từ ngày đó những
đồ đạc quí giá c̣n sót lại trong gia đ́nh cũng
dần dần ra đi. Khi th́ cái tủ lạnh, khi th́ cái
truyền h́nh trắng đen hiệu Denon 4 cửa xếp.
Mẹ nói riêng với tôi:
- Cho chú, thôi kệ của đi thay
người, hy vọng sau này có ǵ nhờ chú giúp ba con cũng
đỡ khổ phần nào.
Mẹ nghĩ vậy th́ hay vậy,
chứ trong thâm tâm tôi mẹ đă không biết ǵ về Cộng
Sản rồi. Xin tiền th́ có thể chú sẽ cho
nhưng để bảo lănh cho một sĩ quan cảnh
sát như ba tôi chắc chắn là không. Biết vậy,
nhưng thôi cứ để mẹ bám víu một chút hy vọng
dù rất mong manh. Nói một cách trung thực, từ ngày có
chú đến thăm gia đ́nh, thái độ của các
công an CS, cán bộ phường đối với gia đ́nh
tôi cũng có chút thay đổi, không giống như những
ngày đầu "mất nước".
Nhớ lại ngay ngày mồng 2 tháng
năm, vừa mới sáng sớm một đoàn người
đông đảo, cán bộ có công an có ghé vào nhà, kêu ba tôi ra
tŕnh diện, ra lệnh ba tôi trong thời gian này phải ở
nhà, không được đi đâu cả cho đến
khi có lệnh mới. Sau đó đi một ṿng quanh nhà tôi,
ngang pḥng khách, giật đứt chiếc điện thoại
để bàn, xem giấy tờ từng người và
trước khi ra về, lấy luôn chiếc đồng hồ
đeo tay của ba trên đầu tủ thờ. Chiếc
đồng hồ kỷ niệm của ông nội mà ba rất
quư. Mẹ chắc lưỡi - thôi kệ, của đi
thay người.
Một ngày cuối tháng sáu, cái ngày
tôi biết chắc chắn phải đến, cuối cùng
đă đến. Ba tôi nhận giấy đi tŕnh diện học
tập cải tạo dành cho đối tượng sĩ
quan nguỵ quân nguỵ quyển. Địa điểm tập
trung: trường Trung Học Chu Văn An. Trong giấy ghi
rơ đem theo dồ dùng cá nhân để sử dụng trong
30 ngày. Nhận được giấy báo, ba mừng như
thoát được gánh nặng canh cánh bao lâu nay. Ba bảo:
- Tôi nói có sai đâu bà, bây giờ hoà
b́nh rồi họ không trả thù như hồi Mậu Thân
đâu. Kỳ này tôi chỉ đi học có 30 ngày mà ngay tại
Sài G̣n này thôi. Xong kỳ học tập này rồi ḿnh sẽ
được đối xử như những người
dân b́nh thường. Tôi tính gia đ́nh ḿnh sẽ về lại
Đà Nẵng sinh sống. Có mắm ăn mắm có rau
ăn rau. Khoẻ rồi, hoà b́nh rồi, hết chiến
tranh rồi bà ơi.
Mẹ tôi, với linh cảm và yếu
đuối của đàn bà, lên tận sân bay Tân Sơn Nhất
xin gặp chú nhờ chú giúp đỡ. Liếc sơ qua giấy
báo tŕnh diện học tập chú nói:
- Chị đừng lo, cách mạng
khoan hồng, anh cứ đi, học tập khoản một
tháng là xong. Cứ học tập thật tốt, về sớm
đúng ngày, không sao đâu.
Mẹ tôi an ḷng chuẩn bị mền
mùng thức ăn khô cho ba. Riêng tôi, qua trực giác và qua sách
báo đă đọc, tôi nghi ngờ về chữ học tập
tốt mà chú đă nhấn mạnh. Tôi biết là mọi chuyện
chỉ mới bắt đầu. Để xoá đi kư ức
của một sĩ quan cảnh sát 51 tuổi đời,
25 năm quân ngũ, và để đào tạo thành một
người công dân chế độ xă hội chủ nghĩa,
chắc chắn không thể là 30 ngày ngắn ngủi như
thế. Tôi biết là chú đă không nói thật, và ba th́ ảo
tưởng hoặc có thể đă biết nhưng muốn
che dấu mẹ, cố gượng vui chờ ngày lên
đường tŕnh diện. Có những đêm thức giấc
giữa đêm khuya tôi thấy ba ngồi lặng lẽ và
hút thuốc liên tục ngoài hiên. Đôi vai như oằn xuống,
tôi chua xót nhận ra chỉ trong một thời gian quá ngắn
ba đă già đi rất nhiều. Trong cái bóng tối mênh
mông, tôi cảm thấy ḿnh nhỏ bé và vô dụng vô cùng.
Một ngày trước khi đi, ba
dặn riêng tôi không cho mẹ biết, hai cha con ra chợ Bến
Thành. Ba nói ba c̣n để dành 2 lượng vàng, bán xong con
nhớ đem về cất riêng, khi nào mẹ và các em cần
tiền th́ con đưa cho mẹ. Ba không biết khi nào về,
con nhớ phụ mẹ lo cho các em. Th́ ra ba không ngây thơ
như tôi tưởng, tất cả nụ cười trên
khuôn mặt ba thường ngày chỉ là giả tạo.
Không có mẹ bên cạnh, ánh mắt ba bây giờ mới là
thực. Nh́n khuôn mặt hoang mang đến tội nghiệp
của ba, tôi thấy mắt ḿnh cay cay. Thương ba vô
cùng.
Cuộc mua bán 2 lượng vàng diễn
ra nhanh chóng và lén lút. Tôi ngồi canh chừng công an, ba
đưa vàng, người bán đếm tiền gói lại
đưa cho ba, ba đưa tôi. Liếc ngang liếc dọc,
bỏ vô túi xách, ôm kè kè bên ḿnh, về nhà cất kỹ trong
két khoá lại, pḥng khi bất trắc.
Sáng sớm hôm sau, không nhớ ngày,
tháng 8 năm 1975, Ba từ giă gia đ́nh đi tŕnh diện.
Ba ôm mẹ, hôn các em. Mẹ, các em đều khóc. Bé út khóc to
nhất. Tôi ráng cắn chặt răng, mắt cay xè, hối
hả đạp xe chở ba đến trường Chu
Văn An. Không ai nghĩ rằng, đó là lần cuối
cùng mẹ và các em gặp ba. Trước cổng trường,
đông nghẹt những người đi tŕnh diện và
những thân nhân lóng ngóng bên ngoài. Tay xách ba lô, ba lủi thủi
đi vào, trước khi bước qua cánh cửa sắt
có mấy tên công an đứng gác, ba quay lại nh́n tôi
như nhắc nhở con nhớ thay ba lo cho mẹ và các em.
Khi bóng ba mờ khuất sau dăy lớp, nỗi đớn
đau kềm hăm bấy lâu vỡ oà, tôi khóc ngon lành như một
đúa trẻ. Tôi biết rằng ngày ba trở về c̣n xa
lắc xa lơ.
Từ khi ba đi, căn nhà trở
nên vắng vẻ vô cùng. Mẹ phần lo chạy gạo hằng
ngày, phần lo lắng nhớ ba, gầy đi trông thấy.
Tuy nhiên mẹ vẫn hy vọng 1 tháng sẽ trôi qua nhanh
chóng, ba trở về và mọi chuyện sẽ trở lại
như xưa. 30 ngày rồi 45 ngày trôi qua, tôi và mẹ bắt
đầu sốt ruột lo lắng. Mẹ cứ mỗi
ngày hết đi ra lại đi vào, hết lên phường
hỏi thăm rồi lại lên Tân Sơn Nhất t́m gặp
chú. Vẫn là 1 câu trả lời:
- Chắc sắp được về
thôi. Anh học tập tốt th́ cách mạng sẽ cho về,
chị đừng lo.
Câu chị đừng lo càng lúc càng
trở thành vô dụng khi bao tháng trôi qua, vẫn không một
tin tức ǵ về ba. Vừa phải lo cuộc sống vừa
phải chạy đôn chạy đáo hỏi thăm đầu
này đầu nọ, mẹ già hẳn đi. Cuộc sống
càng ngày càng khó khăn cho một gia đ́nh 11 miệng
ăn. Đồng lương ít ỏi của tôi không đủ
nuôi sống cả gia đ́nh, mẹ bắt đầu
đem đồ đạc trong nhà ra chợ bán. Chú th́ thỉnh
thoảng vẫn ghé thăm nhưng thưa thớt hơn
nhiều. Có lẽ v́ bận rộn nhưng cũng có lẽ
sợ không biết phải trả lời sao với mẹ.
Không lẽ đợi anh học tập tốt, cách mạng
khoan hồng, hay là chắc mai về khi mà ngày mai của chú
có thể là một ngày không bao giờ đến.
Thấm thoát rồi cũng qua một
năm. Mẹ vẫn mỏi ṃn chờ đợi trong vô vọng,
ba vẫn biền biệt phương nào. Không một tin tức,
không một dấu vết, dù nhỏ nhoi. Những đồ
vật có giá cuối cùng trong nhà cũng đă bán hết. Hai
mẹ con ôm nhau khóc. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ đến
số tiền bán 2 cây vàng dấu trên gác. Một số tiền
khá lớn thời bấy giờ. Ai ngờ khi mở gói tiền
tôi sững sờ nh́n thấy nguyên bó tiền chỉ có hai tờ
đầu là tiền thật, ở giữa toàn là giấy
báo. Th́ ra lợi dụng việc mua bán chui lén lút, vừa bán
vừa canh chừng công an, khi đưa tiền, người
bán đă tráo đổi gói tiền đang đếm bằng
gói tiền gói sẵn. Cho đến khi chết chắc ba cũng
không thể ngờ những đồng tiền cuối
cùng ba để dành cho mẹ là con số không to tướng.
Trong những tháng năm sau đó, cuộc
sống càng ngày càng khó khăn. Không c̣n cách nào khác, mẹ vẫn mỗi ngày tiếp tục
ra bán chui trước chợ Tân Định. Sạp hàng là một
tấm vải ni lông, cột dây bốn góc để dễ
túm lại khi có công an đến. Thời đó buôn bán trên vỉa
hè là phạm pháp. Vừa mua bán vừa láo liên canh chừng
công an. Nếu công an tới th́ túm tấm nilông bỏ chạy
vào nhà lồng chợ. Công an đi khỏi, đem hàng ra bày
bán tiếp. Đồ bán khi
th́ một đôi giày, một chiếc áo cũ hay có khi chỉ
là lớp vải lông thú tách ra từ những chiếc áo
lính ngày xưa.
Có ǵ bán nấy. Khởi đầu
là đồ đạc trong nhà, sau đó là đồ mua lại
từ những người có cùng hoàn cảnh đem bán. Cũng
có khi là đồ chôm đồ chỉa, cũng lây lất
qua ngày. Các em c̣n quá nhỏ, chỉ ḿnh tôi với mẹ, sĩ
diện, ḷng tự trọng của một kỹ sư cũng
đem chôn chặt trong ḷng. Tôi mỗi ngày, sau giờ làm việc
cũng ra phụ mẹ, cũng chạy ra chạy vào, cũng
cặp mắt láo liên, vừa bán vừa mua, vừa canh chừng
công an. Trong những ngày vô cùng khốn khó đó, thỉnh thoảng
chợt nhớ về thời thơ ấu cũ ḷng thật
buồn. Những ngày tươi đẹp ấy đă quá
xa. Những lo lắng về cuộc sống và một
tương lai mù mịt, làm tôi trở nên lạnh lùng chai
đá. Dù rằng cũng có đôi khi, tôi một ḿnh khóc thầm
trong đêm.
Như một định mệnh,
trong những ngày cùng cực khốn khó đó tôi gặp C. vợ
tôi bây giờ. Người ta hay nói vợ chồng là duyên là
nợ. Điều này rất đúng với chúng tôi. Trước
75 tôi và C. cùng làm chung tại Trung Tâm Bưu Chính Viễn Thông
thuộc Bưu Điện thành phố Sài G̣n. Gặp nhau
thường xuyên nhưng ít khi nói chuyện.
Nàng làm thư kư cho Desai, giám đốc
chương tŕnh đào tạo của Liên Hiệp Quốc.
Hồi đó C là một người đẹp, nhiều
người theo đuổi.
Tôi là kỹ sư mới ra trường.
Tốt nghiệp Bách Khoa Phú Thọ, tôi chọn vào Trung Tâm v́
tại đó có học bổng đi học cao học về
viễn thông. Tôi ghét cái kênh kiệu và lạnh lùng của
nàng. Nàng th́ ghét cái giọng Huế nặng trịch của
tôi. Tôi càng ghét nàng khi bài thi xếp hạng để đi
du học của tôi bị cộng sai điểm. Tôi khiếu
nại không được. Và v́ vậy tôi bị sắp
đi đợt 2 vào tháng 12 thay v́ đợt đầu vào
tháng giêng năm 75.
Chuyến đi du học tháng 12 bị
băi bỏ do biến cố 75. Tự an ủi xem như
chưa có số xuất ngoại dù trong ḷng tôi buồn và
tưng tức. Có lẽ, do nợ tôi một món ân t́nh quá lớn
nên sau này nàng đă phải trả lại tôi gấp nhiều
lần hơn. Cùng hoàn cảnh, cùng thuộc gia đ́nh ngụy
quân ngụy quyền, cùng ghét Việt Cộng như nhau,
chúng tôi gặp nhau thường xuyên trong những lần
đi nghe các buổi nói chuyện về chính trị, về
chủ nghĩa Mac Lenin. Chúng tôi thường chọn ngồi
dưới hàng ghế cuối cùng. Để ngáp, và để
ngủ không bị để ư. Những hàng ghế cuối
cùng trở thành nơi chúng tôi chia sẻ những đắng
cay, những mất mát và những yêu thương. Cuối
cùng chúng tôi quyết định nên vợ nên chồng. Dám
yêu đứa con cảnh sát chế độ cũ,
tương lai mờ mờ mịt mịt, chắc chắn
chỉ có thể nàng đă quá yêu tôi.
Đám cưới được tổ
chức đơn giản. Không rể phụ không dâu phụ,
không rước dâu. Lạy cha mẹ, lạy bàn thờ gia
tộc hai bên, đơn giản chỉ như vậy. Chỉ một số ít bạn bè
thân thiết và bà con gần. Không có ǵ phải phô
trương khi ba tôi vẫn mịt mù đâu đó trong trại
cải tạo, không biết sống chết ra sao. Em yêu tôi
và tôi cũng rất yêu em. Thế là đủ.
Một ngày trước đám cưới
chúng tôi nhận được giấy báo từ phường
yêu cầu gia đ́nh ra khỏi nhà trong ṿng 48 giờ. Lư do
gia đ́nh thuộc diện 28, sĩ quan cảnh sát làm việc
cho chế độ Mỹ Nguỵ.
Giấy báo c̣n cho biết phường sẵn sàng giúp
đỡ, tạo mọi điều kiện để gia
đ́nh có thể lập nghiệp trên vùng kinh tế mới.
Kết thúc vội vàng buổi tiệc
mừng đám cưới, hai vợ chồng đạp xe
lên sân bay Tân Sơn Nhất xin chú can thiệp giúp đỡ.
Chú nói:
- Theo chú thấy đi kinh tế mới
dầu sao cũng tốt cho mẹ và các cháu. Cực khổ
lúc ban đầu nhưng sau này sẽ khá hơn. Hồi chú ở
ngoài Bắc cực khổ hơn gấp trăm lần, có
sao đâu. Sau này ba con về c̣n có chỗ sinh sống.
Trả lời như chú vậy th́
chẳng thà nói với đầu gối sướng
hơn. Hai đứa chỉ biết nh́n nhau, thầm nghĩ
với t́nh thế này chắc cũng phải lên đường
đi lập nghiệp trên vùng đất mới mà thôi.
Trong lúc cùng đường, vợ tôi chợt nhớ đến
ông xếp cũ từ thời trước 75, một kỹ
sư tốt nghiệp từ Pháp, cựu giám đốc
bưu điện nay là cán bộ cao cấp làm việc trong
thành uỷ. Nghe tŕnh bày hoàn cảnh, nghĩ đến mối
giao t́nh thầy tṛ ngày xưa, ông nói để ông xuống
phường xem thử. Không hiểu ông can thiệp như
thế nào, hai ngày sau phường gửi giấy quyết
định cho gia đ́nh tạm thời ở lại cho
đến khi chồng đi cải tạo trở về.
Nói theo ngôn ngữ bóng đá bây giờ, vợ tôi đă cứu
gia đ́nh tôi một bàn thua trông thấy vào phút 90.
Từ khi lập gia đ́nh, tuy có
thêm đồng lương của vợ tôi, nhưng vẫn
không thể nào đủ cho một gia đ́nh 11 miệng
ăn. Bán chợ chạy của mẹ th́ vất vả mà
thu nhập quá kém cỏi. Hai đứa bắt đầu
làm thêm đủ thứ ngành nghề.
Khởi đầu là nuôi heo. Nhờ
giấy giới thiệu của cơ quan, mỗi tháng vợ
tôi được mua một cặp heo con với giá rẻ.
Chiếc cầu tiêu duy nhất tuy nhỏ cũng được
ngăn ra dành chỗ để nuôi 2 con heo mọi mới
đẻ. Mỗi ngày đi tiêu đi tiểu trong tiếng
kêu ủn ỉn của chúng, mới đầu rất khó
chịu, nhưng rồi nghe riết cũng quen, cũng ghiền.
Nuôi 1, 2 tháng, đem ra chợ bán. Lại lên trại mua 2 con
khác nuôi tiếp.
Chỉ nuôi heo không cũng chưa
ăn thua. Bắt đầu nuôi thêm gà công nghiệp. Cũng
xin giấy giới thiệu lên trại gà mua vài chục gà
con, nuôi vài tháng hơi lớn lớn rồi đem bán.
Được vài tháng suông sẻ, gặp mùa toi dịch, gà
heo chết hàng loạt, cụt vốn, hai vợ chồng
nhảy qua làm bánh đậu xanh, khô, ướt. Mẹ
ngâm, đăi đậu, tôi cắt giấy, vợ tôi gói. Mỗi
chiều đi làm về, hai vợ chồng đèo nhau trên
chiếc xe đạp cũ kỹ đi giao bánh cho mấy
tiệm ăn quanh xóm. Không phải bán đứt, kư gửi
th́ đúng hơn. Giao bánh, vài ngày sau quay lại. Bán hết
th́ lấy tiền, giao bánh mới. Gặp lúc bán không hết,
bị mốc, đem về không biết làm ǵ cho hết, trộn
vô cám cho heo gà ăn.
Cứ vậy, những tháng ngày tiếp
tục trôi. Vợ chồng ốm tong ốm teo như ma
đói, nhưng cũng phải ráng chịu cực mong đợi
ngày ba về.
Đến một ngày đầu
tháng 2 năm 1978, bỗng nhiên chúng tôi nhận được
thư ba, lần đầu tiên. Góc thư tôi c̣n nhớ rơ
địa chỉ Trại K2 Tân Lập, Vĩnh Phú. Trong
thơ ba hỏi thăm mẹ và các em. Ba kể ba đang học
tập cải tạo tốt. Thư ngắn chưa đầy
một trang giấy. Ba nhắc tôi ráng chăm sóc mẹ và
các em. Đợi ngày ba về. Miền bắc lúc đó đối
với tôi vô cùng xa lạ. Nếu có biết cũng chỉ
biết qua sách vở. Vĩnh Phú ở đâu, ra sao, xa xôi
như thế nào, không quan trọng, ít nhất là ba vẫn
c̣n sống.
Thế là đủ. Quá mừng rỡ
mẹ biểu tôi viết thư thăm ba và mỗi đứa
em viết một câu cho ba. Mẹ nói tôi kể cho ba về
cuộc sống ngoài này. Tôi ầm ừ cho qua chuyện,
trong thư chỉ viết là nhớ ba, mong ba học tập
tiến bộ để sớm về với gia đ́nh.
Tôi không kể về cuộc sống gia đ́nh từ ngày
ba đi. Không lẽ cho ba hay rằng căn nhà đă bị
tịch thu, gia đ́nh suưt nữa bị đi kinh tế mới,
hay lại kể với ba rằng mẹ mỗi ngày
đang bán từng chiếc áo cũ của ba ngoài lề
đường. Hoặc kể cho ba chuyện 2 cây vàng. Thôi
th́ cứ để ba vui khi nghĩ rằng vợ và các con
của ba dù là con của sĩ quan chế độ Mỹ
Ngụy, vẫn được cách mạng CS đùm bọc
thương yêu. Thôi th́ cứ như vậy cho ba yên ḷng và
ít nhất thư cũng đến được với
ba. Kể từ hôm đó khoảng hơn mỗi tháng một
lần gia đ́nh tiếp tục nhận được
thư ba. Mỗi lần chỉ hơn một trang giấy,
nhưng cũng mang đến cho chúng tôi một niềm vui
và hy vọng. Sẽ có ngày ba trở về.
Cho đến một ngày, Cũng từ
K2 trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú. Cũng nội
dung ba đang học tập tốt, cán bộ đối xử
với ba rất tốt, cũng khuyên các con cố gắng
học tập trở thành cháu ngoan của "Bác",
nhưng nét chữ run run, nguyệc ngoạc, khó đọc
và ngắn hơn rất nhiều so với các thư trước.
Mẹ và các em vẫn mừng rỡ như mọi lần,
nhưng riêng tôi linh cảm một điều ǵ đó không
hay đang xảy ra. Hai vợ chồng đem thư ba lên
pḥng đọc đi đọc lại nhiều lần.
H́nh như chữ "tốt" (học tập tốt, sức
khoẻ ba vẫn rất tốt được viết
đậm hơn, to hơn các chữ khác). Chữ ba viết
quá xấu so với b́nh thường. Rất bất thường.
Không tốt nghĩa là xấu. Không khoẻ nghĩa là bịnh.
Quá lo lắng, tôi bắt đầu
nghĩ đến chuyện đi thăm ba. Lên phường
xin giấy phép đi ra Bắc, bị từ chối. Phải
có giấy phép thăm nuôi từ trại gửi về. Hồi
đó muốn đi Hà Nội và các tỉnh miền Bắc,
người dân b́nh thường như tôi phải làm
đơn xin phép, phải có lư do chính đáng và phải có
người bảo lănh. Thời gian được cấp
giấy phép thường rất lâu nhất là đối với
những gia d́nh thuộc diện nguỵ quân nguỵ quyền
như chúng tôi. Lên gặp chú nhờ chú can thiệp giúp đở,
chú nói cũng y hệt như mấy ông cán bộ phường:
- Khi nào
họ cho phép thăm nuôi th́ ba con sẽ gửi giấy tờ
về.
Chú trả lời như vậy th́ kể
như không nói. Thật lo lắng cho ba, nhưng không biết
làm sao, đêm đêm tôi chỉ biết cầu nguyện cho
ba sức khoẻ, và mong chờ một phép lạ. Và phép lạ
cuối cùng cũng đă xảy ra.
Ở hiền gặp lành. Tháng 8 hiệu
trưởng loan báo có đợt cho nhân viên và giáo viên
trường Bưu Điện đi tham quan miền bắc
xă hội chủ nghĩa và du ngoạn tại băi biển
Đồ Sơn 1 tuần. Tôi và vợ tôi có tên trong danh sách
được đi. Lúc đó vợ tôi đang mang thai
đứa con đầu được 5 tháng. Phần làm
việc vất vả, phần thể trạng yếu
đuối, khộng dám đi xa, vợ tôi đành ở
nhà. Tôi đi ra miền bắc một ḿnh. Không phải v́
yêu "Hà Nội xă hội chủ nghĩa" cũng không
phải để tắm biển Đồ Sơn, mà trong
ḷng tôi đang h́nh thành một kế hoạch đi t́m ba.
Cả đoàn đi ra Hà Nội bằng
xe lửa. Chuyến đi gồm hai phần. Phần đầu
là phần nghe giảng về chính trị, về chủ nghĩa
Mac Lenin, về miền bắc xă hội chủ nghĩa 4
ngày tại Hà Nội. (Phần này bắt buộc không ai
được vắng mặt). Phần sau 3 ngày là về
nghỉ ngơi vui chơi tại băi biển Đồ
Sơn. Phần này kỷ luật tương đối lỏng
lẻo hơn. Đa số các cán bộ quê miền Bắc
nhân thời gian này tranh thủ về thăm gia đ́nh, chỉ
có những người miền Nam lần đầu tiên ra
Bắc là theo đoàn về Đồ Sơn. Tôi th́ đă có
kế hoạch từ trước xin trưởng đoàn ở
lại Hà Nội với lư do thăm gia đ́nh ông chú ruột
là trung tá Chính ủy đơn vị pḥng không không quân. Cũng
phải viện một lư do ǵ
đó để đơn xin có trọng lượng. Cũng
phải cho trưởng đoàn biết là con nguỵ
nhưng cũng có bà con là cán bộ cộng sản dù trong
thâm tâm tôi biết ông chú đi cách mạng có cũng như
không, khó nhờ vả sơ múi ǵ đuợc. Hồn ai
người nấy giữ.
Thế là những ngày đầu
thánh 9 năm 1978, tôi bắt đầu chuyến hành tŕnh t́m
cha. Chưa một lần ra miền Bắc. Với tôi tất
cả điều xa lạ. Manh mối duy nhất là địa
chỉ trên thư: K2 Trại cải tạo Tân Lập Vĩnh
Phú. Phương tiện di chuyển: chiếc xe đạp
Phượng Hoàng mượn của ông chú.
Sáng mồng 3 tôi bắt đầu
ra đi từ nhà chú: khu Tập thể Nam Đồng,
Đống Đa, Hà Nội. Trạm đầu tiên: Ga xe lửa
Hàng Cỏ. Hỏi thăm các người bán hàng rong ở
ga. Vĩnh Phú th́ nhiều người biết nhưng trại
Tân Lập ở đâu th́ không ai hay. Thôi th́ cứ lên tàu
đi về hướng Vĩnh Phú trước đă.
Đúng là tàu chợ, xe lửa th́ củ
kỹ, hôi hám, trên các toa đông nghịt người, đa
số là người lao động và người bán hàng
rong. V́ vướng chiếc xe đạp, chật vật lắm
tôi mới leo được lên toa cuối cùng khi tàu bắt đầu chuyển
bánh. V́ lên sau cùng, tàu đông kịt người, chỗ
đứng chổ ngồi hầu như không c̣n, tôi ngồi
xuống một khoảng trống sát vách cầu tiêu. Lần
đầu tiên tôi cảm thấy nỗi cô đơn giữa
một rừng người cùng tiếng nói, cùng một màu
da.
Mỗi một trạm tàu dừng,
tôi đều hỏi thăm những người khách và những
em bé bán chè xanh nhảy lên từ mỗi trạm. Cuối
cùng cũng có được một tin tức mơ hồ
từ một em bé:
- Có lần đi bán nước chè,
em có gặp một đoàn người h́nh như ở
trong nam ra v́ không giống người ngoài này, đi lao
động, h́nh như ở gần ga Ấm Thượng,
Vĩnh Phú. Em bé nói thêm h́nh như có trại giam giữ những
người miền nam gần đó.
Tôi bám tàu đi tiếp. Tàu lắc
lư đi về hướng Cao Bằng Lạng Sơn.
Mùi hôi thúi bốc lên từ cái cầu tiêu công cộng cộng
hoà quyện vào cái mùi mô hôi của hàng trăm người
đứng ngồi lóc nhóc không làm tôi bận tâm. Tôi mải
suy nghĩ khi nào th́ đến ga Ấm Thượng? V́
không nh́n được qua cửa sổ, tôi đành nhờ một bà lăo ngồi sát cửa sổ nhắc giùm khi đến ga.
Xuống được ga Ấm
Thượng th́ cũng đă giữa trưa. Phải nói là
trạm th́ đúng hơn. Nhà ga là một căn nhà nhỏ,
vách lá, trống huơ trống hoắc. Vùng đất thật
hoang vu, dân di lại thưa thớt. Ra khỏi ga là một
con đường đất đỏ duy nhất về
một làng nào đó ở xa xa. Tôi vừa đi, vừa hỏi
đường. Hỏi xem có ai biết về trại Tân Lập
không? Không ai biết. Phải
đến lần thứ 9 hay thứ 10 ǵ đó, khi tôi
đă vào sâu khoảng 5, 7 cây số, mới có được
câu trả lời tương đối rơ ràng:
- Phải đi thêm 20 đến 25
Km về phía dăy núi, bên này là Trại Tân lập, bên kia là biên
giới Trung Quốc.
Đoạn đường đi xa
diệu vợi, chân tay ră rời, đôi khi tôi kiệt sức
muốn bỏ cuộc quay về. Nhưng nghĩ đến
ba, tôi gắng gượng tiếp tục lên đường.
Con đường càng vào sâu càng lúc càng khó đi. Khi th́ ngoằn
nghèo, khi th́ lồi lơm. Có những đoạn không đạp
xe được v́ mưa trơn trợt, tôi xuống xe dắt
bộ. Nhà cửa càng lúc càng thưa thớt, càng ít người
qua lại. Tôi vừa mệt, vừa sợ, vừa đi vừa
nh́n chung quanh, dáo da, dáo dác. Nói thật lúc đó có ai nhảy
ra, phang cho ḿnh một gậy, cướp xe đạp, vất
xác xuống ven đường, chắc cũng không ai hay.
Từ cha sinh mẹ đẻ đến
nay có bao giờ tôi đi đâu một ḿnh như thế này đâu. Hồi nhỏ th́ có cha
có mẹ, vào trường th́ có bạn có bè. Đi đâu cũng
đi với người này hay người khác. Ngay cả
khi đi trồng cây si, cũng rủ thêm Trường Thọ
hay Quốc Chính (đă mất) cùng đi. Đi đâu cũng
xe đạp hay xe Jeep của Ba. Đi bộ th́ nhiều nhất
là một cây số. Chạy th́ nhiều nhất một ṿng
sân trường là thở dốc. Vừa mệt vừa sợ
cướp, vừa sợ ma, tôi vừa đạp xe vừa
lẩm bẩm cầu nguyện, nhiều lúc nản quá muốn
quay về. Rồi lại nhớ đến ba, nhớ đến khuôn mặt buồn thê thảm của ba
trước cổng trường Chu Văn An ngày nào, tôi lại
lê lết lên đường đi tiếp.
Đúng là lê là lết. Đường
càng lúc càng khó đi. Mưa phùn, đường hẹp,
đất bùn quyện nước mưa nhăo nhoẹt bám
vào bánh xe càng làm nặng nề. Tôi bắt đầu cảm
thấy lạnh. Một cái lạnh cắt da cắt thịt.
Nhưng nỗi khổ chưa dừng ở đó. Trên con
đường độc đạo duy nhất về trại
Cải tạo Tân Lập, tôi phải vượt qua hai con
sông.
Quen với cái hiền hoà của
gịng sông Hương thuở nhỏ, chưa bao giờ tôi thấy
con sông nước chảy dữ dằn như vậy. Ḍng
nước đục ngầu và đỏ như máu chảy
cuồn cuộn. Đứng bên này nh́n thấy bờ bên kia
nhưng không biết cách nào qua. Không cầu không cống.
Không một bóng người. Men theo bờ sông, tôi đi về
hướng ánh đèn leo lét xa xa. Hỏi thăm, th́ ra muốn
qua sông th́ đi một đoạn nơi có bờ đá dô
ra ở mé sông, chụm hai tay gọi lớn sang bên bờ
bên kia "Đ̣ ơi .. ơi". Thế là từ bên kia bờ,
chênh chếch phía trên có một thuyền nhỏ một
người chèo qua. Nói th́ rất dễ dàng nhưng để
băng qua được bên này không dễ chút nào. Khoảng
cách hai bên bờ không lớn lắm, nhưng do nước
chảy siết, từ bên kia muốn qua bên này, người
lái đ̣ phải khéo léo dựa theo ḍng nước chảy,
từ trên xa trôi xuống, tắp đúng vào kè đá nơi
tôi đứng. Điều khiển không khéo th́ thuyền lật
như chơi, c̣n nếu không th́ thuyền tắp xuống
quá kè đá, không đúng chỗ đón khách.
Bác lái đ̣ giúp tôi đưa xe đạp
và tôi xuống thuyền. Nh́n người lái đ̣, nh́n ḍng
nước sông dục ngầu cuồn cuộn chảy, tôi
nhớ các đoạn văn của Nhất Linh, của
Khái Hưng thời Tự Lực Văn Đoàn kể về
các tỉnh miền Bắc xa xôi này. H́nh như nơi
đây, bánh xe thời gian đă ngừng lại. Giống y
chang như trong các bài văn ngày nào. Vẫn như xưa, nếu
không nói là cũ kỹ hơn, nghèo khổ hơn. Và có lẽ
v́ vậy người dân ở miền đất sát biên giới
Việt Trung này hiền lành và chơn chất gấp vạn
lần những con người tôi găp ở Hà Nội.
V́ vậy, may mắn tôi vẫn c̣n cái mạng quay về.
Đi thêm một đoạn dài,
vượt qua thêm một nhánh sông tương tự th́ trời
đă tối đen. Lúc này tôi không c̣n đạp xe
được nữa. Tôi dắt xe, vừa đi vừa
run cầm cập. Dân thành thị như tôi, lần đầu
tiên mới cảm thấy nỗi sợ hăi cùng cực khi một
ḿnh giữa đồng không mông quạnh, âm thanh là tiếng
côn trùng ếch nhái, thỉnh thoảng là những ánh đom
đóm lập loè. Lại thêm cái lạnh cắt da của
ban đêm và mưa phùn miền Bắc. Khổ không thể cực
khổ hơn. Sợ không thể nào sợ hơn. Nếu
không v́ ba tôi đă bỏ cuộc từ lâu. Nhưng rồi
cuối cùng tôi cũng gặp được một căn
cḥi trống ven đường. Đây có thể là nơi tạm
trú của những nông dân hay của những em bé chăn
trâu nào đó.
Căn nhà (cái cḥi th́ đúng hơn)
nhỏ xíu, trống không, có một cửa bằng tre nhỏ
xíu. Đặt chiếc xe đạp sát vách, tôi ngồi xuống
tựa lưng nghỉ mệt. Có thể nói trong đời
đây là căn nhà ấm áp nhất mà tôi từng ở dù rằng
những giọt mưa vẫn từ các khe hở nhỏ
xuống lạnh buốt. Bây giờ mới cảm thấy
đói. Bữa ăn tối đầu tiên trên miền
đất tận cùngbiên giới của người con
đi t́m cha đang học tập cải tạo là một
cái bánh bao không nhưn mua vội trên tàu. Cái gọi là bánh bao
thật ra chỉ là một cục bột hôi mốc nhờ
mưa ẩm ướt làm mềm đi nếu không chắc
sẽ cứng như đá. Nhưng không sao, khi đói th́
đất cát vẫn thấy ngon như thường. Vừa
ăn tôi vừa cố nuốt đi những giọt
nước mắt. Cùng với cơn lạnh ban đêm, dù
trải qua một ngày không ngủ, mệt lả, tôi vẫn
không tài nào chợp mắt được. Tôi ngồi bó gối
co ro ở một góc nhà. Lần đầu tiên tôi thấy
cái vô tận của đêm dài.
Trời vừa hơi sáng là tôi lên
đường ngay. Đi thêm một chặng đường
đất khá dài, khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ,
cuối cùng tôi cũng đến được trại
Tân Lập. Thật ra cái tôi gặp đầu tiên ở giữa
cái đồng không cô quạnh này là một ngôi nhà tranh,
tương đối lớn, phía trước có treo một
tấm bảng nhỏ "K10 Tân Lập". Bên trong là một
cái bàn dài có hai dăy ghế bằng tre. Không thấy có ai canh
gác. Tôi nghĩ đây là nhà khách. Đợi một lúc quả
nhiên tôi thấy một công an đi ra. Tôi tŕnh giấy tờ,
ghi rơ là cán bộ Bưu Điện ra Hà Nội công tác luôn
tiện thăm cha đang học tập tại K2 Tân lập.
Mừng hụt. Trại cải tạo
Tân Lập th́ đúng rồi nhưng đây là nhà khách thuộc
K10. Toàn trại gồm có 10 khu vực. Nếu tính từ
ngoài vào trong th́ bắt đầu từ khu K10, K9 .. cuối
cùng sát biên giới là khu K1. K10 là khu vực đầu tiên của
trại Tân Lập. Từ đây sẽ không có nhà dân mà chỉ
có những trại giam, cán bộ và tù nhân. Sau này tôi mới
biết khu trại Tân Lập không chỉ giam giữ các tù
nhân từ trong Nam mà c̣n là nơi giam giữ các thành phần
bất hảo ăn cắp ăn trộm ngoài Bắc. Thành
phần này được giam ở các khu K10, K9 gần phía
nhà dân.
Các tù nhân sĩ quan từ miền nam
được phân loại và giam giữ theo thứ tự,
chức vụ càng cao, càng ác ôn th́ được đưa
về các khu số nhỏ K1, K2 sát núi gần biên giới,
khí hậu khắc nghiệt và rất khó trốn thoát. Nếu
có vượt thoát được công an ở các khu vực K1, K2, K3 .. th́ chắc không qua
được các thành phần bất hảo của K9,
K10. Ai nói Việt Cộng ngu. Có đào thoát khỏi trại,
mặc áo tù đi lang thang 30 Km, ra khỏi đây không bị
bắt trở lại mới lạ.
Lại tiếp tục lên đường.
Hai bên đường là nhũng cánh đồng khoai ḿ, những
cánh đồng trà cằn cỗi. Thỉnh thoảng tôi bắt
gặp từng toán người mặc áo tù đang cuốc
đất. Từng nhóm làm việc
lặng lẽ. Lúc này đường đất
tương đối dễ đi hơn. Tôi cúi thấp
người cố gắng đạp thật nhanh. Đi
riết rồi cũng đi qua hết khu K3 và bắt đầu
vào địa phận K2. Có lẽ khoảng 10 giờ sáng,
mưa phùn vẫn c̣n rơi. Tính ra từ sáng tới giờ
tôi đă đi một lèo gần 4 tiếng đồng hồ.
Không ăn uống ǵ nhưng tôi vẫn không cảm thấy
đói. Tôi đang náo nức với cái cảm giác sắp
được gặp lại ba. Vừa đi tôi vừa
suy nghĩ những chuyện sẽ hỏi ba, chuyện ǵ sẽ
kể cho ba. Tự nhủ phải thật b́nh tĩnh, phải
không được xúc động, phải không được
khóc. Nghĩ tới lúc sắp gặp ba, quên cả mệt
nhọc, tôi ráng sức đạp thật nhanh.
Qua khỏi khúc quanh cuối K3 để
vào K2, tôi thấy cách đường đất đỏ
khoảng 5 đến 10 mét một nhóm khoảng mươi
người áo quần lam lũ, người đang cuốc
đất, người đang vác những bó củi khô, cạnh
đó mấy tay mặc áo vàng đội mũ cối, cầm
súng đi qua đi lại. Tôi biết chắc chắn
đó là những tù nhân đang lao động cải tạo.
Như một phản xạ tự nhiên, tôi đạp xe chậm
lại, đưa mắt nh́n quanh. Cùng lúc một tù nhân
đang đội nón lá lui cui gần vệ đường
ngước mắt nh́n về phía tôi. Dù đă bao năm qua
không gặp, dù bây giờ đă quá khác xưa, gầy g̣, mặt
mày đen thui, râu tóc dài bạc phơ, nhưng tôi vẫn nhận
ra đó là Ba. Nhảy ra khỏi xe, tôi thảng thốt kêu
lên một tiếng Ba thật to. Tiếng kêu làm nhiều
người quay lại hướng về phía tôi trong
đó có mấy tên công an cầm súng đứng ven
đường. Trong khoảnh khắc, tôi bắt gặp
đôi mắt hoảng hốt của ba, cặp mắt của
con thú hoang ngây dại và đầy vẻ lo sợ, ba vừa
chớp mắt vừa lấy tay xua lia lịa như muốn
tôi đứng lại và chỉ về phía căn nhà xa xa.
Tôi khựng lại, tôi biết tôi không được quyền
đứng lại hay tṛ chuyện với ba. Nuốt giọt
nước mắt đang chực chờ chảy, tôi lên xe
phóng nhanh về căn nhà khách, không quên nh́n lại ba. Vẫn
kịp thấy ba đang cúi xuống, tấm lưng gầy
g̣ yếu đuối run run ngă quị bên đường.
Tiếp tôi trong căn nhà khách K2 là một
công an mặc áo vàng, gương mặt gầy nhọn, non
choẹt và giọng nói rặt Bắc Nghệ An. Tôi
đưa giấy tờ chứng nhận là cán bộ giáo
viên trong nam ra công tác Hà Nội tranh thủ thăm cha đang
học tập cải tạo ngoài này. Sau khi xem giấy tờ,
tên cán bộ hỏi tại sao tôi biết nơi này. Không lẽ
nói do tự t́m kiếm, tôi nói do chú là Trung tá chính ủy chỉ
đường. Thái độ có vẻ nhă nhặn hơn
nhưng gă ta cho biết là tôi không thể thăm được
ba tôi lần này được với lư do:
- Ông nhà đang trong thời kỳ bị
kỷ luật do vi phạm nội quy của trại,
đang bị biệt giam.
Thú thật nếu không gặp mặt
ba ngoài kia, chắc chắn tôi đă phải tin lời quay về.
Tôi biết hắn đang làm khó dễ. Tôi nắm chặt
bàn tay dằn cơn giận dữ. Xuống nước:
- Nhưng thưa cán bộ tôi mới
gặp ba tôi ở ngoài kia.
Tên cán bộ gằn giọng:
- Anh có chắc không? Ông đang bị
biệt giam, ai cho ra ngoài, chắc anh nh́n lầm.
Sao có thể lầm ba với ai
được. Dù có bị đày đoạ cỡ nào, dù
ba có thay đổi bao nhiêu, th́ tôi vẫn không bao giờ lầm
ba với ai khác. Cặp mắt ấy, con người ấy
với tôi là duy nhất. Đuối lư nhưng tay công an vẫn
khăng khăng giữ vững ư định không cho tôi gặp
ba. Nhiều lư do được đưa ra: Thứ nhất
đây không phải là mùa thăm nuôi, thứ hai tôi cũng
không có giấy phép (hèn chi các
nhà khách tôi đi qua vắng như chùa bà đanh).
Tôi cố gắng tŕnh bày là đi
công tác đột xuất, hơn nữa đường
đi xa xôi, đă lỡ đến đây rồi, xin cán bộ
thông cảm. Làm ra vẻ tử tế, lăo cán bộ chép miệng:
- Thật ra tôi cũng muốn thông cảm
cho anh, không phải tôi làm khó dễ nhưng thú thật không
thể cho anh gặp được.
Tôi càng năn nỉ, tên cán bộ càng
cứng rắn. Lăo nỗi nóng:
- Nhưng tôi nói không gặp
được là không gặp được, anh về khi
nào có giấy tờ thăm nuôi th́ chúng tôi sẽ giải quyết.
Nh́n khuôn mặt tên cán bộ mặt
mày lấc cấc, máu tôi sôi lên, tôi muốn đấm cho nó
một cái, ra sao th́ ra. Nhớ đến ánh mắt của
ba ngoài kia, cặp mắt ngây dại của con thú hoang
đang co cụm dẫy chết. Nhớ đến đôi
vai gầy g̣ run rẩy trong gió lạnh ngoài kia, ḷng tôi dịu
lại, tự nhiên tôi bật khóc, khóc ngon khóc lành. Vừa
khóc tôi vừa năn nỉ tên cán bộ đáng tuổi em ḿnh.
Tiếng khóc động đến ḷng trời, đúng lúc
một tay cán bộ nữ
bước vào. Có lẽ khuôn mặt một người
đàn ông đang khóc nh́n thê thảm, xấu xí và cảm
động quá, sau khi bàn bạc, cán bộ nữ đồng
ư cho tôi được gặp ba nhưng chỉ được
gặp đúng 15 phút mà thôi. Dù sao đàn bà vẫn là đàn
bà, vẫn t́nh cảm hơn.
Chờ khoảng một tiếng, một
tên công an đi vào, theo sau là ba tôi. Lúc này tôi mới có cơ hội
nh́n rơ ba. So với hồi ở nhà, hoàn toàn khác hẳn. Khuôn
mặt đen sạm, tóc tai bạc trắng, râu dài tới
ngực, mặc bộ đồ tù cũ kỹ, tay cầm
chiếc nón lá rách tả tơi. Không kềm được
tôi phóng người về phía ba, hai tay dang rộng. Ba giật
ḿnh bước tránh qua một bên miệng lắp bắp
"dạ thưa cán bộ, tại con tôi không biết".
Nói xong ba lầm lủi theo tên công an đến chiếc bàn
tre chính giữa pḥng. Đợi tên công an ngồi xuống
chiếc ghế ở giữa hất đầu ra lệnh,
ba ngồi xuống ở chiếc ghế đầu kia
đối diện với tôi. Tên CA hất hàm:
- Anh có 15 phút để nói chuyện
với ông.
Dù tự nhủ phải cố gắng
b́nh tĩnh nhưng vẫn không thể được, tôi
oà khóc như một đứa bé. Trong khi đó ngoại trừ
cặp mắt ánh lên một nỗi niềm khổ đau
vô hạn, ba b́nh tĩnh hơn tôi nhiều. Ba nói trước,
ba hỏi thăm về mẹ, về các em. Cũng vẫn
là lời lẽ như trong các thư ba gửi về. Thỉnh
thoảng dù rất cố gắng ḱm lại nhưng ba vẫn
húng hắng ho. Tiếng ho vẫn đục như có
đàm chận trong cổ. Vừa khóc, vừa trả lời
tôi mải nh́n ba, muốn nhảy
đến ôm ba vào ḷng. Nhưng
khoảng cách hai đầu chiếc bàn quá xa và tên công
an ngồi chính giữa như một bức tượng lạnh
lùng, đe doạ. Tôi để cho ba hỏi ba nói và tôi trả
lời. Có nhiều điều muốn hỏi, muốn kể
với ba nhưng nỗi xúc động làm tôi không nói
được nên lời.
Thật ra nếu nhớ ra, có hỏi,
chắc chắn cũng là câu "cách mạng khoan hồng,
ba học tập tốt sẽ được cho về".
Nh́n ánh mắt ba, tôi biết sẽ không bao giờ ba học
tập tốt được, ngày về sẽ c̣n xa lắc
xa lơ. Tôi lấy từ trong túi sách, mấy gói thực phẩm
khô, chuối khô do mẹ làm, một ít bánh đậu xanh, mấy
hộp diêm một tút thuốc lá đen đẩy về giữa
bàn về phía Ba. Ba đẩy tất cả về phía tên
CA, miệng nói: Nhờ cán bộ giữ giùm. Cặp mắt
sáng lên, mặt bớt lạnh lùng, tên CA đem các món đồ
vào chiếc tủ nhỏ ở góc pḥng. Không biết ba sẽ
nhận được lại các món này hay không, tôi không có
tâm trí để nghĩ đến.
Tôi cứ mải nh́n người
đàn ông gầy g̣ tội nghiệp và yếu ớt
đang ngồi trước mặt ḿnh không nói được
lời nào. Nước mắt cứ không ngừng tuôn. Nói
chuyện được khoảng 15 phút tên công an lạnh
lùng đứng dậy tuyên bố hết giờ. Ba chậm
chạp đứng lên, cặp mắt nửa như ngây dại,
nửa thảng thốt, nửa tiếc nuối nh́n tôi,
bước theo tên công an ra khỏi nhà khách. Không ḱm
được, tôi vùng chạy tới, ôm choàng lấy ba
khóc như mưa. Lần đầu tiên tôi thấy mặt
gă công an như dịu lại, quay mặt ra nơi khác. Bây
giờ th́ ba cũng khóc. Không biết chúng tôi đứng bên
nhau được bao lâu cho đến khi tên CA kéo tay Ba tôi
đi. Ba lủi thủi đi không quay lại. Cái dáng đi
kḥm kḥm, nhẫn nhục đến tội nghiệp.Và
đó là lần cuối cùng tôi gặp ba. C̣n sống.
Sau chuyến đi gặp ba trở
về, biết được địa điểm, lo lắng
về t́nh trạng sức khoẻ của ba, mẹ suốt
ngày hối thúc tôi đưa mẹ đi thăm ba. Thời
đó người dân b́nh thường nếu muốn ra Bắc
phải làm đơn ra phường xin phép. Với gia
đ́nh nguỵ quân nguỵ quyền như gia đ́nh tôi,
xin giấy phép càng khó khăn hơn, thời gian chờ
đợi lâu hơn. Phường th́ bảo phải có giấy
phép thăm nuôi từ trại gửi về mới cấp.
Đợi giấy phép th́ không biết đến khi nào. Lên
gặp chú th́ chú chỉ ngược về phường. Cũng
như không. Mẹ th́ cứ sốt ruột, đi ra đi
vào. Suốt ngày mẹ như lửa đốt, bỏ
ăn bỏ làm. Các em th́ c̣n nhỏ dại, cũng chỉ
hai vợ chồng chúng tôi trăm phương ngh́n kế,
tính đủ mọi cách cũng chưa biết phải làm
thế nào.
T́nh cờ (đến lúc này th́ tôi
tin có những sự t́nh cờ do ơn trên sắp đặt),
tôi được lệnh ra Hà Nội tham gia lớp tập
huấn dành cho giáo viên môn mạch điện tử. Lấy lư do là lần trước
vợ tôi chưa đi Hà nội, tôi xin phép Hiệu trưởng
cho vợ tôi được nghỉ phép cùng đi. Do quan hệ
tốt và có lư do chính đáng, hiệu trưởng đồng
ư kư giấy phép dù bây giờ vợ tôi mới sinh con đầu
ḷng, sức khoẻ c̣n yếu lắm. Thật ra chúng tôi đă
có kế hoạch từ trước. Giấy phép đi Hà Nội
có ghi rơ tên tôi và vợ tôi NGUYEN THI CUC, cán bộ Trường
Bưu Điện Thành phố ra Hà Nội công tác. Chữ
trên giấy phép do chúng tôi điền và đưa hiệu
trưởng kư. Chữ CUC sau này được sửa
thành chử LỘC, tên của mẹ tôi. Thế là tôi và mẹ
có giấy phép ra Hà Nội công tác, dĩ nhiên chính là để
thăm cha.
Lần trước khi thăm ba, do
không biết đường đi cũng như không hy vọng
gặp được ba tôi chỉ đem một ít đồ
dùng. Kỳ này mẹ chuẩn bị chu đáo hơn. Bao
nhiêu tiền dành dụm, mẹ đem ra mua hết. Sữa
đặc, cơm khô, thịt chấy, bánh đậu xanh,
áo quần, thuốc lá (nên nhớ hồi đó mọi nhu yếu
phẩm, gạo cơm, thức ăn đồ dùng đều
được cung cấp theo chế độ tem phiếu,
có tiền cũng rất khó mua). Chúng tôi phải dùng mọi
cách, từ vay mượn đến năn nỉ xin xỏ
gom góp cũng được khoảng hai bao tải gần
60 kg.
Hai mẹ con ra Hà nội bằng xe lửa.
Sau khi xong công việc thanh thủ cuối tuần hai mẹ
con cùng người gánh hàng thuê lên tàu chợ hướng Cao
Bằng Lạng Sơn về ga Ấm Thượng. Do
đă biết trước địa điểm, lại
háo hức mong gặp ba, chuyến đi này diễn ra suông sẻ
nhanh chóng hơn lần trước. Vượt 30 km
đường bộ, cuối cùng chúng tôi cũng đến
được nhà khách K2 vào lúc nửa đêm. Mẹ chịu
đựng gian khổ và khoẻ hơn tôi tưởng
tượng rất nhiều. Nghĩ đến lúc gặp
lại ba vào ngày mai, hai mẹ con suốt đêm thao thức
không ngủ được.
Tiếp chúng tôi là một tay công an
khá lớn tuổi với khuôn mặt rất h́nh sự. Tôi
tŕnh bày lư do, giấy tờ và xin phép được gặp
ba. Gă cầm giấy tờ đi vào bên trong. Độ khoảng
15 phút, gă đi ra vẫn với khuôn mặt khó đăm
đăm. Gă nói: Rất tiếc không thể để hai
người gặp tù nhân này được. Ông nhà đang
bị kỷ luật v́ vi phạm nội quy trại. Hai
người có thể để thức ăn và đồ
dùng lại chúng tôi sẽ chuyển cho ông. Mẹ tôi bắt
đầu khóc lóc và năn nỉ. Gă một mực
cương quyết lắc đầu. Mẹ tôi càng lúc
càng khóc to hơn.
Càng bị từ chối, nỗi uất
ức càng lớn, bà càng lớn tiếng. Không có nỗi
đau nào bằng nỗi thất vọng lúc này của chúng
tôi. Khóc hết nước mắt vẫn không lay chuyển,
mẹ tôi càng la càng hét. Gă công an lúng túng không biết xử
lư như thế nào với t́nh thế phát sinh lúc này. Mẹ
tôi lúc này như một người mất trí, khuôn mặt
nhễ nhoại mồ hôi. Cặp mắt đỏ ngầu.
Những người đến thăm nuôi và cả những
cán bộ của các bàn bên cạnh đều hướng về
phía bàn chúng tôi. T́nh h́nh căng thẳng đến nỗi
đến tai cấp chỉ huy trại. Một sĩ quan
công an bước vào. Hai người thầm th́ nhỏ to
ǵ đó. Cuối cùng viên sĩ quan đến gặp chúng
tôi, dịu giọng:
- Thật ra chúng tôi rất muốn
giúp bà nhưng quả thật hiện nay ông nhà đang bị
kỷ luật bị giam ở ngoài trại cách đây rất
xa. Thôi bà về đi. Tuần sau bà quay lại. Tôi sẽ
cho bà gặp ưu tiên với thời gian gấp đôi b́nh
thường. C̣n bây giờ bà cứ để thức
ăn và đồ dùng chúng tôi hứa sẽ đưa tận
tay ông nhà, không thiếu một thứ ǵ.
Năn nỉ ỉ ôi cách mấy cùng
không lay chuyển tên cán bộ quản giáo, tôi nghĩ chắc
là hết cách. Chắc phải ở lại Hà Nội thêm một
tuần. Nh́n khuôn mặt hiền lành của viên sĩ quan
công an, tôi nghĩ gă đă rất thiệt t́nh. Tôi nói nhỏ
với mẹ, ḿnh về thôi. Tuần sau lên lại hy vọng
họ giử lời hứa cho gặp được Ba
lâu hơn.
Trong khi quay lại bàn tiếp tân
để làm thủ tục đưa thức ăn và
đồ dùng cho ba bỗng dưng tôi thấy một ánh mắt
hơi khác lạ của một tù nhân làm nhiệm vụ
đem nước chè xanh cho những người đến
thăm nuôi. Để ấm nước xuống bàn, người
này đi chầm chậm về phía cḥi vệ sinh sau khi
ngoái lại nh́n tôi, đôi mắt nhấp nháy kỳ lạ.
Tôi xin phép gă cán bộ công an đi vệ sinh.
Bước vội nhanh vào phía trong vừa
kịp thấy dáng kḥm kḥm của người tù nhân bước
ra. Tôi bước vào, nh́n quanh cḥi vệ sinh được
xây tạm bợ bằng lá tranh với cánh cửa nửa
kín nửa hở. Tôi ngồi xuống và nh́n quanh vách tre lá.
Tôi có linh cảm h́nh như người tù nhân muốn cho tôi
biết một điều ǵ đó. Tôi nh́n quanh, quả
đúng như linh cảm, trên góc đ̣n tre phía trái, tôi thấy
một mănh giấy nhỏ, trên đó viết nguệch ngoạc
một ḍng chữ: Ông D. bệnh nặng.
Hoảng hốt tôi vội chạy
ngược vào pḥng tiếp tân. Dù rất xúc động
nhưng tôi vẫn c̣n giữ chút b́nh tĩnh kéo mẹ ra góc
pḥng báo tin. Mẹ vững vàng và khôn ngoan hơn tôi tưởng
rất nhiều. Bà quay trở lại bàn tiếp tân và
nói:
- Xin cán bộ cho tôi ở lại
đây đợi chồng tôi về chứ bây giờ vừa đi vừa về Hà Nội cũng
mất hai ngày. Gă cán bộ nói láo trơn tru: Ông bị biệt
giam, không được phải cả tuần chúng tôi mới
đưa ông nhà ra gặp bà được.
Đến lúc này nỗi uất ức
trong ḷng mẹ tôi bùng nổ, bà khóc và la hét to hơn:
- Mấy ông nói láo, tôi biết chồng
tôi đau nặng, đồ sát nhân, sao không cho chúng tôi gặp.
Các ông có c̣n là con người không?
Đến lúc này th́ mẹ tôi không
c̣n biết sợ là ǵ nữa, tất cả những oán hận
chất chứa trong ḷng bao lâu này được dịp
thoát ra, không ai có thể ngăn được. Cả pḥng
khách của K2 bắt đầu nhốn nháo, ồn ào. Nhiều
người bu quanh mẹ tôi
lúc này đang nằm lăn lộn dưới sàn đất
cứng ngắc. Gă cán bộ chạy vào trong và đi ra cùng
với viên sĩ quan lúc năy. Gă dịu giọng nói với
chúng tôi:
- Xin bà b́nh tĩnh, mời bà và anh vào
trong, chúng tôi sẽ giải quyết.
Nói xong gă ra lệnh cho hai công an d́u mẹ
tôi vào căn pḥng phiá trong. Có lẽ không muốn những
người thăm nuôi khác biết chuyện. Căn pḥng sạch
sẽ hơn pḥng bên ngoài nhiều. Viên sĩ quan công an nói:
- Bây giờ
tôi xin nói thật về t́nh trạng của ông nhà. Thật
ra ông đang bệnh và chúng tôi đang tích cực chữa chạy
cho ông. Nay bà đă biết, tôi sẽ thu xếp cho bà vào gặp
ông. Ông nhà đang nằm ở bệnh xá, tôi sẽ cho
người dẫn ông bà đi. Xin ông bà đợi một
lát.
Nói xong gă bước ra, nói nhỏ ǵ
đó với tay công an trực. Tay công an bước đi
thật nhanh. Khoảng 40 hay 50 phút ǵ đó gă trở về,
bước đi gấp gáp, hấp tấp. Lại th́ thầm
to nhỏ với viên chỉ huy.
Linh cảm không hay đến với
tôi. Lần này viên sĩ quan trầm giọng:
- Thưa bà, chúng tôi vừa mới nhận
được tin, mặc dù chúng tôi đă tận t́nh chữa
trị ,nhưng v́ sức yếu , ông nhà vừa mất cách
đây 5 phút. Chúng tôi xin chia buồn với bà. Chúng tôi sẽ
lo chôn cất ông nhà đàng hoàng tử tế.
Nghe tin dữ, mẹ tôi như
điên cuồng. Bà nằm lăn ra đất. Vừa khóc
vừa la. Không từ nào mà bà không đem ra. Không nhân vật
nào bà không đem ra chửi. Vừa chửi vừa khóc, khóc
đến khan cả giọng. Mồ hôi quyện với
đất đỏ dính đầy áo quần, mặt mũi.
Hết khóc rồi bắt đầu cười ngây dại.
Tôi ôm mẹ không nói được nên lời. Nỗi
đau quá lớn làm thần kinh tôi như tê liệt. Ôm mẹ
với trái tim nhói đau như kim châm và mẹ ngất
đi.
Chúng tôi được dẫn đi
gặp ba lần cuối. Nơi ba nằm là một căn
nhà nhỏ đơn sơ gọi là bệnh xá nằm sâu
trong K2 cách nhà khách khoảng 30 phút đi bộ. Ba nằm
trên một giường tre, thân h́nh gầy guộc, khuôn mặt
ốm nhom như bộ xương khô. Hàm râu lổm chổm
có lẽ được cắt ngắn một cách vội
vàng không dài thọng như lần đầu tôi gặp. H́nh
như đă hết nước mắt, mẹ không khóc yên lặng
ngồi xuống đất vói tay ôm lấy ba. Tôi ngồi
xuống phiá bên kia. Hai mẹ con ôm chầm lấy ba.
Vẫn c̣n hơi ấm của một
cơ thể vừa mới qua đời. Mẹ vuốt mắt
ba. Mắt trừng trừng nh́n ba. H́nh như tôi thấy
trong mắt mẹ màu đỏ của máu. Sẽ không bao giờ
tôi quên được cái h́nh ảnh của ba mẹ tôi
trong bệnh xá trại K2 Tân Lập hôm đó. Mẹ không
khóc nhưng lại ngất thêm một lần nữa khi tôi
kéo mẹ đứng lên.
Sau này qua một người bạn
tù của ba, lúc mẹ con tôi đến thăm trại,
đang hấp hối nhưng ba tôi biết. Lúc đó ba rất
yếu. Ba nói ba sẽ cố gắng sống để
găp mẹ một lần và ba cố gắng húp
được một muỗng cháo trắng. Muỗng cháo
trắng cuối cùng trước khi ra đi măi măi. Giá mà tay
cán bộ có một chút t́nh người th́ có lẽ mẹ cũng được gặp ba một
lần sau chót. Chỉ cần một lần mà thôi, của
một cuộc t́nh ba mươi mấy năm. Tôi biết
ba đă không đành ḷng ra đi. Đành ḷng sao được
hả ba, khi vượt hàng ngàn cây số từ nam ra bắc,
chỉ c̣n cách một bước chân thôi mà mẹ không thể
nói với ba những lời yêu thương sau chót, để
được nghe một lời trăn trối sau cùng. Tức
tưởi và uất hận lắm ba. Mà thôi ba ơi. Cứ
yên ḷng ra đi rồi có ngày mẹ ba và chúng con sẽ lại
gặp nhau một nơi nào đó, trên thiên đàng. Chúng ta sẽ
lại có những ngày tháng hạnh phúc bên nhau như thuở
nào.
Để xoa dịu mẹ con chúng
tôi, lần đầu tiên K2 có tổ chức một đám
ma tù nhân tương đối đàng hoàng. Có rất nhiều
tù nhân chết ở đây. Toàn bộ được bó vào
các manh chiếu mây tre rách rưới và được vùi
sơ sài trong các khuôn đất trống bên trong trại. Ba
có lẽ là người đầu tiên đưọc
ưu tiên có ḥm làm bằng gỗ ván thông mỏng dính. Chôn
theo với ba là mấy bộ đồ rách bươm. Cũng
có 4 người tù khiêng quan tài. Phía trước và phía sau có
4 công an đi cùng. Cũng có ly hương là cái chén ăn
cơm cũ kỹ. Tôi cầm bài vị là một bức ảnh
căn cước nhỏ xíu của ba c̣n sót lại trong trại.
Mẹ đi sau quan tài. Đoàn đưa tang gồm 10
người lặng lẽ đi về phía 1 đồi trọc
xa xa, phiá ngoài hàng rào trại K2. Trên đường đi,
tôi để ư thấy có những g̣ đất với rất
nhiều ngôi mộ vô danh. Nơi chôn ba là một ngọn
đồi, chỉ có một cây đa thật to. Những
người tù đào vội 1 lớp đất không sâu lắm,
ḥm được đặt xuống và lấp lại. Thế
là xong. Ba tôi, một sĩ quan cảnh sát miền nam thua cuộc,
cuối đời nằm ở đây, một vùng đất
gần tận cùng biên giới Việt Trung. Một ḿnh, lạnh
lẽo. Mẹ không c̣n nước mắt để khóc. Suốt
buổi nh́n trừng trừng. Một khuôn mặt tưởng
như vô hồn, nhưng tràn đầy oán hận. Một
nỗi hận đến vô cùng. Tôi cắn chặt môi đến
tươm máu. Thôi ba ơi, hăy yên nghỉ tạm nơi
đây, con sẽ quay trở lại một ngày không xa.
Trước khi trở về, tôi cẩn
thận ghi dấu vị trí ngôi mộ với một chữ
thập ghép bằng hai nhánh tre
và khắc tên ba trên gốc cây to trước mộ.
Tin chồng bà bún ḅ Huế chết
trong trại học tập cải tạo lan truyền một
cách nhanh chóng khu Hồ Tắm Chi Lăng và cả khu chợ
Cây Quéo Phú Nhuận. Có thể có những người chết
trước ba nhưng có lẽ ở khu phố Lam Sơn
Phú Nhuận ba tôi là sĩ quan đầu tiên chết trong trại
cải tạo được gia đ́nh chôn cất đàng
hoàng. Từ lúc trở về mẹ tôi ngày nào cũng đi
khắp xóm. Gặp ai cũng khóc cũng kể về cái chết
của ba, về nỗi uất ức của một
người đàn bà đi cả ngàn cây số để
cuối cùng không gặp mặt chồng trước khi ĺa
đời. Xa ngàn dặm và chỉ gần một bước
chân mà vợ chồng không thể gặp nhau lần cuối.
Đớn đau và tàn nhẫn quá. Mẹ khóc, mẹ kể
với sự đồng cảm của bạn bè, của
thân nhân và của cả những người không quen biết.
Công an phường và cảnh sát khu vực nhiều lần
gặp mẹ, an ủi xoa dịu và cả đe dọa
nhưng mẹ không từ bỏ.
Con người khi đă mất
đi phần đời yêu quư nhất của ḿnh th́ c̣n nỗi
sợ nào hơn. Tôi th́ rất lo dù sao tôi vẫn đang làm
việc. Các em đang c̣n nhỏ dại. Nếu bị trả
thù hay mẹ bị bắt v́ tội phản động th́
gia đ́nh sẽ ra sao? Nhưng khuyên cách mấy cũng không
làm mẹ thay đổi. Tính mẹ tôi thuở nào cũng
như vậy. Khi bà muốn làm điều ǵ th́ làm cho bằng
được. Đă nhiều lần bị đưa ra
kiểm điểm trong các buổi họp tổ dân phố
nhưng mẹ vẫn như cũ. Gặp ai cũng kể
gặp ai cũng khóc cho đến ngày chúng tôi nhận
đuợc giấy triệu tập lên phường.
Lo sợ có chuyện không lành xảy
ra cho gia đ́nh, tôi báo tin và xin chú cùng chúng tôi lên Phường.
Không biết có phải v́ muốn xoa dịu chúng tôi hay không,
hôm đó Phường mời chúng tôi lên chỉ để
đọc quyết định trả quyền công dân cho
ba. Công an phường sau khi thuyết giảng tràng giang
đại hải về ḷng khoan dung của đảng và
nhà nước đă trao cho mẹ giấy trả quyền
công dân v́ thành tích học tập tốt của ba trong thời
gian trong trại cải tạo. Sau này tôi mới biết qua
người bạn tù của ba, ba là người thường
xuyên bị kỷ luật và biệt giam. Thường xuyên
không tuân thủ nội quy trại. Trả quyền công dân
cho một người đă chết, thật quá tức
cười và quá nỗi đắng cay.
Cuối cùng với những vất
vả lo toan cho cuộc sống, qua thời gian, mẹ và
chúng tôi cũng phải làm quen những ngày tháng không có ba. Các
em vẫn hằng ngày cắp sách đến trường. Vợ
chồng chúng tôi đă có đứa con đầu tiên. Đứa
cháu ra đời chưa bao giờ thấy được
ông nội bằng xương bằng thịt. Mỗi khi
nh́n con tôi lại nhớ đến ba. Cháu bao nhiêu tuổi,
bấy nhiêu năm ba rời xa chúng tôi. Cho đến bây giờ
sau bao nhiêu năm tháng tôi vẫn không quên khuôn mặt ốm
nhom ốm nhách của ba trong trại K2 năm nào.
Những năm sau đó, dù vất vả,
cuộc sống khó khăn, chúng tôi cùng mẹ cũng kiên cuờng
sống tiếp nuôi các em ăn học. Có những ngày
ăn bo bo thay cơm. Có những ngày liên tiếp không có gạo
chỉ có bột ḿ.( thời đó tại sài g̣n chúng tôi phải
làm quen với chế độ tem phiếu như ngoài bắc).
Tùy theo lúc, có khi được cấp gạo, có khi nhận
toàn bột ḿ, có khi cả tuần nhận toàn bo bo. Số
luợng nhận tùy theo nhân khẩu của mỗi hộ
gia đ́nh). Mẹ xoay xở chế biến thành đủ
thứ món ăn bằng bột ḿ cho đỡ ngán. Dù sao
th́ cũng không thể gian khổ bằng ba trong những
ngày trong tù miền bắc. Tôi tự an ủi như vậy
để sống. Mẹ bề ngoài rất can trường
nhưng trong ḷng lúc nào cũng canh cánh nỗi lo về ba. Mẹ
ray rứt nghĩ về nơi lạnh lẽo ba nằm, về
nắm mộ hoang phế nơi tận cùng biên giới. Mẹ
thường nói không biết ba mày nằm ngoài đó như
thế nào. Đêm nào mẹ cũng khóc một ḿnh. Càng ngày
càng héo hon. Mẹ lúc nào cũng ao ước đem
được ba về. Hết than ngắn lại thở
dài.
Ba chết chưa đầy 3
năm, quá sốt ruột, thương mẹ và
thương ba nằm lạnh lẽo hiu quạnh, tôi xin nghĩ
phép cùng mẹ ra Hà Nội một lần nữa. Lần này
với ư định đem ba về chôn cất tại Huế
bên cạnh ông bà ngoại. Nhờ người giới thiệu,
tại Hà Nội chúng thuê được 1 người
chuyên về đào mộ cùng đi. Từ sáng sớm 3
người chúng tôi lên ga Hàng Cỏ và đến tối th́
chúng tôi đến trại K2. Sáng hôm sau chúng tôi gặp cán bộ
trại xin đào lấy xác ba đem về chôn tại quê
nhà và bị từ chối. Lư do phải có giấy cho phép của
cấp trên. Thời gian chờ đợi ít nhất cũng
phài trên 3 tháng. Không c̣n cách nào khác, không lẽ về tay không,
chúng tôi quyết định đào trộm.
Đến lúc này mỗi khi nhớ lại
tối hôm đó tôi vẫn c̣n rùng ḿnh. Tôi vẫn không hiểu
tại sao ḿnh lại quyết định liều lĩnh
như vậy. Đào mộ chui, chết hoặc ở tù
như chơi. Có lẽ phần v́ c̣n trẻ liều lĩnh,
phần thương ba và một phần do sự khuyến
khích của tay đào mộ thuê. Cũng may là ngôi mộ của
ba nằm ngoài ṿng đai trại, nếu không ai biết
trước việc ǵ sẽ xảy ra cho chúng tôi.
Đêm đó đợi lúc trời
chạng vạng tối, trời mưa lất phất, 3
người chúng tôi đi đến khu mộ ba. Tôi vẫn
nhớ rất rơ đường đi. Vẫn không thay
đổi ǵ nhiều, chỉ khác là cỏ mọc um tùm
hơn. Cây thánh giá trước mộ vẫn c̣n đó, xiêu vẹo.
Dấu khắc trên cây vẫn c̣n dù có mờ đi. Và cũng
chỉ một ḿnh ngôi mộ của ba nằm ở đó,
lạnh lẽo, hiu quạnh. Chung quanh không có ngôi mộ nào
khác. Có lẽ chỉ một ḿnh ba tôi là có thân nhân đến
tiễn đưa khi chết.
Chúng tôi bắt đầu công việc
bốc mộ trong cái ánh đèn cầy leo lét. Người
đào mộ làm việc chuyên nghiệp và nhanh chóng chạm
đến nắp ḥm. Nén xúc động, tôi mở nắp
quan tài. Ba nằm đó bộ xương c̣n nguyên vẹn với
da thịt và tóc chưa phân hủy hết. Chúng tôi đem bộ
xương ba lên theo thứ tự đầu, chân, tay, bên
phải bên trái. Mẹ nức nở vừa khóc vừa rửa
xương ba bằng nước cánh hồi, sau đó bỏ
vào hai bao lác mang theo. Một bao tôi xách gồm phần đầu
và phần tay chân bên trái. Bao lác của mẹ gồm
xương sống và phần tay chân bên phải. Người
đào mộ dặn phải làm như thế để khi
về đem chôn trở lại với h́nh hài c̣n nguyên vẹn.
Chúng tôi lặng lẽ vượt
30km lên đường trở ra ga Ấm Thượng trong
đêm. Về đến ga Hàng Cỏ Hà Nội th́ cũng
đă xế chiều hôm sau. Mệt lả người v́
thiếu ăn và thiếu ngủ nhưng chúng tôi rất vui
v́ đă đem ba về an toàn. Bây giờ tôi mới cảm
thấy đói. Hai mẹ con ngồi tựa cột đèn
trước ga, mỗi người ôm chặt một bị
lác chứa xương người. Chúng tôi ăn những ổ
bánh ḿ dai nhách, uống những ly chè xanh đắng chát,
nhưng thật ngon lành .
Đang nằm thiu thiu ngủ bỗng
dưng tôi thấy tay ḿnh nhẹ tưng, bừng tỉnh cũng
là lúc tôi thấy một bóng người phóng qua ḿnh tôi về
phía trái. Ôi cái bị lác của tôi. Tôi phóng người
đuổi theo, vừa chạy vừa la: xương
người, xương người. Đứa bé ăn
trộm bị tôi đuổi kịp quăng bị lác xuống
đất chạy vào bóng đêm mất dạng. Tôi lượm
bị lác lên và ôm chặt vào ḷng. Đêm đó hai mẹ con
ngồi tựa cột đèn, thức trắng. Lại một
đêm thật dài, dài vô tận.
Trời mới tờ mờ sáng,
chúng tôi đáp chuyến tàu đầu tiên xuôi nam và đến
ga Huế vào nửa đêm. Nhà ông bà ngoại tôi nằm
dưới chân núi Ngự B́nh, cách lăng Thành Thái không bao
xa. Ngôi nhà cổ với sân vườn sau là các ngôi mộ của
gia tộc bên ngoại. Về nhà nửa đêm nhưng
đă có rất đông họ hàng, các em cùng vợ con tôi về
Huế từ ngày hôm trước. Và có cả ông Cặn hàng
xóm, người chuyên môn lo về đám ma với ḥm
rương nhang đèn đầy đủ.
Đám ma của ba tôi được
tổ chức đơn giản nhưng với đầy
đủ thủ tục lễ nghĩa như với một
người vừa mới qua đời. Xương của
ba được sắp xếp lại theo thứ tự
tay chân trái phải và đưọc đặt vào quan tài
cùng với các đồ dùng c̣n sót lại của ba. Bà con
hàng xóm láng giềng khu vực An Lăng có mặt thật
đông. Hôm đó mẹ đă khóc ngất đi nhiều lần
dù ba qua đời gần 3 năm. Dù sao mẹ cũng
đă măn nguyện thực hiện được ước
muốn từ bao năm qua: đưa được ba về,
nằm ấm cúng trong mảnh vuờn nhỏ gia tộc bên
cạnh ôn mệ. Hôm đó tôi đă khấn trước mộ
ba: Ba ơi, hăy yên nghỉ, chúng con thương ba vô cùng. Ba
có linh thiêng xin phù hộ cho mẹ và các em được
b́nh an.
Tôi tin là có một thế giới,
nơi ba đang sống, thật gần với chúng tôi,
luôn theo dơi phù hộ chúng tôi. Độ 3 tháng sau ngày đem
ba về Huế, gia đ́nh tôi bỗng nhận được
tin về đứa em gái kế. Người duy nhất
trong các anh em tôi ra đi tại bến bạch Đằng
6 năm về trước. Chúng tôi nhận được
thư của em gái kèm tờ giấy bạc 50 dollars. Không
thể nào kể hết được nỗi xúc động
và sung sướng của gia đ́nh chúng tôi lúc đó. Đă
sáu năm trôi qua, tưởng chừng như đă mất
em vĩnh viễn. Hạnh phúc lớn nhất kể từ
ngày ba mất đi.
Ngoài niềm vui về đứa em
gái, số tiền 50 dollar đối với gia đ́nh tôi hồi
đó là một tài sản đáng kể. Kể từ ngày
liên lạc được với gia đ́nh, thỉnh thoảng,
em tôi gửi về lúc th́ tiền lúc th́ xà pḥng, kẹo bánh,
đồ dùng điện tử. Quà nhận được,
hầu như tất cả đều được
đem bán thành tiền để chi dùng trong gia đ́nh. Họa
hoằn lắm th́ chúng tôi mới giữ lại một vài
gói kẹo M. M. Chia cho các em th́ mỗi đứa cũng
được độ 5-10 viên nhỏ xíu. Hồi đó
cái ǵ từ Mỹ cũng quư vô cùng.
Dù không tin có thế giới bên kia,
nhưng tôi vẫn luôn tin rằng có ba luôn ở quanh quẩn
đâu đây, cùng với gia đ́nh và luôn phù hộ cho mẹ
con chúng tôi. Cuộc sống gia đ́nh chúng tôi từ cuối
năm 1981 trở đi bớt cơ cực hơn. Tôi ngoài
giờ đi dạy học ở trường Bưu
Điện, c̣n đi dạy luyện thi vào đại học
tại nhà học sinh trong xóm. Vợ tôi nhờ quan hệ tốt
với các cán bộ trong trường, khi th́ mua thêm
được gạo, khi th́ mua thêm được thịt,
các bữa ăn trong gia đ́nh cũng được khá
hơn lên.
Các em, kể từ ngày ba được
trả quyền công dân, sự phân biệt đối xử
tuy vẫn c̣n nhưng không quá nhiều như ngày đầu
sau 75. Mẹ tôi mở gánh bán bún ḅ tại nhà. Gia đ́nh
không dư giả giàu có ǵ nhưng cũng sống được
qua ngày một cách hiền lành, lương thiện. Sau ngày
ba mất, chú tôi thi thoảng có ghé thăm nhưng tôi vẫn
cảm thấy một nỗi ngượng ngùng nào đó
trong quan hệ của chú cháu chúng tôi. Mỗi lần nh́n h́nh
ba trên bàn thờ tôi lại nhớ đến khuôn mặt gầy
g̣, râu tóc bạc phơ ngày nào trong trại K2 Vĩnh Phú.
Đôi mắt trừng trừng tức tưởi của
ba cứ ám ảnh trong tôi hằng đêm. C̣n lâu tôi mới
có thể tha thứ cho chú được. Giá mà ngày đó
chú thu xếp để mẹ tôi ra thăm ba sớm hơn
th́ có lẽ ba sẽ không ra đi như thế. Nghĩ
như vậy nhưng tôi biết, dù có thương ba bao
nhiêu, chú cũng không thể làm ǵ khác được.
Trong những đứa em của
tôi, đứa thứ ba là đứa ít nói nhưng ghét chú
và căm thù chế độ CS nhiều nhất. Thái độ
bất măn trong học hành và trong sinh hoạt hàng ngày nhất
là với các cán bộ miền bắc khiến tôi vô cùng lo lắng,
bất an. Em thường có những lời nói và biểu
hiện mà các cán bộ cho là phản động. Có khuyên mấy
cũng không được. Lo sợ em gặp sự không
may, tôi bàn với mẹ đưa em ra Đà Nẵng sống
với gia đ́nh người chị con bà d́ ruột. Và từ
Đà Nẵng em là người đầu tiên trong gia
đ́nh tôi vượt biên trái phép sang Mỹ sau 1975.
Năm 1982, chúng tôi nhận giấy tờ
bảo lănh đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia
đ́nh ODP. Chúng tôi nộp đơn xin đi Mỹ và ngay
năm đó cả hai vợ chồng cùng nhận giấy tờ
cho thôi việc. Lư do: anh chị đă nộp đơn
đi nước ngoài, không c̣n đủ tư cách làm việc
tại cơ quan Bưu Điện được nữa.
Đây là điều chúng tôi đă lường trước
nhưng không ngờ đến quá nhanh như vậy. Vào những
năm 81-82, gia đ́nh có thân nhân ở nước ngoài
được xem là phản quốc. Nhất là với những
người có tư tưởng ra sống ở nước
ngoài như chúng tôi. Chấp nhận bị đuổi việc
một cách b́nh thản, vợ chồng chúng tôi bắt đầu
khoảng thời gian lăn lóc với đủ thứ
ngành nghề để kiếm sống và tồn tại.
Thời đó nhờ những lần
đi chầu chực lănh quà từ nước ngoài tại
phi trường Tân Sơn Nhất rồi đem bán tại
chợ đồ ngoại cuối đường Nguyễn
Thông, tôi làm quen với nhiều bạn hàng và cả những
người đi lănh quà như tôi. Mới đầu bán
đồ của ḿnh, sau đó mua lại của những
người khác, tôi bắt đầu gia nhập hàng ngũ
những người mua đi bán lại. Có mặt từ
sáng sớm tại phi trường, theo chân những người
lănh hàng về tận nhà, mua rồi đem ra chợ bán kiếm
chênh lệch. Hàng hoá từ kẹo, bánh đến nước
hoa, đồ điện tử. Thượng vàng hạ
cám, bất kỳ thứ ǵ miễn là của Mỹ là mua,
là bán. Làm cái công việc không dính dáng ǵ đến cái bằng
cấp tốt nghiệp của ḿnh. Chỉ cần cái miệng
thật dẻo, thật trơn tru. Một đôi khi nhớ
lại những ngày tháng trước năm 1975, thấy
ḿnh thật nhiều thay đổi. Cái hiền lành chơn
chất thuở nào như không c̣n nữa. Thật buồn,
thật tiếc nuối.
Cũng may, tôi vẫn c̣n duy tŕ lớp
dạy sửa chữa Radio TV tại nhà vào buổi tối.
Đó là thời khắc vui nhất trong ngày của tôi. Ít nhất
là lúc đó tôi c̣n thấy ḿnh c̣n có ích, c̣n giống đứa
con của ba mẹ thuở nào. Lớp ít học sinh
nhưng tôi đă giảng dạy một cách say sưa. Và cuốn
sách sửa TV của tôi ra đời trong thời gian này.
Để in và xuất bản được cũng là một
quá tŕnh nhiêu khê nhưng cuối cùng Hội trí thức yêu
nước cũng giúp tôi thực hiện được
mơ ước nhỏ nhoi này.
Trong những năm giữa thập
niên 80, ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện
hàng điện tử second hand. Đây là những mặt
hàng điện tử như tivi, tủ lạnh, radio
cassette hư cũ đă qua xử dụng được
các thủy thủ tàu viễn dương đem về bán lại.
Các tàu chở hàng đậu ngoài cảng xa. Mỗi khi có
hàng về, chúng tôi đi từng nhóm dùng thuyền nhỏ cặp
ra tàu lớn mua lúc từ 5 đến10 cái. Dĩ nhiên
đây là buôn bán trái pháp luật nhà nước. Bị bắt
th́ hàng bị tịch thu, phạt tiền và ở tù.
Nhưng nếu thoát được th́ kiếm tiền nhiều.
Đem về sửa lại rồi đem ra chợ bán.Thời
đó có ăn nhất là chuyển hệ TV để xem
h́nh có màu trên TV. Dĩ nhiên không đẹp và rơ như bây giờ
nhưng thời đó là cái mốt của các cán bộ miền
bắc có tiền. Chợ trời điện tử Huỳnh
Thúc Kháng h́nh thành và lớn mạnh trong khoảng thời
gian đó. Sau đó là một loạt các chợ trời Bảy
Hiền, Lăng Cha Cả, Chợ Lớn được
thành h́nh giúp những người có một chút tay nghề về
điện tử như tôi sống sót và tồn tại.
Nhưng cũng chỉ một thời
gian. Lúc đầu, buôn bán rất khá, lợi nhuận cao,
sau đó càng ngày càng khó khăn khi mà có nhiều tay trùm có quá
nhiều tiền nhảy vào. Họ không mua từng 5-10 cái
như chúng tôi mà họ mua nguyên cả tàu khi vừa cập
cảng. Những tay trùm cán bộ có thế lực và có rất
nhiều tiền. Họ có quan hệ và quyền lực mà
những người ít tiền như chúng tôi không cạnh
tranh nổi. Phải là con ông cháu cha. Phải đợi chia
lại hàng từ những trùm lớn hơn. Đôi khi phải
qua trung gian 2, 3 cấp. Chất lượng hàng cũng kém
đi rất nhiều.
Bỏ nghề điện tử, nhảy
qua buôn trầm từ Đà Nẵng về Saigon. Nói là buôn trầm
cho oai chứ ḿnh làm ǵ có tiền nhiều như thế.
Thường chỉ ra Đà Nẵng nhận trầm từ
người quen, đem vào Sài g̣n giao cho mối, ăn tiền
chênh lệch. Đi được chục chuyến có lời
dù cũng rất vất vả. Lúc th́ lăn lóc trên xe đ̣
khi th́ la lết trên tàu chợ nam bắc. Tôi càng ngày càng ốm
nhom ốm nhách. Mặt mũi đen thui. Chỉ lạ một
điều là thời đó dù đi nhiều, tôi lại rất
ít gặp người quen, bạn
bè. Nếu có gặp, bạn bè chắc cũng không nhận
ra chàng kỹ sư hiền lành chơn chất trắng trẻo
thư sinh thuở nào.
Đi thoát được khoảng
chục lần, đến lần thứ 11 th́ tôi bị quản
lư thị trường bắt. Trầm bị tịch thu,
riêng tôi bị giam tại công an Quảng Ngăi. 2 ngày trong trại
tạm giam tôi đă suy nghĩ thật nhiều về những
ngày tháng đă qua trong cuộc đời. H́nh như tôi
đă thay đổi quá nhiều, không c̣n là tôi của
năm xưa. Cái được th́ quá ít, cái mất đi
th́ quá nhiều. Tôi cay đắng nhận ra rằng nếu
tôi không dừng lại, tôi cũng sẽ mất tôi vĩnh
viễn trong một thế giới không thuộc về tôi.
Một thế giới bụi bặm, luờng gạt và xảo
trá khác xa với thế giới ngày tôi sinh ra, lớn lên. Tôi
biết, ba ở một nơi nào đó đă rất buồn.
Bỏ nghề buôn bán, bỏ qua ư
tưởng làm giàu nhanh chóng, tôi quay lại nghề dạy
điện tử của ḿnh. Vẫn là nghề phù hợp
vói ḿnh nhất. Dù không có nhiều tiền nhưng 1+1 là 2 th́
vẫn dễ hơn là 1+1=3. Vẫn là vợ tôi bên cạnh
trong những thời khắc khó khăn với những an ủi
và chia sẻ. Nàng luôn ủng hộ tôi trong những quyết
định quan trọng và chúng tôi có đưa con thứ
nh́. Con gái. Tôi thầm nghĩ, ba đă cầm tay, dẫn dắt
tôi bắt đầu làm lại.
Năm 1988, gia đ́nh được
gọi đi phỏng vấn ở toà lănh sự Hoa Kỳ
tại Sài g̣n. Với giấy tờ đầy đủ,
hợp lệ cuộc phỏng vấn đáng lẽ
được diễn ra một cách nhanh chóng đột
nhiên bị dừng lại khi có phái đoàn cấp cao từ
Thái Lan ghé thăm, lúc đó trong pḥng, mẹ đang chuẩn
bị trả lời. Vị trưởng đoàn có vẻ
ngạc nhiên khi đọc hồ sơ của gia đ́nh,
nhất là chuyện liên quan đến ba tôi, người sĩ
quan cảnh sát chết trong trại cải tạo sau 2
năm 6 tháng học tập. Ông ta có vẻ ngạc nhiên về
tờ giấy trả quyền công dân của ba tôi. Có lẽ
là lần đầu tiên ông thấy được một
loại giấy tờ như vậy. Giấy trả quyền
công dân cho một người đă chết.
Mẹ tôi vừa khóc vừa kể
chuyện của ba. Câu chuyện về một cái chết
và một chuyến đi thăm nuôi tức tưởi
đă làm người lănh đạo đoàn thanh tra ODP cảm
động. Chỉ một thời gian ngắn mẹ và các
em tôi được giấy chấp thuận đi Mỹ
theo diện HO thay v́ theo diện đoàn tụ gia đ́nh dù
rằng ba tôi ở tù chưa đến 3 năm. Tôi biết
có sự can thiệp đặc biệt của phái đoàn
từ Thailand và tôi thầm tin có sự phù hộ của ba.
Riêng vợ chồng chúng tôi ở lại v́ lúc đó có gia
đ́nh và sổ hộ khẩu riêng.
Vài tháng sau Mẹ và các em tôi đi Mỹ.
Vợ chồng chúng tôi ở lại với 2 con nhỏ và
bà cô em ông nội không chồng. Cũng may nếu tôi cùng
đi th́ không biết bà cô sẽ ra sao. Cuộc sống sau
những năm 1990 của chúng tôi ngày càng ổn định.
Lúc này, ngành điện tử và vi tính bắt đầu
phát triển. Các công ty nước ngoài bắt đầu
thiết lập các văn pḥng đại diện và quan hệ
buôn bán tại Việt Nam. Tôi được tuyển vào làm
việc lần lượt tại các văn pḥng đại
diện của Hewlett Packard, Brother, AT&T và cuối cùng là
AMP tại Việt Nam.
Đó là khoảng thời gian tôi sống
sung sướng và sung túc nhất kể từ ngày mất
nước 1975. Thời kỳ này, tôi sống và làm việc
đúng với khả năng, với kiến thức từ
khoa điện trường đại học Phú Thọ.
Nếu không có thời kỳ mở cửa này, nếu không
có những công ty nước ngoài, có lẽ suốt đời,
tôi đứa con một sĩ quan cảnh sát chế độ
cũ, đă sống một cách tối tăm và mất hút
đâu đó trên chính quê hương đen tối của
ḿnh. Vào những năm 90, tiền lương 700 usd của
là một con số không nhỏ nếu không muốn nói là lớn.
Quan trọng hơn, đó là khoảng thời gian tôi
được tiếp xúc với thế giới bên ngoài
qua những chuyến đi học tập ngắn ngày tại
Singapore, Thailand, Malayia, Indonesia, và Philipine.
Đi học và về, tôi liên tục
tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu
các sản phẩm và công nghệ mới của HP. Brother,
AT&T và AMP tại Sài G̣n, Hà Nội, Đà Nẵng .. Tên,
h́nh ảnh tôi được đăng trên báo. Ra
đường tôi đă có quyền ngẩng cao đầu.
Ba tôi chắc chắn đă rất sung sướng, tự
hào về tôi. Một khoảng thời gian hạnh phúc và có
ích. Tôi đă t́m lại chính con người thật của
ḿnh.
Năm 1998, tôi được chấp
thuận đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đ́nh.
Bấy giờ tôi đă có 3 đứa con với cuộc sống
rất ổn định, sung túc. Những chuyến đi
nước ngoài thường xuyên. Có nhà riêng. Con đầu
đang học đại học. Mọi chuyện suông sẻ,
thuận lợi. Tôi đă suy nghĩ rất nhiều. Đi
hay ở. Một quyết định không dễ dàng.Với
tuổi gần 50 làm ǵ nơi đất khách quê người.
Đă quá già để làm lại từ đầu .. Xin hoăn
ngày đi 3 tháng rồi cũng đến lúc phải quyết
định, nếu không hồ sơ sẽ được
xếp lại. Cơ hội đi đoàn tụ sẽ
không c̣n.
Thật ra nếu chỉ nghĩ
đến riêng cho vợ chồng tôi th́ câu trả lời sẽ
rất dễ dàng, đơn giản. Tội ǵ phải ra
đi khi đang có một cuộc sống ổn định
và quá đầy đủ vào lúc đó. Trưởng văn
pḥng đại diện một công ty nước ngoài tại
Sàig̣n. Đi nước ngoài th́ năm nào cũng đi 3, 4 lần.
Tháng nào cũng 700-800 dollar bỏ túi. Công việc th́ dễ
dàng. Xếp trực tiếp th́ ở tận Singapore. Vài
tháng mới qua Việt Nam 1 hay 2 lần. Một tài xế, một
cô thư kư xinh đẹp, vài ba nhân viên dưới quyền
và một người giúp việc. Đi làm th́ có Laptop, cell
phone. Đi ăn th́ có khách hàng trả tiền. Cuối
năm th́ gia đ́nh đi du lịch nước ngoài, chi phí
có công ty lo. Khách hàng th́ rất nhiều. Tết nhứt cũng
có quà cáp, nhậu nhẹt. Phải từ bỏ tất cả
thật sự là một quyết định quá khó khăn.
Và c̣n mộ ba ở đây nữa, ai lo? Phải, có rất
nhiều lư do để ở lại, không đi.
Đă nhiều lần đừng
trước bàn thờ ba, mong ba một lới khuyên. Đi
hay ở. Quá khó.
Cuối cùng tôi chọn giải pháp
ra đi. Không phải v́ vợ chồng riêng tôi mà v́ gia
đ́nh, v́ mẹ, v́ các em, v́ tương lai các con của tôi
và v́ lời hứa với ba, "măi măi thay ba v́ cái gia
đ́nh này". Tôi biết những ngày sắp đến
tôi sẽ phải bắt đầu trở lại một
cuộc phiêu lưu mới. Sẽ không dễ dàng với một
người quá tuổi như tôi trên một đất
nước hoàn toàn lạ lẫm và quá xa xôi. Nhưng tôi sẽ
không bao giờ hối hận về quyết định của
ḿnh. Cũng c̣n một lư do thật sâu kín không ai biết ngoại
trừ vợ tôi: "Vết thương mất cha ngày nào
trong trại học tập măi măi không lành".
Mỗi lần nh́n những tay công
an, những cán bộ cộng sản, tôi lại nhớ
đến khuôn mặt gày g̣, cặp mắt đau
thương tuyệt vọng của ba lần gặp mặt
trên đường đến trại K2 mười mấy
năm về trước. Muốn quên nhưng khó thể
quên được.Muốn tha thứ nhưng không thể
nào tha thứ được. Vẫn măi măi một mối
căm thù. Vợ tôi hiểu điều đó, chấp nhận
cùng chồng đối diện một cuộc thử thách
mới trên đất khách quê người, bỏ lại
bên kia bờ đại dương một mẹ già và một
người em gái yêu quư. Tôi biết tôi đă nợ em, một
mối ân t́nh thật sâu đậm.
Những ngày cuối năm 1998, máy
bay chở gia đ́nh chúng tôi đáp xuống phi trường
Los Angeles, California Hoa Kỳ. Kết thúc quăng đời 23
năm sống dưới chế độ cộng sản
và để bắt đầu một cuộc hành tŕnh không
biết sẽ ra sao nhưng tôi tin, chắc chắn sẽ tốt
đẹp và b́nh an hơn. Và, dù ở cách xa ngàn dặm, ba vẫn
sẽ luôn theo dơi, phù hộ mẹ và 9 anh em chúng tôi. Ba
ơi, nếu có một kiếp sau, chúng con vẫn sẽ là
những đứa con ngoan của ba: Người tù học
tập cải tạo chết ở miền đất tận
cùng biên giới Việt Trung năm 1978. Hưởng
dương 54 tuổi.
LÊ XUÂN MỸ
(yen.phan sưu tầm,
pkoanh chuyển)