THÁNG TƯ
1975 - Từ Chuyến Bay Sau Cùng
(Tác giả Trương Ngọc Anh)
Tác giả
đă nhận giải bán kết Viết Về Nước
Mỹ 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc"
kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn
công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Viết về
nước Mỹ sang năm thứ 15, cô nhận thêm giải
danh dự với tự truyện về bệnh lăng tai bẩm
sinh. Bài viết mới là tự truyện về tháng Tư
1975: Nhờ được báo mộng mà gia đ́nh lên
được chuyến bay sau cùng rời phi trường
Tân Sơn Nhất. Bài đang 2 kỳ. Tiếp theo và hết.
* * *
Ngày 24
tháng 4, năm 1975, anh Ngà, bạn của chú Hiếu, lái Honda
tạt ngang nhà, dựng vội xe ngay trước cửa,
vô chào má, xong nói gấp rút với tôi:
- NA
đưa má với mấy em ra phi trường Tân Sơn
Nhứt liền lập tức, trễ rồi, đi liền
đi. Người ta rần rần trong đó chờ
đi Mỹ.
Tôi hoảng
hốt, hỏi lại:
- C̣n
anh th́ sao?
- Anh mới
vừa ở đó về đây, nhớ tới em, ghé cho em
hay tin.
- Sao
anh không đi?
- Anh
lên máy bay rồi chớ, nhưng .. trở xuống.
Anh ngập
ngừng, nh́n qua má đang ngồi kế bên:
- Cháu
chưa đi được, c̣n ba má già lắm, c̣n bầy
em, cháu là con trưởng. Cháu về nhà nói chuyện với
gia đ́nh rồi tính sau. Bác ơi, đi liền đi.
Hai má
con ngó nhau, bất ngờ, chưa suy nghĩ được
ǵ th́ anh đă chào từ giă, hấp tấp trở ra xe. vài
phút sau, anh lại quay trở vô, tay cầm mấy cuốn
sách Luật đưa cho tôi, nói nhanh:
- Em giữ
lấy.
Là lính
Không quân, đang làm việc trong phi trường Tân Sơn
Nhứt, anh dành th́ giờ học ở trường Luật,
c̣n tôi, tập tễnh năm thứ hai. Sách luật rất
mắc tiền. Anh tặng cho tôi mấy cuốn sách
đang học, ngụ ư muốn tôi đem theo như một
kỷ niệm cuối cùng, đương nhiên anh đă biết
rơ sách luật sẽ không cần thiết nữa cho cả
anh lẩn tôi, dù đi hay ở lại. Chúng tôi chia tay,
chưa kịp nắm lấy bàn tay nhau.
C̣n nhớ,
anh và tôi đi chơi với nhau duy nhất một lần.
Anh đưa tôi lên Thủ Đức ăn bánh bèo, vô cái
quán nhỏ xíu đông nghẹt, ồn ào, khách ăn toàn dân
"kaki", làm tôi đỏ mặt. Vô vườn Lái Thiêu
anh mua trái mít tố nữ vàng tươi, biểu tôi ăn
thử cho biết. Anh chở tôi ghé thăm một người
bạn Không quân có cô vợ đang mang bụng gần ngày
sanh, khi chúng tôi vô nhà, người vợ bưng nước
ra mời, rồi rút vô trong mất tiêu suốt buổi. Trên
đường về tôi hỏi sao chị không ra ngồi
nói chuyện th́ anh nói vợ do cha mẹ ở quê cưới,
không thương yêu ǵ hết. C̣n nhớ lúc đó tôi rất
bất măn, giận lây cả anh. Trên đường về
hai đứa mắc mưa, phải trú trong một túp lều
phên vách rách nát bên đường. Lúc đó, tưởng rằng
anh đă hôn tôi, nhưng rồi, trời cứ mưa và hai
đứa cứ co ro bên cạnh nhau mà chưa từng nắm
lấy bàn tay.
Cả
mấy tháng nay tôi có học hành ǵ đâu, trường Luật
lác đác sinh viên, Thầy Cô vắng mặt nhiều lớp.
Tới trường, rồi ôm sách lang thang nghe ngóng t́nh h́nh
đang mỗi ngày một xáo trộn, hàng quán gần đó
vẫn lao xao nhưng người ngồi ăn càng vắng.
Ḷng tôi băn khoăn với quyết định lớn nhất
trong đời ḿnh, bỏ nước ra đi. Mới hôm
qua tôi hẹn gặp nhỏ bạn thân bảy năm trung học
GL là M. Hạnh. Hai đứa con gái đă lang thang trong mấy
con phố Saigon, tâm trạng rối bời, nói chuyện
đi hay ở, tạt gánh bên đường ăn tô bún ốc,
hột vịt lộn, rồi ghé qua thư viện quốc
gia trên đường Lê Thánh Tôn th́ t́nh cờ gặp Điện,
một người bạn cũ. Hai đứa bạn gái
chia xẻ nhau địa chỉ người quen bên Mỹ,
để pḥng hờ, sau đó bịn rịn chia tay. Tôi
không muốn về nhà trong tâm trạng ngổn ngang nên ở
lại thư viện với Điện.
Gặp
lại Điện, bất ngờ, v́ hai đứa đă
không gặp nhau hơn hai năm rồi. Anh kể chuyện
học tṛ của anh, khoe rằng thường được
mấy cô nữ sinh yêu cầu ca trong lớp, v́ môn toán anh
đang dạy rất khô khan nên anh thường chiều ư
học tṛ, anh c̣n khoe thêm cái dây nịt mới mua, hỏi tôi
xem có đúng tác phong giáo sư. Anh vẫn như trước,
nói huyên thuyên, thỉnh thoảng cất giọng ca rất
trầm ấm, ngọt ngào. C̣n tôi, ngồi nghe anh nói, nghe
anh ca để quên đi lo lắng. Nói chán, ca hết mấy
bài hát "tủ", anh lôi giấy viết ra, vẽ
đơn sơ bản đồ VN h́nh chữ S, rồi
nói, đơn giản hiển nhiên như là hai cái đầu
chúng tôi cùng đang lo toan về một chuyện giống
nhau:
- Ngọc
Anh xem, mọi ngả đường đều đă bị
chận .. đây .. đây nè, ḿnh chỉ c̣n đường
biển để thoát.
-
Điện đi không?
- Anh
chưa biết, gia đ́nh anh không có ai ở ngoại quốc,
nếu đi, anh nghĩ sẽ đi bằng đường
biển, phó mặc tới đâu th́ tới thôi.
Giọng
anh trầm ngâm, nhuốm đầy lo nghĩ.
Chúng
tôi chia tay, không một hẹn ḥ.
Buổi
sáng Ngà đến nhà, chiều hôm đó, Lân ghé thăm tôi.
Lân là người bạn trai hàng xóm cuối cùng của tôi ở
thời điểm đó. Lân nói, sau khi nghe tôi kể chuyện
về anh Ngà:
- Có
cơ hội NA cứ đi liền đi, chị Xuân bên Mỹ
rồi. Lân có anh chị bên Pháp, nếu phải đi, chắc
là sẽ qua bển chứ không qua Mỹ.
Tôi hiểu
Lân sẽ đi, v́ gia đ́nh người công giáo không thể
sống dưới chế độ cộng sản vô thần,
đă kinh qua từ cuộc di cư năm 1954 từ Bắc
vô Nam.
Lân hấp
tấp về, ḷng tôi nặng trĩu, bạn bè trước
mắt đă xa.
Má
đang lo làm một số giấy tờ ủy quyền
nhà cửa, xe cộ cho người bà con, mua ít vàng, đổi
ít tiền đô Mỹ để pḥng thân, rồi dặn ḍ
tụi tôi mỗi đứa ráng thu xếp đồ đạc
càng gọn càng tốt, thu vào một túi nhỏ, mạnh của
đứa nào nấy lo. Ḿnh chạy giặc mà, Má nói. Kinh
nghiệm của má từ những ngày "tiêu thổ kháng
chiến" chống Pháp hồi xưa ở miền Tây, bỏ
nhà cửa chạy giặc cộng sản năm Mậu
Thân khi ba tôi bị thảm sát.
Hai
người chị lớn đă ở bên Mỹ vài năm
trước rồi, chị ba Xuân đem theo hai đứa
em gái nhỏ, nên trong nhà lúc đó có tôi là đứa lớn
nhứt, kế tiếp hai em gái và một em trai. Tự nhiên
tôi cứng cỏi hẳn lên, t́nh h́nh đă nguy cấp lắm
rồi, phải đi ngay.
Mấy
ngày trước đó Saigon thảng thốt đầy tin
đồn khi t́nh h́nh quân sự càng ngày càng xấu. Ngoài
đường ai nấy đều lộ rơ nét lo âu, giới
nghiêm tăng thêm giờ, thành phố hoang mang từ mấy
tháng rồi, kể từ khi thành phố núi Ban Mê Thuột
thất thủ, rồi tới Pleiku, những cuộc lui
binh bàng hoàng. Hàng ngàn, rồi trăm ngàn người dân di tản
chiến thuật từ miền Trung đổ xuống
đồng bằng, vô tới Phan Rang, Nha Trang dưới lằn
đạn pháo kích của cộng sản ..
Ở
Saigon, chúng tôi chỉ biết theo dơi tin tức trên TV mỗi
ngày. Tôi vẫn c̣n nhớ, một lần TV chiếu rơ h́nh ảnh
một bé gái lạc gia đ́nh khoảng từ Nha Trang
Đà Lạt, 5-6 tuổi, rất xinh xắn trong bộ áo
đầm, trông ra vẻ con nhà khá giả. Bé bơ vơ một
ḿnh đôi mắt ngơ ngác kiếm t́m thấy
thương nên phóng viên chiếu h́nh ảnh của bé hy vọng
có người họ hàng bà con nào nh́n thấy mà thu nhận.
Tôi cũng nh́n thấy những máy bay chở thức ăn
thả xuống dọc quốc lộ 1 cho dân quân đang
trên đường di tản, đói khổ, thất tán.
Khi
t́nh h́nh chính trị của miền Nam tự do bấp bênh dầu
sôi lửa bỏng, tôi đă liên tục viết thơ cho chị
tôi gởi qua Mỹ, kể rơ từng diễn biến. Những
lá thơ nầy sau 40 năm, chị tôi vẫn c̣n giữ.
1. RA ĐI
Sáng sớm
ngày 25 tháng Tư, vừa hết giới nghiêm, mấy mẹ
con chen chúc nhau trên chiếc xe xích lô máy tới ṭa đại
sứ Mỹ trên đường Thống Nhất, v́ theo
anh Ngà cho biết, nhiều chuyến xe buưt từ đó chở
dân vô phi trường Tân Sơn Nhứt để di tản
qua Mỹ. Tiễn chúng tôi có má Bảy, chế Tùng, và anh
Lang, em nuôi của má. Tôi nghiệp con chó vàng kiki của chúng
tôi quẫy đuôi lính quính chạy theo xe một đoạn
xa.
Khu vực
trước Toà Đại sứ Mỹ đă có rất
đông người đứng trên lề đường
ngong ngóng chờ xe buưt, thấy ai cũng cầm cái túi nhỏ
trên tay, nhiều người đi nguyên gia đ́nh, mặt
mũi ai nấy thắc thỏm nhớn nhác, tuy vẫn c̣n
thấy vài cô gái diện chiếc váy midi là mốt
đương thời. Saigon thời gian nầy tuy thảng
thốt v́ có nhiều tin đồn nhưng chưa quá hỗn
loạn v́ nhiều người dân c̣n lưỡng lự giữa
đi và ở.
Xe buưt
tới từng chiếc vừa tạt lề đường
th́ thiên hạ chen nhau leo lên. Chúng tôi lên được xe
buưt, nhưng gia đ́nh bị tách làm hai v́ cảnh chen lấn.
Tôi và em Loan dính sát nhau chen lên xe, nhưng má với hai đứa
em đứng ngay phía sau bị một người đàn
ông to con dang tay chận để gia đ́nh ông ta lên hết,
nên bị kẹt lại, mấy má con lạc nhau lúc nầy.
Chuyến
xe buưt hai chị em tôi lên được, khi tới cổng
phi trường Tân Sơn Nhứt bị chận lại,
nhưng rồi họ cho chạy vô trong mới thả
người xuống. Sau đó má và hai đứa em chen
được chuyến xe kế, cũng tới cổng
phi trường, nhưng lúc nầy họ không cho xe buưt chạy
vô cổng nữa mà thả người ở ngoài. Má kể
lại th́ lúc đó ba mẹ con và rất đông người
đứng lớ ngớ ngoài cổng phi trường,
hoang mang lo lắng v́ lạc hai đứa con, may có bác Cúc,
là người hàng xóm làm tài xế chuyên chở người
Mỹ vừa trờ tới, xe bác lái có quyền ra vô cổng,
đă ngừng lại chở ba má con vô trong. Bác Cúc không muốn
đi, nói c̣n nhà cửa, con cái nên không đi được.
Phần
tôi và Loan, đă vô tới trong rồi th́ lúc đó cổng
TSN bắt đầu bị chận lại. Hai chị em lo
quá, đi dài dài kiếm má th́ Loan thấy bên hông hàng rào kẻm
gai có cái lỗ trống mới nói với tôi để nó
chun ra bằng lỗ đó, trở về nhà coi má có về
nhà không, C̣n tôi sẽ ở lại tiếp tục kiếm
má với hai đứa em, hẹn nhau ở đây.
Theo lời
Loan kể lại: "Ra được phía ngoài rồi,
tui kêu đại chiếc xe ôm trở về nhà (vừa ngồi
vừa ôm ông đó mà trong ḷng run muốn chết v́ lần
đầu .. ngồi xe ôm). May mắn là tối hôm trước
má mua mớ ṿng vàng, nữ trang c̣n lại mớ tiền má
mới chia ra đứa chút đỉnh giữ trong ḿnh, rủi
có lạc nhau th́ có tiền mà ăn .. vậy mà lạc nhau
thiệt, có tiền đi xe ôm!
Về
tới nhà tui dặn ông xe ôm đợi, tui sẽ trở ra
liền. Vô nhà gặp dượng Bảy, cho dượng
hay bị lạc má rồi, bây giờ con phải làm sao? ở
nhà đợi hay trở vô TSN?. Dượng Bảy nói
"Mày trở vô trỏng liền đi, chừng nào má mày
có trở về th́ tính sau, tụi bây cứ đi đi ..
tui mới chạy trở ra TSN chui trở vô bằng lỗ
đó, chưa có nhiều người biết".
Tôi
loanh quanh chưa t́m thấy má nên quay trở lại chờ ở
đó, hai chị em gặp lại nhau.
Hai
đứa tiếp tục kiếm má, thấy người
ta rất đông, đông nghẹt, nhiều người c̣n
tắm ngờ ngờ chỗ máy nước nữa, chắc
đă vô từ mấy ngày trước rồi. Loanh quanh một
lát mới gặp lại má đang dắt díu hai đứa
em, mừng quính. Tới chiều th́ cổng phi trường
bị đóng hoàn toàn v́ người ta ngăn không cho mấy
người buôn bán đồ ăn lan tràn vô trong.
Chiều
tối, năm má con dành được một chỗ nhỏ
xíu để được mấy túi đồ ngồi dựa
nhau nhắm mắt cho đỡ mệt. Pḥng này h́nh như
là pḥng tập thể dục hay là pḥng hội ǵ đó, lớn
lắm mà người th́ đông nghẹt.
Cổng
phi trường lúc đó đă bắt đầu hỗn loạn,
chen lấn. Mấy người lính Quân Cảnh mặc quân
phục tác chiến với đầy đủ súng ống
canh gác, họ chận từng người lại trước
khi cho vô, trên trời máy bay lên xuống sinh hoạt ồn ào
suốt đêm tới sáng.
Sau khi
ngồi thở một chút cho hồn vía trở về, má với
hai đứa em nhỏ ở lại pḥng chờ, hai chị
em tôi cầm giấy tờ của cả nhà đi theo những
người khác ḍ hỏi. Sau cùng mới phong phanh tin tức
là người Mỹ lập danh sách di tản ở khu làm
việc DAO (Defense Attache Office). Tôi và em kế mang giấy tờ,
sắp hàng trước cửa. Chờ măi nhích từng chút
cho tới trên mới được biết chỗ nầy
họ chỉ lập danh sách cho những nhân viên làm việc
trong cơ quan. Vậy là hai chị em lếch thếch chạy
khác. Sắp hàng tới ba chỗ mà vẫn không được
vào danh sách di tản và không c̣n chỗ nào để sắp
hàng nữa. Thất thểu trở về chỗ má, hoàn
toàn thất vọng!
Nửa
đêm 26 tháng Tư trong phi trường, ngồi mệt mỏi
như ch́m vào giấc ngủ thiếp đi, bỗng nghe má
lay gọi: "Mau mau đi sắp hàng chuyến chót mười
giờ rưỡi".
Hai
đứa choàng dậy, chạy, tới trước cửa
cơ quan DAO th́ cửa đă đóng. Đêm khuya chung quanh vắng
tanh không có ai. Không biết làm ǵ bây giờ, hai chị em chỉ
biết ngồi ở băng nhỏ phía trước cửa,
cứ ngồi đó, hy vọng có người mở cửa
để hỏi. Chờ một lát th́ thấy cánh cửa
mở, một người Mỹ dân sự cởi trần,
bước ra ngoài có vẻ như để thở không
khí, bèn chạy tới đưa cho ông coi xấp hồ
sơ bảo lănh từ bên Mỹ của chị tôi. Ông
đọc sơ, bảo hai đứa theo vô pḥng.
Bước
vô thấy trong pḥng chói ḷa ánh sáng đèn, người ngồi
chăm chú làm việc rất đông, đa số là người
Mỹ, giống như họ làm việc 24/24. Họ xem hồ
sơ, ghi tên người chủ gia đ́nh là má tôi, và 4
đứa con đi theo là 5 người, viết tay trong miếng
giấy nhỏ có số, giờ và nơi chốn, nói sáng sớm
ngày mai qua đó sắp hàng, chờ lên máy bay chuyến 10 giờ
rưỡi. Mừng quá trời, hai đứa chạy trở
về chỗ má đang chờ, báo tin, sửa soạn đồ
đạc và kiếm chỗ sắp hàng.
Hai
đêm 25 và 26 tháng Tư, ở phi trường TSN, nghe tiếng
đạn pháo đâu đó xa xa, không khí thật ảm
đạm. Chúng tôi ngồi nh́n khói bốc lên trên bầu trời
xám, rồi mưa lớn, khói đọng mây mịt mù tối
ám giữa ban ngày, tai nghe tiếng đạn đại bác
pháo kích, nghĩ tới ngày mai không biết có ánh sáng.
Cả
nhà qua đêm không ngủ thứ hai trong TSN. Chính tôi cũng
không nhớ hai ngày đêm trong phi trường TSN tôi có
ăn uống ǵ không? Chung quanh người đông như cá
hộp, chen chúc. Khuya 26, ngồi thao thức lóng tai chờ
sáng để sắp hàng chờ gọi tên lên máy bay chuyến
10 giờ rưỡi sáng ngày 27 tháng tư, mắt ngước
nh́n bầu trời, thấy máy bay lên xuống nườm
nượp không ngừng trong tiếng đạn pháo, tiếng
người nói lao xao suốt đêm.
Sáng
ra, lúc sắp hàng để lên máy bay, cả nhà đứng
gần chót, th́ có mấy chiếc xe jeep ngừng lại cái
rẹt khẩn cấp, thấy vài quân nhân Việt nhảy
xuống, tiến về mấy người Mỹ phụ
trách đưa người lên máy bay, nói chuyện qua lại
ǵ đó .. nghe người ta thầm th́ từ đầu
hàng cho tới cuối, là phía bên VN họ nói đàn ông, con
trai phải ở lại hết, chỉ đàn bà con gái
được đi thôi.
Sau
hơn hai tiếng chờ đợi giữa trời nắng
chang chang th́ nghe tin được cho đi hết. Chúng tôi
đi hàng một theo mọi người, má là chủ gia
đ́nh đứng trước cầm miếng giấy nhỏ
viết tay ghi tên người chủ gia đ́nh, số
người đi là 5, và chuyến bay 10:30, khi tới cửa
máy bay họ coi miếng giấy, đếm số người,
rồi thúc hối lên máy bay rất lẹ. Khi tất cả
lên hết xong là máy bay cất cánh liền.
Đây
là máy bay quân sự, chỉ có hàng ghế sát vách, người
lên trước đă ngồi, cho nên chúng tôi là những
người lên sau ngồi dưới sàn. Sau nầy tôi mới
biết đó là những chuyến vận tải cơ
C-130 dành di tản dân tị nạn cộng sản lúc
đó.
Xếp
hàng lên máy bay xong, cả nhà ngồi bệt dưới sàn
phía sau bên trái, nh́n từ phía đuôi máy bay. Máy bay chạy
trên phi đạo, dọc hai bên cửa sổ trên máy bay là mấy
người lính Mỹ đi theo, ngồi ôm súng chĩa ra
ngoài. Phía bên phải khoảng giữa máy bay, th́nh ĺnh, một
người lính xạ thủ Mỹ mở cửa ngang hông
và bắn một tràng đạn đại liên ra khoảng
đất trống ở phía xa xa (không biết để
làm ǵ?). Bắn xong, họ đóng cửa lại, máy bay rời
khỏi phi đạo.
Máy bay
quân sự chở chúng tôi qua phi trường Subic, Phi Luật
Tân. Tại đây chúng tôi sắp hàng ra khỏi máy bay, vào
pḥng chích ngừa. Em tôi c̣n giữ giấy chích ngừa, ghi
ngày 27 tháng tư, 1975, của Medical Base. Ở đây chờ
khoảng hai tiếng, chúng tôi lại lên máy bay để bay
qua đảo Wake. Theo tài liệu (*) th́ thời điểm
nầy Tổng Thống Phi Luật Tân là Ferdinand Marcos từ
chối nhận người Việt tị nạn cộng
sản vào Phi.
Sau khi
qua tới đảo chúng tôi mới biết đó là ngày cuối
bốc người di tản cất cánh từ TSN, v́ sau
chuyến bay đó phi trường bị dội bom, mọi
chuyến bay đều ngừng.
Sau khi
đến đảo Wake, sáng ngày 28 tháng Tư nghe tin phi
trường Tân Sơn Nhứt đă bị dội bom chiều
tối ngày 27. Mọi chuyến bay di tản đă chấm dứt.
Saigon đă thực sự rơi vào khủng hoảng hỗn
loạn. Gia đ́nh tôi đă đi thoát trong gang tấc bằng
chuyến bay cuối cùng.
Qua tới
Mỹ rồi, má tôi mới kể lại là đêm đó má
đang nằm lim dim th́ thấy chiêm bao ba lắc lắc, gọi
"thức dậy, thức dậy, đi đi, chuyến
chót 10 giờ rưỡi". Lạ cái là má hỏi mấy
người chung quanh th́ không ai nghe tin nầy hết. Ba tôi
đă chết từ năm Mậu Thân. Má tôi tin Ba linh thiêng
theo phù hộ mấy má con lúc gặp nguy hiểm nên cho hay
tin.
Tới
đảo Wake khuya ngày 27 tháng Tư năm 1975. Trời tối
hù, đoàn chúng tôi mệt mỏi, đói nữa, cũng
đi theo hàng một, theo người đi trước,
hai bên là ánh đèn pin chiếu sáng từ những người
lính Mỹ dẫn đường. Đây là một căn cứ
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, vùng biển Thái B́nh
Dương, thuộc lănh thổ Hoa Kỳ.
Chúng
tôi được sắp xếp theo từng gia đ́nh, sống
trong những căn cứ nầy, ở trong dăy nhà kiểu
Hanga nóc tṛn của trại Thủy Quân Lục Chiến, với
toàn bộ vật dụng, giuờng đôi, gối mền
của quân đội. Ngay lúc vào trại đă được
phân phát những vật dụng vệ sinh cá nhân đầy
đủ, ngay cả vật nhỏ bé nhưng cần thiết
của riêng phụ nữ cũng không thiếu.
Mấy
ngày ở đảo Wake, ba bữa sáng, trưa, chiều,
chúng tôi xếp hàng rồng rắn để lănh khẩu phần
thức ăn, do những người lính Mỹ phân phát từng
dĩa. Thức ăn đủ loại. Thường có món
móng heo hun khói hầm đậu. Nhiều trái cây nhưng rau
cải th́ hiếm hoi. Chúng tôi thường ăn trứng
chiên vào mỗi buổi sáng. Ngồi bàn ăn tại chỗ
không được đem thức ăn về pḥng.
Lúc
ăn trong nhà ăn, tôi hay t́m chỗ gần gần nhà bếp,
để xem hoạt động của những người
bên trong. Tôi nhớ người lính đứng cạnh cái nồi
thật lớn. Anh đập vỏ trứng gà vô thành nồi,
tách đôi cái vỏ để trứng rơi vô nồi. Tôi
thấy anh đứng đó, trong bữa ăn sáng, và
trưa chỉ đập trứng cho vô nồi, trứng nhỏ
xíu mà cái nồi bự khổng lồ.
Sau bữa
ăn, việc dọn dẹp bàn ghế, lau sàn pḥng ăn,
chung quanh bên ngoài pḥng ăn đều nhờ bàn tay những
người lính TQLC, kể cả việc lượm từng
miếng rác, hay moi miếng băng vệ sinh đỏ ḷm
có người vô ư bỏ vào bồn làm nghẹt cầu.
Ở
pḥng kế chúng tôi là đôi vợ chồng già cùng đi trên
chuyến bay cuối cùng rời khỏi VN. Bà khoẻ mạnh,
dịu dàng, nhưng ông th́ ốm yếu, và mang bịnh cùi,
luôn luôn đội nón. V́ bịnh, ông bị biệt lập
không được ra khỏi pḥng, bà được phép
đem thức ăn về chỗ cho ông ăn hằng ngày
và có bác sĩ chăm sóc ngay từ khi bước chân vào trại.
Ông Bà rất hiền lành, có đứa con gái có chồng Mỹ,
bà có địa chỉ của con gái, tôi nhớ in như là ở
tiểu bang FL.
Má tôi
thương hai ông bà nầy lắm, có trao đổi địa
chỉ và chúc ông mau chữa khỏi bịnh.
Ngoài
ba bữa đi ăn, thời gian c̣n lại tôi quanh quẩn
chờ mấy chuyến xe buưt chở người mới tới
trại để đón coi có bà con bạn bè ǵ không.
Nhưng không gặp lại một ai. Có người đem
theo được cái radio nhỏ, do đó mà nhiều
người đă rơi nước mắt khi theo dơi tin tức
từ VN.
Buổi
sáng tôi hay quanh quẩn ra cầu tàu, ngóng qua đại
dương, nhớ tới những người thân, bạn
bè đă rời xa.
Ở
cầu tàu thường có vài người lính TQLC Mỹ câu
cá. Họ thường câu được những con cá to,
nhưng tôi thấy họ chỉ nhẹ nhàng gở cá ra khỏi
lưỡi câu, thả lại xuống biển. Tôi đi dọc
cầu tàu mới đọc thấy bảng cho biết cá ở
vùng nầy bị nhiễm chất phóng xạ, nên không
ăn được.
Có lần
tôi thấy chú cá được thả xuống biển, có
lẽ v́ người gỡ không khéo, nên con cá chết, nổi
ĺnh b́nh trên mặt nước, máu loang ra đỏ thắm
một ṿng tṛn, đột nhiên có rất nhiều cá trồi
lên, bơi chung quanh xác chú cá chết. Gió đưa nhẹ
nhàng xác cá trôi ra xa, cuốn theo rất nhiều cá lội
chung quanh, như tiễn đưa. Càng buồn thêm.
Ngày thứ
hai ở đảo Wake, buổi sáng tôi đi ṿng ṿng vô
định, bất chợt thấy một cô gái hơi
quen, đang ngồi giặt đồ ở chỗ có ṿi
nước chảy, có lẽ là chỗ nước dùng
tưới cây cỏ của trại lính, tới gần mới
biết đó là người quen trong cư xá, thiệt mừng,
vội sà xuống nói chuyện. Cô bé nầy khoảng tuổi
em kế tôi hay nhỏ hơn. Theo lời cô bé thuật lại
th́ cô được người bạn (trai) kéo đi theo
gia đ́nh anh ta. Cô đi mà không cho gia đ́nh hay. Khi qua tới
đây nghe người trong gia đ́nh anh ta nói chuyện mới
biết v́ người làm không chịu đi nên gia đ́nh
anh ta mới cho gọi cô bé. Cô buồn bă, nói họ bắt
em làm công chuyện như người ở, em buồn lắm
chị ơi. Cô bé vừa kể vừa khóc thút thít. Tôi nghe
chuyện mà không biết nói ǵ để an ủi cô bé, chỉ
cầu mong mọi chuyện sẽ tốt đẹp
hơn. Sau đó chúng tôi được lên danh sách vào Mỹ
mà không kịp t́m em để từ giă.
Gia
đ́nh tôi sống êm ả hai ngày trên đảo Wake th́ liên
lạc được với chị tôi ở Mỹ. Qua sớm
ngày thứ ba, sau vài thủ tục rất đơn giản,
chúng tôi được gọi lên danh sách bay qua Mỹ.
Trên
đường bay qua Mỹ từ đảo Wake, máy bay ngừng
cánh ở Hawaii. Tại đây, tất cả người tị
nạn được làm thủ tục giấy tờ
để vô nước Mỹ. Nhân viên tại phi trường
tiếp đón dân tị nạn rất lịch sự, nhă
nhặn. Điều đáng nhớ nhất con đường
vô phi trường có lối đi trải thảm đỏ,
và nhân viên người Hawaii đứng hai hàng đón chào.
Xong xuôi thủ tục hoàn toàn th́ cũng là sau 12 giờ
khuya. Lúc đó họ bắt đầu kêu tên từng gia
đ́nh gởi một người đại diện lên
bàn để họ kêu điện thoại dùm cho ḿnh để
liên lạc với người thân ở Mỹ và quốc
gia khác, nếu có. Em trai tôi là Long lên để gọi qua chị
Xuân. Liên lạc xong mừng quá trời. Chị hỏi chúng
tôi sẽ được đưa tới đâu khi vô
nước Mỹ, thực sự ḿnh không hề được
cho biết, người ta đưa ḿnh đi đâu th́
theo đó thôi.
Cũng
ở phi trường nầy, trong lúc chờ, chúng tôi
được phát cho mỗi người một hộp gà
chiên mà sau nầy mới biết đó là hiệu gà chiên
Kentucky rất nổi tiếng. Tại pḥng ngồi đợi,
có để sẵn vài thùng quần áo tặng phẩm, tôi
thấy nhiều người tới lựa, nhưng đa
số quần áo bự khổng lồ, ít người bận
vừa. Thức ăn không ăn hết, nhưng không
được đem theo lên máy bay, mà bị bắt buộc
liệng bỏ vô thùng rác trong phi trường. Nhiều
người ăn nhín nhín, để dành, tiếc hùi hụi,
trong đó có má tôi.
Khi máy
bay tới Mỹ, trời về đêm, chúng tôi tiếp tục
được những người lính dẫn đường,
lên một chiếc xe buưt lớn. Ngồi yên vị, một
người lính cầm danh sách, đếm đầu
người, cứ đếm đi đếm lại rất
nhiều lần mà lần nào cũng lắc đầu làm
nhiều người trên xe cười rộ. Nhờ chuyện
đếm đầu người đếm tới đếm
lui, anh lính rất vui vẻ, nhăn nhó, cười đùa
mà chúng tôi bớt căng thẳng.
Đường
đi quanh co, lên đồi, xuống lũng rất xa. Xa lộ
thẳng tắp lự, xe chạy vo vo không hề vấp
váp ổ gà ổ vịt như thành phố chiến tranh
chúng tôi vừa rời bỏ. Trên đường đi,
nh́n thấy ánh đèn xa xa sáng ḷa.
Khi xe
ngừng, đoàn người di tản lại lục tục
xuống, sắp hàng một, đi ḍ dẫm theo ánh đèn
pin chiếu sáng từ mấy người lính dẫn
đường đứng thành hai hàng. Sáng ra, mới biết
đó là trại Thủy Quân Lục Chiến Camp Pendleton, thuộc
tiểu bang California.
Tôi nhớ
đêm đầu tiên chúng tôi ngủ trong pḥng có giường
đôi, mền gối đều là của quân đội rất
sạch sẽ, ấm áp, cũng dạng nhà Hanga nóc tṛn. Có lẽ
nhóm chúng tôi tới rất sớm nên khu lều trại
chưa xây dựng kịp thời, sau đó mới thấy
xuất hiện lều. Thời tiết cuối tháng tư
mà tôi cảm thấy lạnh buốt, chắc v́ không quen thủy
thổ. Họ phân phát cho chúng tôi đầy đủ mền,
gối và đồ dùng cá nhân ngay lập tức khi vào trại,
rồi khuyên chúng tôi nên đi ngủ ngay sau khi ăn tối
v́ đă khuya lắm.
Qua
ngày hôm sau chúng tôi được gọi từng gia đ́nh
để làm giấy tờ tạm trú I-94.
Bầu
trời CA lúc đó rất tươi sáng, quanh khu lều trại
là băi cát và những cây bông cúc vàng ḅ sát cát loại sa mạc
rất tươi tắn. Vào ban ngày tôi mới nhận ra những
lều trại mà tối hôm qua đă tạm ngủ đêm
đầu tiên trên nước Mỹ.
Theo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"Camp
Pendleton là một căn cứ Duyên hải phía Tây chính của
Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và phục vụ
như căn cứ huấn luyện vừa bộ binh và hải
quân hàng đầu. Nó ở miền Nam California, giữa các
thành phố Oceanside và San Clemente.
Căn
cứ được thiết lập vào năm 1942 để
huấn luyện Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ phục
vụ Đệ nhị Thế chiến. Trại lính
được đặt tên của Tướng Thủy
Quân Lục Chiến Joseph Henry Pendleton, người vận
động lâu dài việc thiết lập một căn cứ
huấn luyện ở Duyên hải phía Tây cho lực lượng
TQLC. Ngày nay, căn cứ là nhà của vô số các
đơn vị Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến
hỗn hợp bao gồm Lực lượng Viễn chinh
Thủy Quân Lục Chiến số 1 và nhiều tư lệnh
huấn luyện.
Đây
cũng là trại tỵ nạn đầu tiên của
người Việt Nam trên đất Mỹ trong tháng 4
năm 1975.
Trại
Pendleton là biểu tượng như một Đảo
Ellis của người Việt Nam mới đặt chân
đến Hoa Kỳ.
Biến
cố 30 tháng tư năm 1975 có hàng chục ngàn người
thoát khỏi Sài G̣n trên những chiếc tàu và thuyền
để ra Biển Đông, họ được những
chiến hạm thuộc Đệ thất Hạm đội
Hoa Kỳ neo ngoài khơi vớt lên và chở về tập
trung tại Đảo Guam và Đảo Wake là lănh thổ của
Hoa Kỳ trong Thái B́nh Dương. Sau đó người tỵ
nạn Việt Nam được đưa về Trại
Pendleton và một hai trại khác ở miền Đông. Những
người Việt Nam sống trong những nhà lều ở
Trại Pendleton trong ṿng vài tháng để chờ các nhà thờ
bảo lănh."
Ở
trại Pendleton, chúng tôi cũng sắp hàng ngày ba bữa
ăn uống ngon lành no nê như trên đảo Wake. Khi mang
dĩa thức ăn đi theo hàng, những người
lính thật trẻ, múc thức ăn vào dĩa cho chúng tôi.
Có lần, anh lính c̣n tự tay chọn cho tôi trái táo thật
lớn, chùi vào cái khăn trắng tinh anh vắt trên vai
trước khi trao cho tôi với nụ cười mà tôi nhớ
măi. Tôi biết bây giờ anh lính ấy đă già đi,
như tôi, nhưng nụ cười của anh trong những
ngày đầu tiên tôi sống ở Mỹ, vẫn trẻ
trung tươi đẹp trong ḷng tôi.
Sáng
hôm sau chị em tôi đi tản bộ trong trại th́ nghe
tiếng người nói chuyện bằng tiếng Việt,
giọng Bắc rất rơ ràng. Ngó quanh chỉ thấy
người Mỹ, đang ngạc nhiên, bước lên chút
mới biết đó là người Mỹ nói tiếng Việt
quá chuẩn xác. Người Mỹ họ giỏi thiệt,
chỉ mới vài ngày thôi mà đă thành lập cả một
trung tâm tạm trú đầy đủ tiện nghi tối
thiểu, luôn cả người bản xứ làm thông dịch
biết nói tiếng Việt rành rẽ để mọi sự
tiếp xúc dễ dàng hơn.
*
Trong
lúc chúng tôi từ VN qua tới Mỹ, th́ ở Mỹ, chị
Hai tôi nóng ruột đă cùng anh rể bay ngược trở
về VN để t́m cách cứu gia đ́nh.
Theo lời
kể của chị Hai:
"Từ
tháng ba chế * với Xuân đă nhận được tin
tức ở bên nhà. Lúc đó hai chị em lo quá chừng. Chế
với chồng cùng t́m cách về VN đón má và mấy đứa
em. Ở New Orlean làm thủ tục và cấp passport khẩn
cấp trong ṿng 1 tiếng đồng hồ. Trong lúc chờ
đợi, chồng chế chạy đi mua vé máy bay để
đi cùng ngày đó. Hai vợ chồng tới phi trường
Hong Kong ngày 27 tháng tư, phải xuống, v́ lúc đó máy bay
về VN đă ngưng. Nghe nhiều người cũng kẹt
ở phi ttrường Hong Kong trên đường trở về
VN nói là nên t́m cách qua Nhựt v́ bên đó đă bắt đầu
có những chuyến bay về VN để cứu người.
Chế với chồng lại lên máy bay bay qua Singapore. Từ
ngày 27 không có chuyến bay nào bay vô VN v́ họ nói Tân Sơn Nhứt
bị dội bom. Ở đó mấy ngày loanh quanh t́m cách vô
VN, rồi bay lộn trở qua Hong Kong th́ liên lạc
được với chồng của Xuân, cho hay gia
đ́nh đă qua tới trại tị nạn ở
Pendleton. Mừng quá trời hai vợ chồng chế bay trở
về Mỹ".
Dù chuyến
đi của anh/ chị Hai tốn kém, không thành công, nhưng
có tin vui trong giờ tuyệt vọng là đủ lắm rồi.
*
Qua
ngày hôm sau 30 tháng tư, ở trại Pendleton, chúng tôi đă
tái ngộ với anh chị ba Xuân, tới từ Nevada, làm
thủ tục nhanh chóng rước chúng tôi rời khỏi
trại, trong niềm phấn chấn vui mừng gia đ́nh
được xum họp. Anh chị đă liên lạc
được và được chỉ dẫn tới ngay
trại Pendleton. Cũng may tiểu bang Nevada chỗ anh chị
tôi đang sống cũng không quá xa Camp Pendleton nên chúng tôi
đi bằng xe của anh chị. Đây là chiếc xe hai cửa,
chỉ có 5 chỗ ngồi nhưng đă chứa cả gia
đ́nh 11 người lớn nhỏ!
Như
vậy, chúng tôi đă đến được bến tự
do, trong thời gian năm ngày từ 25 cho tới ngày 30 tháng
tư, trải qua hai trại tạm cư, ba chuyến bay
ngược ṿng quay của trái đất. Trong thời gian
đó Saigon đă rơi vào cơn hỗn loạn mất kiểm
soát.
Mấy
má con theo anh chị rời khỏi trại tạm trú
Pendleton, CA., thẳng đường lên thành phố Reno, tiểu
bang Nevada. Xe chạy rất xa, lên đồi núi rất cao,
rừng thông xanh ngát, rồi xe đổ dốc xuống
thung lũng, dọc theo con sông Truckee mới tới Reno.
Đầu tháng 5 mà thời tiết Reno vô cùng rét mướt,
tôi thấy những mảng tuyết bám trên mái nhà nóc nhọn,
cảnh lạ và đẹp quá chừng, như trong mấy
tấm thiệp Giáng Sinh.
2 - VIỆC LÀM ĐẦU TIÊN
Qua
ngày hôm sau chị tôi đưa má tôi, tôi, cùng hai đứa
em vô hăng chị đang làm để xin việc. Chúng tôi có
việc làm vào đúng ngày 1 tháng 5 năm 1975, là gia đ́nh VN
tị nạn cộng sản đầu tiên ở thành phố
Reno, phóng viên đài truyền h́nh địa phương có
tới tận nhà để phỏng vấn.
Việc
làm đầu tiên nầy nhớ lại rùng ḿnh. Đó là
hăng may mền và tấm trải giường. Sức con gái
yếu đuối như tôi, nào giờ chỉ biết ôm
sách tới trường, nặng chưa tới 90 cân anh, nhỏ
xíu như con nít 12,13 tuổi người bản xứ,
chưa từng làm việc, mà hằng đêm vác tấm mền
nặng ch́nh chịch lên đôi vai để may. Tôi chưa
từng biết dùng máy may kỹ nghệ kiểu nầy,
cho nên thời gian đầu tập xử dụng cái máy
may thật khổ sở, chỉ nhấn nhẹ chân là máy
chạy cái rẹt hết hồn, sợ quá trời!. Có lần
tôi bị đầu kim may đâm xuyên ngón tay, phải vô nhà
thương để lấy ra nửa cây kim c̣n dính trong
ngón tay, tôi khóc như mưa.
Lúc
đó, chính phủ Hoa Kỳ không hề có những
chương tŕnh trợ giúp cho người di dân, có lẽ
họ muốn phân tán người Việt ra khắp nước
Mỹ, để cho ḿnh làm việc, ḥa đồng cùng
người bản xứ cho mau lẹ?
Chúng
tôi phải nhận làm ca ba v́ họ đang cần, nghĩa
là suốt đêm h́ hục làm việc. Cho tới sáng, trên
đường về nhà, vừa mệt mỏi, vừa
đói lạnh, lại buồn ngủ, nên thường là tấp
đâu đó, ăn sáng, rồi về nhà lăn ra ngủ,
cho tới tối thức dậy, ăn chút ǵ đó, rồi
sửa soạn đi làm, ngày tiếp ngày.
Đang
thời con gái với biết bao mộng mơ bỗng chốc
dấn thân nghiệt ngă kiếm đồng tiền để
nuôi sống, chị em chúng tôi đă ĺa xa trường học
ngay từ lúc đó, ngoại trừ ba đứa em c̣n ở
bậc tiểu học và trung học là được tiếp
tục cắp sách tới trường.
Chúng
tôi ghi danh học thêm tiếng Mỹ ở trường
trung học cộng đồng. Thời gian nầy trong bóp
lúc nào cũng nặng ch́nh chịch tiền xu, v́ chúng tôi
chưa biết đếm tiền lẻ và ngoài giờ làm
việc muốn đi mua sắm phải gọi xe taxi v́
chưa đứa nào biết lái xe.
Nhiều
đêm tôi ngồi may, cực nhọc quá tới chảy
nước mắt, ngó quanh không thấy một bờ vai
để tựa, buồn tới nỗi muốn tự vận
trên gịng sông Truckee chảy siết băng ngang thành phố.
Thương
má tôi, lúc đó c̣n quá trẻ, thương hai đứa em
không được trở lại trường học, bỏ
đi biết bao cơ hội, lại càng thương chính
ḿnh. Một thời gian sau má tôi nghỉ làm, ở nhà coi mấy
đứa cháu cho anh chị tôi đi làm.
Trong sở
làm sau vài tháng, có thêm hai người Việt Nam là vợ chồng
chú H., một cô người Thái Lan trẻ và rất đẹp,
cô người Thái kia hơi lớn tuổi hơn, tánh t́nh
vui vẻ, rồi có thêm một cô Việt Nam trẻ trẻ,
tánh rất dễ thương, qua từ năm 72, có chồng
người Mỹ. Chú H. là đại úy, h́nh như làm việc
trong toà đại sứ Thái Lan, khi biến động chú
bay về VN rước vợ và đứa con trai,
đưa qua Mỹ. Theo cô H. nói th́ chú có bà hai bên Thái Lan, cho
nên cô rất giận. Mỗi khi cô chú đi chung cô luôn ngồi
băng sau, để thằng con trai ngồi băng trước
với ba nó. Cô c̣n tâm sự có ông bác sĩ rất yêu
thương cô (cô làm nghề y tá ở Saigon) nhưng v́
đă có gia đ́nh nên cô không đáp ứng, phải biết
"ổng phản bội" th́ cô đă chọn ở lại
với "người đó" rồi. Chú H. rất ân cần
với chị em tôi, hỏi sao chị tôi không mở hăng làm
chả gị. Lúc chị tôi sanh xong trở vô làm, chú có nhắc
sao chị không nghỉ làm 2, 3 tháng cho khoẻ lại.
Những
người bạn đầu tiên trên nước Mỹ
đều rất dễ thương. Khi nói chuyện, chúng
tôi thường nhắc tới những món ăn mà lúc
đó rất khó kiếm, rất thèm. Nhưng rồi chúng
tôi cũng t́m ra được chợ Tàu nho nhỏ, có bán
vài món có thể làm được chả gị, cơm chiên v
.. v ..
Cuộc
đời nổi trôi, việc làm thay đổi mấy lần,
di chuyển nhiều tiểu bang trước khi trở lại
CA định cư, lấy chồng, sanh con, cuốn trôi
đi, thoắt cái đă 40 năm tôi chọn nơi nầy
làm quê hương, như cái chớp mắt, lẹ quá.
*
Chúng
tôi may mắn đi thoát, nhưng số đông người
miền Nam c̣n lại, quân, cán, chính VNCH, lần lượt
vô tù cải tạo. Nhiều bạn bè tôi đă chết
trong tù, số lớn vượt biên bằng ghe tàu mỏng
manh, giao số phận rủi may trên biển cả sóng gió,
hải tặc, hay vượt biên giới bằng
đường bộ qua ngả Cam Bốt, lúc khờ me
đỏ đang chiếm đóng, t́m đường sống
qua ngả chết. Họ trải qua những hoàn cảnh
nghiệt ngă hơn chúng tôi rất nhiều.
Mười
năm sau, chị tôi t́nh cờ t́m lại được
địa chỉ anh Ngà, liên lạc được biết
anh bị kẹt lại, vô tù cải tạo mấy năm
nhưng được thả, em trai anh không may, đă chết
ngay sau khi ra khỏi trại tù cải tạo v́ bịnh phổi
trong thời gian ở tù. Anh đă trao cho gia đ́nh tôi phần
số may mắn mà lẽ ra anh đă hưởng. Tôi luôn
mang ơn anh.
Năm
1975 đất Calif. không hề có Tiểu Saigon phát triển
mọi mặt như bây giờ, mà chỉ là những ruộng
dâu bát ngát. Bây giờ ruộng dâu hóa thành phố, nhà cửa
khang trang, hàng quán tấp nập. Chợ búa đầy đủ
những mặt hàng. Báo chí đầy đủ tin tức
nhanh chóng. Tết Nguyên Đán nhiều đường phố
lớn treo hai hàng cờ vàng ba sọc đỏ bay phất
phới trong nắng làm ấm ḷng người di tản.
Người Việt ở CA. c̣n có chợ hoa y như con
đường chợ hoa Nguyễn Huệ của Saigon hoa
lệ, có báo Xuân, có diễn hành múa lân đánh trống, xe hoa
tưng bừng với sự tham dự đầy đủ
các đơn vị Thủy, Lục, Không Quân VNCH, có Hội
Chợ Tết náo nhiệt. Hơn cả trong nước là
có pháo nổ đ́ đùng mừng năm mới từ Chùa
tới chợ rất vui tai.
Đầu
năm 2015, có con đường mang tên Saigon ngay trước
khu Phước Lộc Thọ tấp nập. Cả ba thành
phố khu Little Saigon, từ Westminster, Garden Grove đều
đă có thị trưởng gốc Việt. Bốn
mươi năm từ 1975 nh́n lại, đă có hơn 40
viên chức dân cử là gốc Việt. Nước Mỹ
đă thực sự trở thành quê hương của cộng
đồng gốc Việt.
Hướng
về quê cũ, cầu mong cho đồng bào sớm thoát
ách độc tài, độc đảng, dành lại quyền
sống tử tế trên quê hương tự do.
Trương Ngọc Anh
*Chế là chị, kêu theo người Việt
gốc Triều Châu.
*Theo tài liệu Vietnam Operation FREQUENT WIND:
http://www.afhso.af.mil/shared/media/document/AFD-120823-033.pdf
(Khánh Dung sưu tầm và chuyển)