CHIẾC
ÁO BÀ BA IN H̀NH CHỮ HỶ
(Đoàn
Xuân Thu)
Mới đầu nghe ba em gọi,
tôi tưởng tên em là Muỗi. Tôi ghẹo em: "Muỗi
này!Đừng chích anh, đau lắm". Em trề môi, vẻ
không bằng ḷng: "Tên em là Muội. Muội là em. Em là Muội".
À ra thế!
Ba Muội, chú Phu, người Quảng
Đông. Phu là phú, phú là giàu. Tên chú giàu nhưng chú không giàu. Chú
chỉ có chiếc xe hủ tiếu, bán điểm tâm
dưới hai tàng me đại thụ, trên vỉa hè, bên
hông rạp chớp bóng Định Tường.
Má tôi đông con, cũng nghèo, có quầy
bán cơm tấm gần bên.
Chủ nhựt được nghỉ
học, hai đứa ra phụ chạy bàn. Em giúp ba em. Tôi
giúp má tôi. Năm ấy tôi mười tám tuổi, học
Đệ nhứt, năm cuối cùng của bậc Trung học
Đệ nhị cấp. Cuối năm, tôi sẽ thi Tú tài
hai. Đậu th́ lên Đại học. Rớt th́ vào Thủ
Đức. Chiến trường đang hồi ác liệt.
Bạn tôi, rớt Tú tài một, đi Đồng Đế,
có đi mà chẳng có về. Muội, mười sáu tuổi,
học Đệ tam, trường Tàu, sắp thi bằng
Cao Trung.
Muội là cô giáo dạy tôi tiếng
Quảng Đông. Dách là một, d́ là hai, xám là ba, xập là
mười. Bài xập xám là bài mười ba lá. Muội nói
Muội không thích thanh niên đánh bài. Tôi đâu có ở không
để đi đánh bài; v́ tôi c̣n bận tơ tưởng
đến Muội của tôi suốt ngày; ngay cả năm
thi Tú tài hai, bài vở c̣n cả đống, tôi c̣n không để
mắt tới nữa là.
Muội dạy tôi tính tiền là xấu
lúi. Kỷ tố là bao nhiêu. Dách cô phảnh là một tô hủ
tiếu. Tôi hỏi: "Một dĩa cơm tấm b́, tiếng
Quảng nói làm sao?" Muội nói: "Muội không biết".
Tôi nói: "Đi hỏi ba Muội đi!". Muội không
dám. Muội sợ ba biết Muội quen với tôi, ba Muội
rầy.
Ba Muội nói: "Con trai Việt Nam
làm biếng lắm, đi chơi tối ngày, không lo buôn bán.
Không buôn bán lấy ǵ ăn. Không có ǵ ăn, làm sao lấy vợ.
Nếu lấy được vợ làm sao nuôi vợ, nuôi
con".
Tôi nói: "Muội đừng lo.
Tôi sẽ ráng học, thi đậu Tú tài hai, vào Đại
học Sư phạm, được hoăn dịch, đi bán
chữ, để có tiền nuôi Muội. Muội đi bán
hủ tiếu, để tôi có hủ tiếu, ăn trừ
cơm, trong những ngày mưa bán ế".
Muội nói: "Muội c̣n nhỏ lắm,
chưa biết yêu". Tôi nói: "Tôi sẽ chờ vài
năm nữa".
Nhưng thời cuộc biến chuyển.
Tôi không chờ được Muội mà ngược lại
Muội phải chờ tôi. Chờ tôi suốt cả một
thời con gái.
Cuối năm đó tôi đậu
Tú tài hai. Hai năm xa Mỹ Tho, đi học Đại học
Cần Thơ, tôi không c̣n dịp gặp Muội mỗi sáng
chủ nhựt, để nói chuyện tào lao bắc đế
nữa. Tôi sắp ra trường, sẽ đổi về
một quận lỵ buồn thỉu, buồn thiu nào
đó của đồng bằng sông Cửu Long; để
làm một ông giáo làng, hai mươi mốt tuổi. Tôi sẽ
trở về Mỹ Tho nhờ má tôi nói với chú Phu, ba Muội,
hỏi cưới Muội cho tôi. Bây giờ tôi đă có
đủ chữ để đi bán rồi. Tôi sẽ có tiền
nuôi Muội, để ba Muội không c̣n chê con trai Việt
Nam làm biếng nữa. Tôi sẽ không c̣n ăn cơm tấm
má nấu. Tôi sẽ ăn hủ tiếu Muội nấu, trừ
cơm, trong những ngày mưa bán ế.
Tôi không ao ước cao xa ǵ hết.
Chuyện ấy dành cho con nhà giàu, quyền thế. Tôi chỉ
ước được làm thầy giáo làng, có vợ bán hủ
tiếu. Vậy mà cũng không được!
Mùa hè năm 72: mùa hè lửa đỏ.
Các trận đánh lớn đồng loạt nổ ra ở
Quảng Trị, Kon Tum, An Lộc. Tin chiến sự chiếm
đầy mặt báo. Trang sau là cáo phó, phân ưu những
người lính tử trận. Tôi tốt nghiệp,
nhưng không được nhận nhiệm sở. Lệnh
tổng động viên đă ban hành. Tôi vào Thủ Đức.
Tôi thư về Muội bảo chờ
tôi. Tôi c̣n quá trẻ để chết. Tôi sẽ trở về!
Tôi sẽ trở về! Tôi vẫn c̣n muốn ăn hủ
tiếu Muội nấu, trừ cơm, trong những ngày
mưa bán ế. Hai năm xa Mỹ Tho, tôi đă ăn hủ
tiếu nhiều nơi, nhiều chỗ nhưng không
nơi nào, chỗ nào nấu hủ tiếu ngon bằng Muội
của tôi.
Muội hứa sẽ chờ tôi về
dẫu trời sập chăng đi nữa. Lời hứa
ấy làm ấm ḷng tôi suốt những ngày gian khổ giày
sô, áo trận.
Tôi rời trường Bộ Binh Thủ
Đức, về Thủy quân Lục chiến. Sư
đoàn là lực lượng tổng trừ bị, nên tôi
lội khắp nơi: từ Cà Mau, Chương Thiện, Bến
Tre ra tận Thừa Thiên, Quảng Trị.
Một năm lính trôi qua, khi tiểu
đoàn về Mỏ Cày, Bến Tre truy kích chủ lực miền
của địch về quấy rối th́ tôi đạp
phải ḿn. Sức nổ của trái ḿn tự tạo bằng
quả đạn pháo 105 lép, đẩy tôi văng tuốt
xuống mương, ḿnh dính đầy những miểng.
Tôi không chết, như đă hứa
với Muội. Trực thăng phầm phập tải
thương về Bịnh viện 3 Dă chiến Mỹ Tho.
Tôi nằm trên băng ca, ngoài hành lang trên lầu, chờ ngày
mai xe hồng thập tự chuyển tôi về bịnh viện
Lê Hữu Sanh của sư đoàn ở Thị Nghè. Muội
nghe tin tôi bị thương; tất tả cùng má đến
thăm. Đă hết giờ thăm thương bịnh
binh, má với Muội đứng dưới lề
đường Trương Định nh́n lên nơi tôi nằm.
Tôi tḥ cái tay, không bị dính miểng, vẫy vẫy. Má khóc.
Muội cũng khóc. Vạt áo xẩm, Muội mặc, đẫm
đầy nước mắt.
Muội sợ tôi chết, Muội
khóc. Khóc cho giấc mộng tôi muốn làm thầy giáo đi
bán chữ nuôi Muội; Muội đi bán hủ tiếu cho
tôi ăn trừ cơm những ngày mưa bán ế đă
không thành.
Tôi nằm bịnh viện cả
tháng trời. Miểng trong người lâu lâu lại ḷi ra.
Tôi nghiến răng, rút miểng ra, máu lại chảy. Tôi
được hai tuần phép để chờ ra hội
đồng giám định y khoa.
Tôi trở về Mỹ Tho gặp
má. Cởi giầy sô, áo trận, tôi mặc lại chiếc
áo học tṛ năm cũ. Tôi ra vỉa hè, dưới hai
tàng me đại thụ, bên hông rạp chớp bóng Định
Tường, chạy bàn cho má tôi. Tôi gặp lại Muội.
Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhứt đời
tôi, khi bây giờ, tôi nhớ lại.
Tôi hỏi Muội: "Đẹp
tiếng Quảng là ǵ?". Muội nói: "Hụ len. C̣n
yêu là ói". Vậy th́ "Nị hụ len; ngọ ói nị".
Muội mắc cỡ, ửng hồng đôi má.
Cả tháng trời nằm bịnh
viện, không có dịp xài, lương vẫn y nguyên. Tôi
lănh tiền ra, đưa cho má tôi một nửa. Má tôi không
cầm tiền, má khóc.
Tôi nài nỉ: "Em con đang sức
lớn, má ơi!"
Số tiền c̣n lại tôi dắt
Muội xuống tiệm Văn Minh, gần rạp hát Vĩnh
Lợi, mua vải cho Muội may áo. Tôi chọn một xấp
gấm Thượng Hải có in chữ Tàu.
Tôi hỏi: "Chữ Tàu đó nghĩa
là ǵ?"
Muội nói: "Đó là chữ hỉ.
Hỉ là vui. Vải này dành cho người ta may áo cưới".
Tôi hỏi: "Muội muốn màu
ǵ?"
"Màu đỏ hên lắm! Muội
xin Trời, Phật cho anh đi đánh giặc b́nh an, hết
giặc, về với Muội".
Tôi nói: "Thôi! Đời anh xui quá
xá rồi c̣n ǵ, muốn đi bán chữ mà cũng không
được, mới đi lính có một năm đă bị
thương rồi, hên đâu hỏng thấy".
Tôi chọn cho Muội vải áo màu
xanh đọt chuối.
Tôi bảo: "Màu xanh là màu hy vọng.
Anh hy vọng Muội sẽ chờ anh dù cho trời sập
tới nơi.: Muội nói: "Muội sẽ chờ".
Tôi may cho Muội một chiếc áo
bà ba để bắt đền cho chiếc áo xẩm
đẫm đầy nước mắt khi đến
thăm tôi bị thương nằm ở Bệnh viện
3 Dă chiến ngày nào.
Muội nói: "Muội mặc chiếc
áo bà ba giống hệt con gái Mỹ Tho".
"Ba má sanh Muội ra ở đây
th́ Muội đă là con gái Mỹ Tho rồi; mà con gái Mỹ
Tho chánh cống chưa chắc đă dám đọ với em".
Tôi nịnh Muội.
Hai tuần phép trôi nhanh, tôi ra hội
đồng giám định y khoa tái khám, bị phân loại
một, trở về tác chiến. Lại băng rừng,
vượt suối, bạc màu áo trận, mốc thích giầy
sô cho đến ngày tan hàng, sập tiệm.
Tôi chỉ là một sĩ quan cấp
thấp, nhưng lại thuộc binh chủng rằn ri nên
những người thắng trận cải tạo tôi
hơi lâu; măi năm năm sau mới thả tôi về.
Tôi trở về Mỹ Tho bèo nhèo
như một chiếc áo rách. Má tôi đă mất khi tôi c̣n ở
trong trại. Mấy đứa em giấu tôi tin buồn.
Đứng trước bàn thờ má, đốt một nén
nhang, tôi không c̣n khóc được nữa, nước mắt
tôi đă cạn lâu rồi. Miệng tôi méo xệch như mếu,
mắt chớp chớp, mặt nhăn nhúm, giựt giựt.
Má ơi!
Tôi nhớ lại nồi cơm tấm
má nấu, nồi cơm tấm nuôi tôi ăn học. Tôi nhớ
cái vỉa hè, bên hông rạp chớp bóng Định Tường,
dưới hai tàng me đại thụ mà mùa thu lá me bay bay,
rơi đầy trên tóc. Tôi nhớ những giọt nước
mắt của má tôi, khi đến thăm tôi bị
thương nằm ở Bịnh viện 3 Dă chiến
năm nào. Tôi nhớ những giọt nước mắt của
má tôi khi không chịu cầm số tiền lương tôi gởi.
Bây giờ má tôi đă mất rồi; đàn em tôi vẫn c̣n
nheo nhóc. Cả nhà đói, ăn độn bo bo mà cũng
không đủ. Ăn buổi sáng, phải chạy, lo buổi
chiều. Việc chạy gạo dồn lên cả đôi
vai khẳng khiu của em gái tôi đang tuổi thanh xuân.
Nhưng tuổi thanh xuân của em tôi c̣n đâu nữa.
Nước mất nhà tan! Chưa bao giờ tôi thấm thía
câu nói ấy cho bằng bây giờ.
Tôi không t́m gặp lại Muội nữa.
T́nh thơ dại của tôi đă tan theo vận nước.
Bây giờ tôi chỉ là một sĩ quan ngụy, đi cải
tạo về, mỗi tuần phải tŕnh diện công an phường
một lần cho tới ngày xả chế. Tôi ra khỏi một
nhà tù nhỏ, để vào một nhà tù lớn hơn! Tôi chỉ
có chữ, mà chữ bây giờ chẳng ai mua. Chế độ
này không cần chữ. Lúc tôi lên tŕnh diện, lăo phó công an
phường lẩm nhẩm đánh vần lịnh tha của
tôi mà nước miếng tràn ra cả khóe miệng. Chế
độ này cần lư lịch. Mà lư lịch tôi hạng 15,
nghĩa là hạng bét, tận cùng đáy xă hội, th́ tôi làm
được ǵ bây giờ?
Tôi không t́m gặp lại Muội
không phải v́ tôi mặc cảm. Tôi không có ǵ phải mặc
cảm cả. Tôi chỉ đi lính, đánh giặc, tôi thua,
giặc bắt tôi ở tù. Thế thôi!
Tôi không t́m gặp lại Muội chỉ
v́ tôi không muốn ḿnh trở thành gánh nặng cho Muội.
Yêu người, có ai muốn trở thành gánh nặng cho
người ḿnh yêu bao giờ đâu? Tôi cũng không muốn
trở thành gánh nặng cho em tôi. Thương em, có ai muốn
trở thành gánh nặng cho em ḿnh thương bao giờ
đâu?
Tôi đă sống sót suốt năm
năm trời dưới chín tầng địa ngục.
Tôi đă đói, đói đến mức phải ăn bất
cứ cái ǵ động đậy: cóc, nhái, ễnh
ương, bù tọt. Tôi phải sống sót để trở
về, như đă hứa, với Muội. Kẻ thù muốn
tôi quỳ xuống, van xin. Tôi không quỳ xuống, van xin. Kẻ
thù muốn tôi chết. Tôi không chết. Tôi đă trở về,
dù thân tàn ma dại.
Em gái tôi đem chiếc nhẫn
cưới của má để lại, đến vợ
tên công an khu vực cầm, để tôi có chút vốn
đi buôn lậu dầu dừa. Ngày xưa nói đến
buôn lậu là nói đến tiền tỉ, đến những
vật phẩm đắt tiền, trốn thuế, chuyển
hàng có xe quân cảnh hụ c̣i như vụ Long An. C̣n bây giờ
chỉ mười lít dầu dừa, bỏ vào cặp táp,
từ cầu Ba Lai qua phà Rạch Miễu về Mỹ Tho,
kiếm lời đủ mua lít gạo.
Đế quốc Mỹ, tàu to, súng
lớn, không đủ sức đưa nhân dân ta trở về
thời kỳ đồ đá. Nhà nước ta, đỉnh
cao trí tuệ loài người, bằng ngăn sông, cấm
chợ, rào đường, chặn ngơ dễ dàng
đưa nhân dân ta trở lại thời kỳ đồ
đá, thời kỳ hái, lượm, thời kỳ của
nền kinh tế tự cung, tự cấp; bởi buôn bán,
dù năm mười lít gạo, mười, hai chục lít
dầu dừa là không lao động, không sản xuất,
là bóc lột, là chủ nghĩa tư bản xấu xa.
Tôi cắt tóc ngắn lên, cho gọn
gàng, cho có vẻ thầy giáo. Phần th́ để né mấy
tay du kích bên Cầu Bắc Tân Thạch, quê hương Đồng
Khởi. Mấy tay du kích này có kiểu làm tiền rất
láu cá, bằng cách làm nhục khách bộ hành qua phà, dùng súng,
chận họ lại, bắt vào hớt tóc. Tóc dài là tàn
dư Mỹ Ngụy. Ngồi trước gương của
ông thợ hớt tóc đầu đường, thấy
tóc ḿnh đă điểm vài sợi bạc, dù tôi chưa
đầy ba mươi tuổi. Tôi mặc lại chiếc
áo sơ mi trắng năm học đệ nhứt, đă ố
vàng. Chiếc quần xanh được nhuộm đen. Mặc
áo bỏ vô quần, mang giày với đôi vớ rách. Tôi xách
chiếc cặp táp cũ nhưng không để đựng
sách vở. Sách vở ích ǵ cho buổi ấy. Chiếc cặp
đựng cái can nhựa mười lít dầu dừa. Tôi
nhập vai thầy giáo, dù ước mơ làm thầy giáo
làng, có vợ bán hủ tiếu để tôi ăn trừ
cơm những ngày mưa bán ế, đă chết tự lâu
rồi, từ Mỹ Tho qua Bến Tre dạy học, canh giờ
đến lớp hay tan học, ḥa vào đám học tṛ
để vượt qua trạm Cầu Bắc.
Tôi đi buôn lậu dầu dừa
được chừng sáu tháng th́ thằng bạn học
cũ thời trung học cũng ở tù về, rủ tôi
hùn tiền mua chiếc xích lô đạp. Nó chạy sáng, tôi
chạy chiều hoặc ngược lại. Thằng bạn
tôi nói, cay đắng: "Thằng Mỹ quưnh quáng bỏ
chạy, c̣n làm rớt lại cái tên Mỹ, Xô xích Le, xe xích
lô". Tôi th́ lại nói: "Mấy ông tai to, mặt lớn
của tụi ḿnh th́ hô hào tử thủ, để có thời
giờ tom góp vàng bạc, đô la rồi dông, c̣n làm rớt
lại chức dân biểu. Xô xích Le, dân biểu. Dân biểu
đâu, ḿnh chạy đó".
Một buổi chiều sau khi chở
khách ra bến xe cổng thị xă, tôi thả xe không về
chợ Ṿng Nhỏ th́ thấy một ông cắc chú đội
chiếc nón mây đan, rộng vành, như Khương Đại
Vệ trong phim kiếm hiệp tàu trước 75. Ông mặc
chiếc quần tiều lỡ, quá gối, chiếc áo thun
tay dài gần tới cùi chỏ, bỏ vô quần, gánh hai cái
cần xé không, đi lủi thủi. Tướng đi ngờ
ngợ, quen quen. Chú Phu rồi chứ chẳng ai!
"Đi xích lô hông? Chú ba!" Chú
Phu nh́n lên, ngơ ngác, ngờ ngợ một lát, rồi nhận
ra tôi. Tôi đă đổi thay nhiều quá.
"Chèn ơi! Vậy mà ngộ
tưởng nị chết rồi".
"Chết sao được! Sống
nhăn răng ra đây nè".
Tôi chở chú Phu về nhà. Cũng
căn nhà lợp ngói âm dương ở đường
Huyện Toại, nhưng có vẻ tiêu điều, u ám. Chiếc
xe hủ tiếu xập kỷ ńn, năm xưa, ngày cũ,
c̣n đậu trước hàng ba, xẹp bánh, bụi bám, nhện
giăng.
"Nị ở chơi, ngộ nấu
hủ tiếu cho nị ăn. Lâu quá ngộ cũng không có
ăn hủ tiếu".
"Vậy chứ chú thôi bán hủ
tiếu rồi sao?"
"Thôi lâu rồi! Giờ ai cũng
mạt, tiền đâu ăn hủ tiếu".
"Th́ bán cho mấy ổng".
"Ổng nào? À mấy ông cách mạng
hả? Ờ mấy ổng đâu có thèm ăn hủ tiếu.
Mấy ổng ăn vàng không hà".
Chú Phu đem ra một tô hủ tiếu
và một lít rượu. Tô hủ tiếu, chú Phu vừa mới
nấu, cũng chịu cùng số phận tang thương
theo vận nước, chỉ nước lèo, bánh và lèo tèo
những lát thịt mỏng như tờ giấy quyến.
Tôi nhớ tô hủ tiếu Muội
nấu cho tôi ăn trong những ngày mưa bán ế. Tô hủ
tiếu với bánh bột lọc làm bằng gạo G̣ Cát,
trụng với nước thật sôi, dai mà không bở
như hủ tiếu Sài G̣n, nước lèo nấu bằng
xương heo, tôm khô, khô mực, cải bắc thảo,
thêm vài tép mỡ, điểm xuyến vài cọng xà lách non
xanh với mấy cọng hành luộc, một nhúm giá, vài
lát ớt sừng trâu xắt mỏng, rắc chút tiêu, ăn
với x́ dầu và dấm đỏ. Tô hủ tiếu,
người thương ḿnh nấu, ly cà phê sữa nhỏ,
xây phé nại, do chính tay ḿnh pha, trong những ngày băo rớt,
mưa dầm, bán ế giờ đă trở thành kỷ niệm.
Tôi không tiện hỏi thăm về
Muội, dù rất muốn.
Tôi hỏi: "Chú bây giờ làm ǵ
để sống?"
"Th́ nị thấy đó, ngộ
đi mua ve chai, lông vịt về bỏ cho vựa. Nghề
ve chai lông vịt mà, nghề móc bọc, móc bọc ny lon
đem xuống sông rửa, rồi cân kư. Bây giờ khổ!
Nhớ hồi xưa ḿnh vui quá!".
Lít rượu ngâm ô môi, cho có màu, chú,
cháu cưa hai gần hết.
Chú Phu, chưn nam đá chưn chiêu,
lảo đảo bước vào nhà trong, lấy ra cái bọc
ny lon.
Chú nói: "Con Muội! Nó gởi cho
nị. Con Muội! hu hu! Nó chết rồi!"
"Muội ơi!"
"Ngộ biết nó thương nị.
Lúc nị đi ở tù, nó nói nó chờ nị được
tha về, nó sẽ đi bán hủ tiếu nuôi nị.
Nhưng có được đâu! Tụi nó đánh ăn tụi
ḿnh rồi lại giành ăn, đánh lẫn nhau. Thiệt hết
biết! Hết Pol Pot, Bành Trướng Bắc Kinh, rồi
Nạn Kiều. Ngộ sợ tụi nó sẽ đuổi
cha con ngộ về Trung Quốc. Tưởng thống chế
bỏ ngộ chạy ra Taiwan. Mao xếnh xáng rượt ngộ
chạy tuốt đến đây. Mỹ Tho đất lành
chim đậu. Rồi sanh ra con Muội. Ngộ nói với
con Muội: "Mỹ Tho bây giờ đất dữ rồi,
thôi bay đi con!"
Muội ngần ngừ, có ư đợi
nị về. Ngộ nói: "Nị làm quan, mà lại rằn
ri nữa, tù biết đến lúc nào ra? Nếu không đi;
sợ không c̣n có dịp. Cái cột đèn c̣n muốn đi
nữa mà".
"Suốt cuộc đời bán hủ
tiếu, ky cỏm được hai cây vàng, ngộ xuống
năn nỉ mấy x́ thẩu dưới chợ Mỹ
Tho cho con Muội một chỗ. Tàu nó ra cửa được
ba ngày đêm th́ bơm nhớt bị hư, máy lột dên,
trôi giạt. Ở hải phận quốc tế, tàu buôn qua
lại nườm nượp mà không ai vớt. Ba tuần
linh đinh trên biển, tuyệt vọng quá, mấy người
đi trên tàu gom quần áo, giày dép lại, đốt. Cuối
cùng có chiếc tàu buôn tội nghiệp dừng lại, thả
thang dây xuống. Ba tuần trên biển, nị nghĩ coi, sức
đâu nữa mà leo. Nó sút tay, rớt xuống biển. Chết
ch́m. Hu hu".
Chú Phu không c̣n nước mắt nữa
để khóc, chú chỉ kêu hu hu, tiếng kêu của con thú
bị một vết thương trí mạng, bị ví vào
đường cùng, không lối thoát thân.
"Đêm trước khi đi, nó
đưa cho ngộ cái này, nói nếu nị c̣n sống sót
trở về, th́ đưa lại cho nị. Hu hu!"
Trong cái bọc ny lon, chú Phu
đưa cho tôi, là chiếc áo bà ba h́nh chữ hỉ tôi may
cho em ngày cũ.
Muội ơi! Xác em giờ ở
phương nào. Trôi vào đất Thái hay vào Nam Dương.
Áo bà ba, Muội yêu, ḥa biển tím. T́nh c̣n đây trời
đày ta mất nhau.
Tôi không c̣n khóc được nữa,
nước mắt tôi đă cạn lâu rồi. Miệng tôi
méo xệch như mếu, mắt chớp chớp, mặt
nhăn nhúm, giựt giựt.
"Muội ơi! Anh sẽ đem
chiếc áo bà ba h́nh chữ hỉ của chúng ḿnh theo, ra biển!"
ĐOÀN XUÂN THU.
(Trịnh
Cuối Huôn sưu tầm và chuyển)