Home | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | TA.P GHI 47 | TA.P GHI 48 | TA.P GHI 49 | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | SUY NGÂM~ 10 | SUY NGÂM~ 11 | SUY NGÂM~ 12 | SUY NGÂM~ 13 | SUY NGÂM~ 14 | SUY NGÂM~ 15 | SUY NGÂM~ 16 | SUY NGÂM~ 17 | SUY NGÂM~ 18 | SUY NGÂM~ 19 | SUY NGÂM~ 20 | THO' HAY | THO' HAY [tt] | THO' HAY 1 | THO' HAY 2 | THO' HAY 3 | THO' HAY 4 | TÀI T̀NH | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | CU'̉'I CHÚT CHO'I 1 | LINKS | NHA.C HAY | VÊ` VN | -DE.P | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | TUYÊ.T V̉'I !!! | -DÔ.C -DÁO | THÚ VI. | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BÀI VIÊ'T 12 | CÂ?N THÂ.N | CÂ?N THÂ.N [tt] | VINH~ BIÊ.T !!! | VINH~ BIÊ.T !!! *

TA.P GHI 7

 

 

THỨC TỈNH

(Phan Xuân Sinh)

 

 

Luật vượt biển đến Hồng Kông năm 1982, sau khi cải tạo tại Tiên Lănh được sáu năm. Chuyến đi của anh suông sẻ chỉ mất hai ngày hai đêm trên biển. Điều trước tiên, anh đánh điện tín về nhà báo tin cho vợ con biết anh đă vượt thoát khỏi Việt Nam an toàn để chị mừng. Anh theo chân những người tị nạn vào phố Hồng Kông xin việc làm, anh được một nhà hàng sắp xếp cho anh rửa chén bát, việc làm cũng không đến nỗi khổ cực, lương tương đối khá. Mỗi ngày người ta cho anh mang về trại thức ăn dư thừa để anh chia cho những người không t́m được việc làm. Ở đây anh cảm thấy thoải mái hơn khi ở quê nhà rất nhiều. Không ai quan tâm hoặc theo dơi kẻ khác, không phạm pháp th́ không sợ sệt ai. Trong trại ai cũng thân thiện, tận tâm chỉ vẽ nhau những điều người khác không biết. Mọi người chung quanh thương mến anh v́ bản tính hiền lành. Ở Hồng Kông gần 1 năm th́ anh được phái đoàn Mỹ nhận cho đi định cư.

 

Thế nhưng có một điều làm anh thắc mắc măi, tại sao một ông thầy chùa đă giúp đỡ anh tận t́nh như vậy ? Anh chưa hề quen biết ông. Anh nhớ lại cái đêm vượt biên bị Công An phát giác, anh nhảy xuống sông vừa bơi vừa lặn, trước khi tàu Công An kẹp sát. Lên bờ v́ trời tối anh không biết đây là nơi nào. Anh lần ṃ trong bóng tối chừng ba tiếng đồng hồ vẫn không thấy đường cái. Bỗng nhiên anh trông thấy ánh đèn từ xa, anh đi tới, th́ ra đây là ngôi chùa nhỏ. Anh vào chùa gặp vị sư c̣n trẻ, Sư hỏi anh cần ǵ ? Anh t́nh thật thưa rằng anh đang lạc đường và xin được giúp đỡ. Vị Sư đưa anh vào chánh điện rồi đến thưa với thầy trụ tŕ. Thầy trụ tŕ chừng trên dưới sáu mươi tuổi, mặc bộ đồ màu lam, nước da ngăm đen, khuôn mặt hiền từ. Khi nh́n thấy anh Thầy có vẻ hơi giật ḿnh. Thầy bảo người Sư trẻ dọn cơm cho anh ăn. Trong lúc nói chuyện để anh an tâm, Thầy cho anh biết sẽ không có ai làm phiền hay quấy rối anh. Anh muốn ở đây bao lâu cũng được. Thầy đích thân dọn pḥng cho anh ngủ. Anh tự hỏi giữa lúc khó khăn, gạo châu củi quế, thế mà nhà chùa lại rộng lượng quá vậy.

 

Sáng dậy, anh bước ra pḥng rửa mặt th́ đă thấy Thầy ngồi tại bàn ăn đang uống trà. Thầy mời anh cùng uống trà và nói chuyện. Tuyệt đối Thầy không hỏi anh về cuộc sống hiện thời, về gia đ́nh, về nơi ăn chốn ở. Thầy dặn anh có ai hỏi th́ bảo anh là bà con ở quê ra thăm thầy. Thầy cũng cho anh biết ngôi chùa nhỏ nghèo nàn nên ăn uống sơ sài, không biết anh có chịu được không ? Anh chắp tay cám ơn Thầy và nói "Được Thầy bảo bọc, chuyện ăn uống không thành vấn đề, tất cả đều tốt với tôi. Xin Thầy đừng bận tâm". Khi c̣n ở nhà, anh và vợ con bữa đói bữa no, làm ǵ được như thế nầy. Trong những ngày ở chùa, Thầy ít khi gặp anh, ít nói chuyện với nhau ngoại trừ vào bữa ăn. Không hiểu sao Thầy cố giữ anh lại, mà không cho biết lư do. Chừng mười ngày sau, khi ăn cơm chiều xong, Thầy bảo anh ngồi lại để Thầy nói chuyện. Chỉ c̣n lại hai người đối diện nhau, Thầy nói với anh :

 

- Khi anh bước chân vào chùa nầy, tôi đă biết anh là người trốn thoát Công An lùng bắt v́ tội vượt biên. Ở đây tôi đă gặp vài trường hợp giống anh và tôi đă che chở nên họ về nhà an toàn. Như anh biết chùa là nơi mở rộng ṿng tay giúp đỡ cho những người sa cơ thất thế, chúng tôi làm hết sức ḿnh trong điều kiện cho phép. Hơn nữa vượt biên theo tôi không phải là cái tội, họ chỉ trốn thoát chế độ không phù hợp với họ, không chống cự, không phản đối, th́ không thể bảo họ mang tội. Trường hợp của anh khác với những người kia, khác như thế nào sau nầy anh sẽ rơ. Đêm nay có một chuyến vượt biên uy tín mà tôi tin tưởng, tôi muốn gửi anh đi trong chuyến nầy, mười một giờ sẽ có người tới dẫn anh đi. Tôi đă chuẩn bị sẵn cho anh mọi thứ, gồm có hai bộ quần áo để anh thay đổi khi tới nơi, và một lượng vàng cho anh tiêu dùng trong thời gian chờ định cư đến nước thứ ba.

 

Anh trố mắt nh́n Thầy mà không nói nên lời, anh đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác. Không biết lư do ǵ mà Thầy tận t́nh giúp đỡ anh như vậy. Thầy bảo anh về pḥng nằm nghỉ, chờ đến giờ có người tới đưa đi. Thầy không cho anh nói một lời nào dù là lời cám ơn. Thầy lên chánh điện tụng kinh. Anh nằm suy nghĩ măi về sự giúp dỡ nầy của Thầy. Một lượng vàng là một tài sản không nhỏ vào thời điểm đó. Thế mà Thầy lại biếu anh, chưa kể Thầy c̣n phải đóng tiền cho chủ ghe để được đi, chứ không ai cho đi không. Anh thắc mắc sao lại có một người tốt như vậy. Anh hứa với ḷng ḿnh, sau khi An cư Lạc nghiệp ở xứ người, anh trở về thăm thầy, anh hỏi thầy lư do tại sao thầy đă giúp đỡ anh. Anh nghĩ sẽ hoàn trả lại số vàng bằng gấp bao nhiêu lần mà Thầy đă chi phí cho anh. Thầy nói chùa đă từng che chở cho những người vượt biên bị bể, đă đưa họ về nhà, đó là một việc làm tốt, một công đức cao cả mà chỉ có Bồ Tát mới hành xử như vậy. V́ biết bao nhiêu hệ lụy sẽ gây rắc rối cho chùa và cho Thầy nếu chính quyền biết được. Ấy vậy mà Thầy chẳng sợ ǵ. Niềm tin nào đă làm cho Thầy hành động một cách liều lĩnh như thế. Sống giữa một xă hội mà người dân chỉ c̣n cách trốn ra nước ngoài mới yên thân, th́ c̣n sợ chi chuyện bắt bớ. Tuy nhiên ở trường hợp của Thầy lại khác, Thầy đứng ngoài mọi liên hệ với những người chạy trốn, mà lại dang tay ra đỡ cho họ khỏi bị tù tội. C̣n hoàn cảnh của anh được Thầy che chở rồi lại t́m cách đưa đi tiếp. Qua sự việc nầy, Thầy đă tạo cho anh một niềm tin vào cuộc đời, vẫn c̣n có người đầy ḷng nhân ái.

 

Anh nằm trong pḥng không nhắm mắt được. Anh nghe tiếng tụng kinh của thầy ngoài chính điện, giọng thầy trầm bổng uy nghi, gieo vào ḷng anh một thức tỉnh và suy tư. Anh chưa bao giờ nghe được những lời kinh có uy quyền, thấm đẫm vào ḷng anh một cách sâu xa, xoa dịu những nhọc nhằn căng thẳng mà anh đă từng gánh chịu. Anh suy nghĩ, đây mới chính là nơi Phật hiện diện. Không cần chi chùa phải lớn, phải nguy nga. Chính ngôi chùa nhỏ bé nầy, ở một nơi hẻo lánh mà đă chứa lực đại hùng của Phật, sáng tỏa trong ḷng anh sự từ bi mà bây giờ anh mới ngộ ra được. Người anh lâng lâng như đang bước vào một cơi tâm thức, tiếng kinh như thinh lặng, đôi lúc d́u dặt, đôi lúc khoan thai, có phải chăng đang d́u anh ra khơi trong êm ả, một chuyến đi mà anh không c̣n mang nỗi sợ. Rồi anh thiếp đi lúc nào không hay.

 

Gần mười một giờ đêm, Thầy vào gọi anh dậy. Thầy trao cho anh cái bọc nylon chứa hai bộ quần áo và một lượng vàng. Thầy bảo anh cẩn thận cất vàng vào túi quần sau cài nút lại. Trong bọc nylon có một lá thư, Thầy dặn khi lên ghe lớn hăy đọc. Nếu trường hợp bị Công An phát hiện, bằng mọi cách phải hủy lá thư trước. Thầy đứng ngay cửa nh́n anh ra khỏi chùa. Người dẫn đường đưa anh ra ghe nhỏ cách đó chừng nửa giờ. Trên ghe có khoảng mười người, rồi ghe chạy ra sông cái tấp vào ghe lớn đang chờ sẵn. Khi leo lên ghe anh làm rớt bọc Nylon xuống sông không vớt lên được. Như vậy lá thư và hai bộ áo quần mất từ đó.

 

Đúng như lời Thầy nói, chuyến đi rất an toàn, hai ngày sau tới Hồng Kông. Anh đổi lượng vàng ra thành 10 chỉ, để tiêu dùng trong những ngày sống ở trại tị nạn. Anh tiện tặn v́ không biết chờ đợi đến bao lâu mới đi định cư ở nước thứ ba. Anh may mắn được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và cho đi sớm. Một gia đ́nh người Mỹ ở Oakland California làm sponsor cho anh. Lúc đó Oakland chưa có người Việt nhiều, thành phố toàn người Mỹ đen và Mễ. Dần dần những năm sau người Việt tới định cư và những quán Café mọc lên ở đường E.14. Chính ở đây là nơi truyền những tin tức từ Việt Nam qua, chuyện bàn luận Chính trị bắt đầu sôi nổi trên bàn Café của những chính khách không tên tuổi. Đúng, sai không ai cần biết, có căi vả với nhau khi bất đồng, nhưng tất cả đều bỏ lại bàn, không ai mang trong ḷng. Đó là niềm vui duy nhất của mỗi cuối tuần cho những người Việt tha hương sinh sống trong Thành phố. Anh share pḥng với một gia đ́nh Việt Nam, ăn uống anh tự túc nấu lấy, nên tiết kiệm thêm một ít tiền. Anh viết thư bảo vợ thỉnh thoảng qua chùa Mân Thái cúng Phật và thăm Thầy Trụ Tŕ. Anh cho chị biết, Thầy là ân nhân của anh và gia đ́nh, chị phải thay anh thăm viếng Thầy thường xuyên.

 

Sau khi có quốc tịch Hoa Kỳ, anh làm hồ sơ bảo lănh vợ con. Anh thu xếp một chuyến về Việt Nam, để trước hết thăm Thầy, sau đó hỏi về lư do Thầy đă tận t́nh giúp anh. Một thắc mắc cứ canh cánh trong ḷng khiến anh trăn trở măi. Thầy thường che chở cho những người vượt biên, nhưng Thầy chưa bao giờ nói là đă giúp ai phương tiện và vật chất để họ tiếp tục đi như anh. Thăm viếng gia đ́nh, bà con hàng xóm xong, anh đón xe đi Mân Thái thăm Thầy. Chùa vẫn y nguyên như xưa, như những ngày anh sống dưới sự bảo bọc của Thầy. Anh gặp vị sư trẻ, vị sư nầy nhận ra anh ngay. Thầy nh́n anh, đôi mắt Thầy sáng lên đầy ngạc nhiên và vui mừng. Anh chạy đến ôm Thầy, anh cảm thấy sung sướng, nước mắt ràn rụa. Thầy mời anh ngồi trên chiếc bàn ăn ngày nào. Anh t́nh thật thưa với Thầy là lúc hối hả leo lên tàu lớn trong đêm tối, anh đánh rơi bọc Nylon có lá thư và hai bộ áo quần Thầy cho, nên đến bây giờ anh vẫn không biết trong thư Thầy viết ǵ. Thầy cười hiền ḥa và nói trong thư căn dặn anh phải giữ ǵn sức khỏe, luôn luôn nghĩ tới vợ con, chứ không có ǵ quan trọng. Thế nhưng anh không nghĩ như vậy, có một điều ǵ bí mật mà Thầy chưa tiện nói ra.

 

Anh ở lại chùa vài ngày để tṛ chuyện với Thầy, luôn tiện anh xin Thầy cho anh quy y. Thầy đồng ư. Thế là mỗi đêm, khi Thầy tụng kinh anh cũng chắp tay ngồi phía sau, vừa nghe câu kinh Thầy tụng vừa thấy ḷng ḿnh lắng xuống, như ngộ ra được một cái ǵ đó rất tâm linh mà không thể nào diễn tả được. Mỗi lần tụng xong câu kinh Thầy gơ một tiếng chuông, rồi cúi xuống lạy. Tiếng chuông ngân vang trong đầu anh, như dẫn dắt anh bước vào sâu thẳm của cơi siêu h́nh. Dạy cho ta những đạo đức để giữ ḿnh, để sống với tha nhân. Anh cảm thấy những ngày ở chùa tuy ngắn ngủi nhưng anh đă học được nhiều điều quư giá. Một buổi tối sau khi ăn cơm xong, Thầy và anh ngồi uống trà nói chuyện. Thầy nh́n thẳng vào mắt anh, rồi từ từ nói :

 

- "Chắc anh thắc mắc trong ḷng bấy lâu nay, là tại sao tôi tận t́nh giúp anh, tiếp tay làm tṛn ước nguyện mong muốn của anh là vượt thoát ra khỏi đất nước. Chẳng qua đó là cái ơn mà tôi phải trả cho anh trong thời kỳ chinh chiến. Có lần anh đă giúp tôi mà anh tuyệt nhiên không hay biết. Bây giờ tôi xin kể đầu dây mối nhợ của câu chuyện. Anh không c̣n nhớ, nhưng với tôi chuyện gặp anh lúc đó tôi không bao giờ quên được. Trước khi nhắc lại chuyện cũ, Tôi xin nói về tôi. Tôi có vợ và hai con, hồi đó gia đ́nh chúng tôi sống trong vùng mất an ninh. Tôi hoạt động Cách mạng và làm đến chức Huyện Ủy Viên. Vợ con tôi chết trên chuyến đ̣ tiếp tế bị máy bay phát hiện, từ đó tôi là người không có gia đ́nh. Tôi được cấp trên giao cho nhiệm vụ hoạt động trong vùng Ḥa Vang và Điện Bàn. Để dễ dàng đi lại, tôi giả làm một nhà sư mặc áo nâu ṣng, trên vai luôn luôn mang cái bị chuông mơ, nhưng thực tế trong đó chứa những tài liệu hoạt động và một khẩu súng ngắn. Tôi tránh đi lại ban ngày v́ sợ dễ bị phát giác. Thường di chuyển vào lúc mặt trời sụp tối và Du kích địa phương báo trước cho tôi biết đoạn đường nào an toàn để đi.

 

Buổi chiều tôi nhận được lệnh là sáng hôm sau tôi có một cuộc họp với thượng cấp tại xă Thanh Trường, huyện Điện Bàn. Tôi và hai cận vệ yên tâm ra đi, người cận vệ đi đầu bi đau bụng nên ngồi lại đi cầu, như vậy tôi trở thành người đi đầu. Đi được một đoạn th́ tôi bị một toán lính Quốc Gia phát hiện, người đi phía sau tôi núp vào bụi cây nên thoát được. Tôi được dẫn vào tŕnh diện ông Trung úy Đại đội trưởng, người Chỉ huy cuộc hành quân đó. Tôi nghĩ trong bụng, tôi không thể nào thoát được lần nầy, thế nào họ cũng xét người và chiếc bị mang trên vai, đầy tài liệu và cây súng ngắn trong đó .. Dưới ánh đèn nho nhỏ, ông Trung úy ngước lên nh́n tôi với khuôn mặt hiền từ, hỏi tôi một câu cho lấy lệ : "Thầy đi đâu trong đêm tối ? Thầy có biết vùng nầy nguy hiểm lắm không ?". Tôi thưa với ông rằng : "Xóm trên có người mới mất, tôi đến tụng kinh rồi ra về. Không ngờ trời sụp tối mau vậy". Người lính đứng gần hỏi ông Trung úy có cần xét ông thầy nầy không ? Ông Trung úy nói khỏi cần, rồi sai người lính trải Poncho cho thầy ngủ lại, sáng mai hăy về, chứ đi trong đêm thế nào cũng bị bắn. Tôi nghĩ lúc đó có người khuất mặt che chở cho tôi nên họ không xét người tôi. Sáng hôm sau thức dậy, ông Trung úy đưa cho tôi một ca nước trà, rồi tôi lên đường. Suốt trên đoạn đường đi, tôi suy nghĩ măi về ông Trung úy. Điều ǵ đă làm cho ông cư xử với tôi như vậy ? Ông có biết rằng trong đêm đó tôi có thể giết ông rồi bỏ chạy, giữa đêm khuya tối mịt làm sao bắn trúng tôi ? Ai đă khiến tôi, ngăn cản tôi không làm điều đó. Trong chiến tranh không từ nan bất cứ thủ đoạn nào, giết người không một chút cắn rứt. Nhưng giữa anh và tôi, hai kẻ thù gặp nhau ở điểm "ḷng nhân ái", không biết nó đă tiềm ẩn trong người tự lúc nào mà khi nó tỉnh dậy lại vào lúc đúng nhất. Từ đêm đó, tôi bắt đầu suy nghĩ về tâm linh, chiếc áo nâu ṣng tôi đang mặc, phải có cái duyên tôi mới khoác nó lên người. Trong những năm cuối cùng chiến tranh chiếc áo như đă che chở cho tôi tránh những lằn tên mũi đạn. Tôi nguyện trong ḷng, sau khi cuộc chiến chấm dứt, thế nào tôi cũng t́m gặp anh. Ánh mắt và khuôn mặt anh không làm sao tôi quên được. Anh đă cứu tôi không những tại mặt trận, mà c̣n cứu tôi ra khỏi vũng lầy của sự hận thù. Tôi luôn luôn âm thầm cầu nguyện cho anh thoát khỏi mọi tai ương. Cái đêm anh bước vào chùa, khi anh ngước lên nh́n tôi, cũng ánh mắt ấy cách đây hơn mười năm giống hệt nhau. Tôi giật ḿnh, ân nhân năm xưa bây giờ đă đến, tôi có bổn phận phải giúp anh, phải đưa anh thoát khỏi nghịch cảnh mà anh và gia đ́nh gánh chịu. Bây giờ anh đă hiểu rồi chứ ? Đây là cơ hội cho tôi trả lại anh món nợ cũ. Điểu làm tôi suy nghĩ măi là cơ duyên nào đưa anh tới đây ? Có phải chăng ơn trên đă dẫn dắt anh. Trong cuộc sống thiên h́nh vạn trạng, rất hiếm có trường hợp giống nhau. Thế mà chúng ta lại rơi đúng vào sự trùng hợp nầy một cách bất ngờ."

 

Anh sững sờ nh́n Thầy, một câu chuyện mà anh không hề nghĩ đến, cho đến bây giờ Thầy nhắc. Đúng là trường hợp hi hữu, tất cả đều có sự sắp xếp của ơn trên. Kư ức anh bắt đầu quay về khoảng không gian mười năm trước đây :

 

"Hồi đó đơn vị anh hành quân ở khu vực Miếu Bông, sát Quốc lộ 1, giữa đường từ Đà Nẵng vào Vĩnh Điện. Gần 6 giờ chiều, anh được lệnh di chuyển vào khu vực xă Ḥa Lân gần một con lộ đá từ Non Nước vào Hội An. Chính sự di chuyển nầy đánh lạc hướng du kích địa phương và những liên lạc viên, v́ họ không ngờ đơn vị của anh di chuyển ban đêm. Ông Huyện ủy viên tưởng rằng không có lính Quốc gia hành quân, nên ông mới đi trên lộ tŕnh nầy. Khi ông bị lính chận lại, ông rất ngạc nhiên tại sao một cuộc hành quân như vậy mà du kích không phát giác được. Chỉ huy Đại đội đóng gần cái miễu, anh treo chiếc vơng bên ngoài, định nằm nghỉ th́ người lính gác dẫn một ông thầy chùa vào tŕnh diện. Anh ngước nh́n thấy ông thầy chùa cũng lớn tuổi, con người khắc khổ tội nghiệp. Anh không nghi ngờ ǵ cả, bảo ông nghỉ lại đây cho an toàn rồi ngày mai về sớm. Đi trong đêm nguy hiểm v́ có thể gặp đơn vị Quốc gia khác đi kích, lúc đó khó tránh khỏi rắc rối. Đơn giản là như vậy, chứ anh hoàn toàn không có ư nghĩ ǵ khác, hoặc nghi ngờ ông thầy chùa là Việt Cộng. Sáng hôm sau khi ông thầy chùa đi rồi, th́ anh mới tự hỏi tại sao ḿnh không lục xét ông thầy, biết đâu ông là Việt Cộng th́ sao ? Giữa thời buổi chiến tranh bất cứ ai cũng có thể nghi ngờ. Nghĩ như vậy, nhưng anh không cho lính chạy theo gọi ông trở lại. Chuyện nầy anh cũng lăng quên, bây giờ Thầy nhắc anh mới nhớ lại".

 

Anh nh́n Thầy, nhưng hoàn toàn không c̣n nhớ khuôn mặt. Càng nghĩ anh càng cảm thấy sự màu nhiệm của đức tin, có thể biến đổi được con người, xoa dịu những vết thương tưởng chừng như không bao giờ xóa đi được. Anh lặng người để tâm hồn lắng xuống, nh́n Thầy như cảm nhận có được một luồng hùng lực tỏa sáng. Khuôn mặt Thầy hiền từ, ăn nói chậm răi, từ tốn. Anh thấy, Thầy hoàn toàn lột xác. Thường thường chính trị viên nào cũng ăn nói lưu loát, cứng rắn, họ là những người nắm sinh mạng của đơn vị, đẩy những chiến binh dưới quyền ḿnh vào chỗ dầu sôi lửa bỏng. Bây giờ lời Thầy có một hấp lực mang đến sự an lành cho mọi người. Ôi, tất cả đều nằm trong nghiệp số.

 

- Thưa Thầy, thế th́ lúc nào Thầy mới chính thức bước vào đường tu hành ?

Thầy nh́n anh cười. Bây giờ anh mới để ư nụ cười của Thầy hiền lành, đúng là một bậc chân tu :

- Sau 30 tháng 4 năm 1975, khi quân Cách mạng hoàn toàn chiếm Miền Nam, cũng vào ngày đó tôi chính thức đi tu. Những bạn bè cũ cùng chiến đấu với tôi rất ngạc nhiên. Lúc được hưởng những sung sướng nhất, giàu sang nhất, tôi lại chọn lấy con đường cực khổ nhất. Tôi trả lại tất cả những chức vụ, đảng viên, những quyền hành v.v.. chỉ xin một điều, hăy để cho tôi yên, đừng quấy phá làm phiền tôi. Những ai đến thăm chùa, những ai ngụ trong chùa xin các người đừng gây rắc rối cho họ. Những ngày tôi theo Cách mạng, hy sinh cả vợ con, sự cống hiến của tôi đă đủ. Bây giờ cho tôi yên phận trong tuổi già. Tôi nghĩ chỉ có con đường nầy mới giải thoát được tôi, vợ con tôi dưới suối vàng cũng mỉm cười. Lúc đầu họ không chịu, nhưng tôi quyết liệt quá, họ đành phải chiều ư tôi. Họ bảo tôi lănh đạo Phật Giáo tỉnh, tôi từ chối. Tôi muốn làm một người tu hành đúng nghĩa nhất. Không lợi dụng chiếc áo cà-sa nữa, v́ tôi đă lợi dụng nó quá nhiều trong thời chiến tranh để che đỡ ḿnh.

 

Lúc đầu khi về chùa tôi thỉnh một bộ kinh và sắm chuông mơ, tôi tự trồng trọt để nuôi thân. Dân địa phương họ biết tôi trước đây hoạt động cho quân Giải Phóng nên họ rất e dè, ít người lui tới. Dần dần người nầy truyền đạt cho người kia về tôi, họ thấy tôi không nguy hiểm mà trái lại rất dễ thương. Từ đó chùa có một sinh khí mới, buổi tối ai rảnh th́ đến chùa tụng kinh với tôi. Đạo hữu họ cũng biết chùa che chở cho nhiều người trốn thoát Công An, họ cho đó là việc làm đúng. Công An họ tin rằng tôi là một đảng viên, không thể chấp chứa những thành phần phản động. Nhưng họ không ngờ rằng tôi bây giờ đă hoàn toàn lột xác, tất cả đều là anh em, không thù không oán. Chính v́ vậy chùa đă bao che cho những người vượt biển trốn tại đây.

- Thưa Thầy, chùa nầy đă có trước đây hay mới làm và người đệ tử theo Thầy từ lúc nào ?

- Chùa nầy trước đây là chùa hoang, nằm trong vùng oanh kích tự do nên không ai dám lui tới. Làng mạc tiêu điều, dân làng ra Thành phố tỵ nạn tránh bom đạn, chùa không c̣n ai hương khói. Chỉ có tượng Phật lành lặn, c̣n tất cả đều bị đạn bắn phá. Chính điều nầy cũng làm cho tôi bao nhiêu đêm suy nghĩ, tượng Phật không hề hấn ǵ cũng lạ thật. Những năm cuối cuộc chiến, tôi ngủ dưới bệ tượng Phật, tôi cảm thấy an tâm, h́nh như có một cái ǵ đó che chở cho tôi. Tôi nguyện trong ḷng, sau khi đất nước ḥa b́nh, tôi sẽ về đây tu bổ lại ngôi chùa và sinh sống. Nếu gặp được phước duyên tôi sẽ đi tu, gia đ́nh vợ con không c̣n nữa, chẳng c̣n chỗ nào làm nơi nương tựa. Trong thời chiến tôi lấy nơi đây làm nơi cư ngụ và hoạt động. Sau nầy, như mong ước, tôi tu bổ dần dần trở thành một ngôi chùa tuy không lớn, nhưng đạo hữu đến cũng khá đông. Tôi dự định sang năm đủ tiền, sẽ xây lại lớn hơn, để những người con Phật có nơi khang trang hành lễ trong những ngày Vía lớn. Người Thầy trẻ phụ giúp tôi trong chùa, lúc thầy đến mới 10 tuổi, cha mẹ thất lạc lúc chạy loạn. Thấy tội nghiệp tôi nuôi nấng cho ăn học. Bây giờ thầy đă là Kỹ sư công nghệ. Tôi bảo thầy có thể ra đời lấy vợ, v́ chuyện ở chùa chỉ là hoàn cảnh bức bách lúc đó. Thầy bảo là con quyết tâm tu hành theo chân sư phụ. Thôi biết đâu cũng là cơ duyên. Tôi không bao giờ sai bảo thầy nhỏ những ǵ mà tôi có thể làm được, thầy thấy tôi làm việc nầy th́ thầy làm việc khác, từ xưa đến giờ trở thành một nề nếp. Cách đây hai năm cha mẹ của thầy trẻ từ nước ngoài về t́m thầy. Khi họ lạc nhau thầy đă 10 tuổi nên thầy dễ dàng nhận ra cha mẹ. Cha mẹ sẽ bảo lănh cho thầy đi, nhưng thầy vẫn chưa quyết định. Tôi có khuyên thầy nên đi, dù sao t́nh ruột thịt cũng cần thiết hơn. Tôi nghĩ thế nào thầy trẻ cũng rời khỏi chùa, nên tôi đang t́m một người sau nầy sẽ thay tôi. Cái khó không phải là không có người, mà người thay thế tôi có được ḷng bà con, có siêng năng tu tập, có đủ nghị lực để quán xuyến ngôi chùa không. Và điều quan trọng nhất là đừng để chùa biến thành công cụ phụng sự Chính trị. Nhiều đêm suy nghĩ nhưng chưa t́m được người như vậy. Thật t́nh th́ có lo lắng cũng không được. Thôi th́ cứ để mọi chuyện từ từ, người nào có Phật duyên tự nhiên sẽ đến.

 

Bây giờ tôi già rồi, những việc nặng nhọc không làm được, người đệ tử của tôi quán xuyến hết. Hơn nữa đạo hữu cũng khá nhiều, mỗi ngày có vài người đến chùa làm công quả, nên tôi có th́ giờ nghỉ ngơi, chỉ lo Phật sự. Tôi tự tu hành, học trong kinh sách của Phật dạy. Phần nhiều kinh sách viết bằng chữ Hán nên đă gây cho tôi khó khăn lúc ban đầu.

 

Mặc dù Thầy không đi tu từ nhỏ, nhưng quyết tâm cố gắng của Thầy, kiên tŕ học hỏi của Thầy, đă tạo cho Thầy một con người thông hiểu giáo lư nhà Phật, có một kiến thức rộng. Thầy không có một vị sư đỡ đầu, trong Phật Giáo gọi người nầy là Thầy Bổn Sư, nên khi gặp những rắc rối liên quan đến sự tu hành, Thầy t́m đến những cao tăng xin chỉ dạy. Mỗi tháng hai lần, ngày mồng Một và ngày Rằm, Thầy thuyết giảng để đạo hữu hiểu những điều Phật dạy, để sửa ḿnh, để tu thân. Chính quyền tại đây biết rơ về Thầy nên không ai đến quấy rầy. V́ vậy Thầy yên tâm tu hành. Từ khi chính thức bước vào cửa chùa, Thầy không quan tâm đến sự việc bên ngoài. Tiếng tăm của Thầy dần dần được những Phật tử quanh vùng biết đến và từ đó sinh hoạt Phật sự trong chùa trở nên nhộn nhịp hơn. Có người đề nghị với Thầy nên trùng tu lại ngôi chùa cho phù hợp với số đạo hữu ngày càng gia tăng. Thầy nhận biết điều nầy, nhưng Thầy không dám kêu gọi đóng góp. Thầy cố tiện tặn để dành nhưng vẫn chưa đủ tiền thực hiện.

 

Một buổi sáng trong lúc uống trà, anh đặt một bọc tiền trên cái khay nhỏ, rồi thưa với Thầy :

- Thưa Thầy, đây là số tiền con dành dụm từ lâu, con hứa khi về quê nhà con sẽ nhờ Thầy dùng nó để làm việc ǵ mà Thầy cảm thấy cần thiết phải làm. Con không nghĩ là trả lại cái ơn mà Thầy đă giúp, v́ ơn nầy to lớn quá con không trả nổi. Con thấy Chùa hư hại quá nhiều, Thầy cho con góp một tay với Thầy xây dựng lại tốt hơn. Nếu có thiếu hụt trong lúc trùng tu, con sẽ gửi về thêm để Thầy trang trải.

 

Thầy nh́n anh, Thầy cảm thấy như anh trả lại món nợ trước đây Thầy đă giúp anh vượt biên, nhưng khi nghe anh tŕnh bày thành thật. Thầy trầm tư, đắn đo có nên nhận của anh hay không ? Cuối cùng Thầy quyết định :

- Ḷng tốt của anh Thầy ghi nhận. Tuy chùa cũng rất cần, nhưng nhận số tiền nầy của anh Thầy cảm thấy áy náy quá. Thôi th́ thay mặt chùa, Thầy cám ơn anh. Thầy sẽ nhờ người vẽ kiểu rồi từ từ thực hiện theo đó. Làm cho đến khi nào hết tiền th́ ngưng, có tiền làm tiếp. Ngày xưa các vị sư tổ xây chùa từ đời nầy qua đời khác, không có ai xây chùa chỉ một đời. Lấy kinh nghiệm nầy, Thầy sẽ thực hiện cho đến khi nào Thầy không c̣n khả năng.

 

Thầy và anh bàn nhiều chuyện, trong đó để tiết kiệm tiền bạc, Thầy định làm một ḷ nung gạch, đào đất trước sân chùa để làm gạch. Cái hố lấy đất sau nầy sẽ trồng sen, trở thành một hồ sen. Thấy những dự tính của Thầy hợp lư, anh cũng vui thích.

 

Trở lại Mỹ, mỗi đêm anh ngồi trước bàn thờ tụng kinh. Lúc đầu anh không biết tụng kinh như vậy để làm ǵ, sau vài tháng anh ngộ ra được một điều cái "quả" mà anh nhận được bây giờ, gia đ́nh yên vui, vợ con sẽ đoàn tụ, công việc trôi chảy, chính nhờ vào cái "nhân" mà anh đă gieo. Anh tụng kinh là nhắc nhở ḿnh phải luôn luôn ǵn giữ cái tâm ngay thẳng. Anh không nghĩ đến những chuyện cao siêu, chỉ biết đơn giản là tu thân tích đức. Anh cảm thấy tâm hồn anh thanh thản hơn, bỏ ra ngoài những hệ lụy rắc rối không mang tới niềm vui cho ḿnh, cho mọi người. Câu kinh anh tụng trở nên nhiệm màu.

 

Vợ con anh sau vài năm tới Mỹ theo diện đoàn tụ. Anh có hỏi vợ về ngôi chùa ở Mân Thái. Vợ anh cho biết ngôi chùa đă xây xong, không lớn lắm nhưng khang trang. Thầy có làm một tấm đá gắn trên tường khắc tên những người đóng góp xây dựng nên ngôi chùa như một lời tri ân. Nhiều đêm không ngủ được anh lại nghĩ tới ngôi chùa, nghĩ tới Thầy. Ngôi chùa nhỏ nhưng chứa một tấm ḷng quá lớn. Đối với gia đ́nh anh đây cũng là thánh địa, đă cứu giúp anh vượt qua những khó khăn. Trong chiến tranh, chỉ một lần ngẫu nhiên gặp gỡ mà người Thầy đă giác ngộ, đă từ bỏ hết những danh vọng, những quyền thế, xóa sạch những hận thù, những dĩ văng đen tối. Chấp nhận một cuộc sống thanh bần khổ cực. Mấy ai trên đời nầy làm được như Thầy ? Công đức của Thầy theo anh, đó là một ngọn Thái-sơn mấy ai leo tới. Năm nay Thầy đă bát tuần, như một quyển kinh đă đọc đến những trang gần cuối. Thầy không có ǵ phải vướng bận khi ra đi, chắc Thầy cũng đă sẵn sàng đi theo Phật. Cuộc đời, mọi vật rồi cũng sẽ trở thành cát bụi, chỉ c̣n chăng là một tấm ḷng. Anh viết thư cho quư đạo hữu hăy báo tin cho anh biết khi Thầy viên tịch, anh sẽ thu xếp về ngay để tiễn đưa Thầy lần cuối.

 

PHAN XUÂN SINH

(Phu Dong sưu tm, Tan Tran và Philip Ho chuyn)

 

website counter