MẤT CẢNH GIÁC
(TS Nguyễn Hưng Quốc)
Một người bạn của tôi, từ
Hà Nội sang, kể tôi nghe chuyện này: Cách đây mấy
năm, Bộ Công an Việt Nam xây dựng trụ sở mới
ở đường Phạm Hùng, Cầu Giấy, Hà Nộị
Trụ sở rất đồ sộ và lộng lẫy do
một nhà thầu Trung Quốc thiết kế và xây dựng.
Đến lúc xây xong, người ta mới sực nhớ
một chuyện: Có thể Trung Quốc cho gắn các thiết
bị do thám trong toà nhà để ghi âm tất cả các cuộc
đối thoại trong đó. Thế là người ta sợ.
Nhưng không có cách ǵ lật tung cả toà nhà ra để
t́m các thiết bị do thám ấy. Mà t́m chưa chắc đă thấy. Cuối cùng, người ta chọn giải
pháp: cho các nhân viên cấp trung và cấp thấp vào làm việc
trong trụ sở mới, c̣n giàn lănh đạo cao cấp
th́ vẫn ở lại trụ sở cũ.
Nghe câu chuyện ấy, tôi không thể không
thắc mắc: Tại sao một việc đơn giản
như vậy mà người ta không thể đoán trước
được? Bạn tôi cười: "Thế mới nói! Ở Hà Nội, ai cũng
đặt ra câu hỏi ấy.
Nhưng không ai công khai và chính thức trả lời cả.
Có khi câu trả lời rất đơn giản: Bất cẩn!"
Một chuyện nữa cũng làm tôi thắc
mắc: Trung Quốc đă khởi sự việc bồi
đắp các băi đá ngầm ở Trường Sa thành
đảo nhân tạo ít nhất cũng từ một hai
năm trước, vậy tại sao bộ đội Việt
Nam đóng trên các ḥn đảo gần đấy lại
không hay biết ǵ cả? Thế giới - và cả người Việt nữa - chỉ biết sự kiện ấy vào
đầu năm nay khi Mỹ loan tin kèm theo các bức ảnh
được chụp từ vệ tinh. Tại sao ? Câu trả lời không chừng cũng v́ họ
không quan tâm, hay nói cách khác, bất cẩn.
Có thể nói, trong quan hệ với Trung Quốc,
giới lănh đạo Việt Nam lâu nay rất bất cẩn. Trước
đây, Bộ Thương mại Việt Nam giao hẳn cho
phía Trung Quốc toàn quyền quyết định nội
dung tờ báo mạng bằng tiếng Việt của họ.
Nhiều tờ báo loan cả tin bộ đội Trung Quốc
tập luyện ở những vùng biển và hải đảo
vốn thuộc chủ quyền Việt Nam theo các bản
tin lấy từ báo chí của Trung Quốc mà không một
chút phân vân hay phê phán. Nhiều cơ sở du lịch in bản
đồ Việt Nam trong đó Hoàng Sa và Trường Sa
được ghi rơ là thuộc về Trung Quốc. Cách
đây mấy năm, dư luận rất phẫn nộ
khi biết một số tỉnh miền Trung và miền Bắc
cho các công ty Trung Quốc thuê dài hạn (trong ṿng 50 năm)
trên 300.000 hecta đất rừng đầu nguồn
được xem là có vị trí chiến lược. Cuối
năm ngoái, người ta cũng phát hiện nhà cầm quyền
Thừa Thiên - Huế
cho phép công ty Trung Quốc xây dựng khu du lịch ngay dưới
chân đèo Hải Vân, nơi, cũng theo giới quân sự,
có ư nghĩa chiến lược, liên quan đến an ninh
quốc pḥng của Việt Nam. Mới đây, báo chí lại
loan tin chính quyền Quảng Ngăi thuê một công ty của
Trung Quốc (CPG, có trụ sở chính tại Singapore) làm dự
án quy hoạch huyện đảo Lư Sơn, nơi
được xem là có vị trí trọng yếu ở mặt
trận Biển Đông. Bị hỏi, giới chức ở
tỉnh Quảng Ngăi trả lời là họ không biết vai
tṛ của Trung Quốc trong tập đoàn ấy, hơn nữa,
họ c̣n nhấn mạnh là họ làm theo đề nghị
từ "các
đơn vị cấp trên".
Chưa hết. Ông Lê Viết Chữ, Bí thư tỉnh uỷ,
c̣n nói thêm: "Quan
điểm cá nhân của tôi th́ tôi không phân biệt tập
đoàn đó thuộc quốc gia nào, tất cả chúng ta
đều có quan hệ với nhau hết".
Lời tuyên bố của ông Lê Viết Chữ
rơ ràng là sai. Trong
quan hệ với Việt Nam, không phải nước nào cũng
như nước nào. Với
các nước khác, kinh tế chỉ là kinh tế. Nhưng
với Trung Quốc th́ khác. Trung Quốc đă từng đánh
chiếm Hoàng Sa của Việt Nam vào năm 1974. Trung Quốc
cũng đă chiếm bảy ḥn đảo và băi đá ngầm
ở Trường Sa vào năm 1988. Trung Quốc đă từng
xua quân tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam vào
năm 1979. Trung Quốc đă từng đưa giàn khoan
HĐ981 vào thăm ḍ ngay trên thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào
năm 2014. Trung Quốc cũng đă từng ngang ngược
cho Biển Đông là thuộc chủ quyền của họ,
là "sân sau" của
họ. Đó là những chuyện trong quá khứ. Lại là
quá khứ không xa xôi ǵ lắm. Trong tương lai, ai cũng
biết rơ không sớm th́ muộn, Trung Quốc cũng sẽ
tuyên bố vùng nhận dạng hàng không trên con đường
9 đoạn vốn trùm lấp lên phần lớn Biển
Đông của Việt Nam. Nói cách khác, cụ thể hơn:
Nếu Trung Quốc không có ư định đánh chiếm
lănh thổ Việt Nam th́ họ cũng sẽ t́m mọi
cách để chiếm đoạt Biển Đông của
Việt Nam. Điều đó, trên thế giới, hầu
như không ai nghi ngờ cả. Vậy tại sao chính quyền
Việt Nam lại không biết, lại vẫn tiếp tục
bất cẩn?
Theo tôi, có 3 lư do chính:
Thứ nhất là người ta bị
Trung Quốc mua chuộc. Có hai yếu tố khiến khả
năng này là hiện thực: Một mặt, Trung Quốc vẫn
nổi tiếng xưa nay về các việc đút lót trong
quan hệ ngoại giao với các nước khác; mặt
khác, cán bộ các cấp Việt Nam từ trước
đến nay cũng nổi tiếng về việc nhận
hối lộ. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn
các dự án của Việt Nam đều lọt vào tay các
nhà thầu Trung Quốc: tiền "bôi trơn" và "lại
quả" của
họ cao.
Thứ hai, người ta thành thực tin
là Trung Quốc tốt, là Trung Quốc sẽ không bao giờ
đánh Việt Nam, do đó, người ta không cần phải
cảnh giác hay lo lắng ǵ trong các quan hệ với Trung Quốc
cả. Sự tin tưởng này, nếu có, cũng chỉ
là hệ quả của công tác tuyên truyền của đảng
Cộng sản và chính quyền trung ương vốn tập
trung vào khẩu hiệu "4 tốt" và "16 chữ
vàng" lúc nào cũng ra rả trên các phương
tiện truyền thông đại chúng. Từ sau vụ giàn
khoan HĐ981 đến nay, các khẩu hiệu này ít
được nhắc nhở, nhưng giới lănh đạo
Việt Nam vẫn chưa dám nói thẳng Trung Quốc là một
sự đe doạ lớn đối với chủ quyền
của Việt Nam trên biển đảo. Tin tức về các âm mưu xâm lấn của
Trung Quốc cũng như các hành động ngang ngược
của Trung Quốc như truy đuổi các thuyền
đánh cá Việt Nam ngay trong hải phận của Việt
Nam ít được đề cập. Xuất hiện trên
các phương tiện truyền thông vẫn là h́nh ảnh
Trung Quốc như một đối tác chiến lược
gần gũi của Việt Nam. Dưới ảnh hưởng
của việc tuyên truyền như thế, một số
người Việt Nam, kể cả các viên chức cán bộ,
từ trung ương xuống địa phương, nghĩ
sai về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, từ
đó, đâm ra bất cẩn trước
âm mưu bá quyền của Trung Quốc không có ǵ là khó
hiểu.
Thứ ba, người ta không tin cũng
không bị mua chuộc, nhưng người ta mặc kệ,
coi đó là chuyện của người khác, không dính líu ǵ
đến ḿnh cả. Có lẽ đây là tâm trạng khá phổ
biến ở Việt Nam. Trong những người bạn
ở Việt Nam thỉnh thoảng tôi tiếp xúc, nhiều
người hiểu rất rơ những nguy cơ đến
từ Trung Quốc nhưng khi nh́n thấy giới lănh đạo
bất động, họ cũng không quan tâm, xem việc Việt
Nam rơi vào quỹ đạo thống trị của Trung
Quốc là chuyện đă rồi và không thể đảo
ngược được. Từ bất cần, nếu
có chút quyền hành, họ cũng trở thành bất cẩn.
Dù v́ bất cứ lư do ǵ, những sự
thiếu cảnh giác như thế cũng là một điều
rất đáng ngạc nhiên. Một trong những truyền
thuyết cổ và phổ biến nhất của Việt
Nam, chuyện Mỵ Châu và Trọng Thuỷ, đă đặt
vấn đề cảnh giác trong quan hệ với Trung Quốc.
Những năm chiến tranh, mặc dù quan hệ giữa Bắc
Việt và Trung Quốc vẫn c̣n êm thắm, Tố Hữu
vẫn nhớ bài học ấy và từng nhắn nhủ:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm
chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ư trao tay giặc
Nên nỗi
cơ đồ đắm biển sâu ..
Sự bất cẩn hay thiếu cảnh
giác của
chính quyền Việt Nam hiện nay chắc chắn không phải
v́ chuyện "trái tim lầm
chỗ để trên đầu". Nhưng nếu không phải "trái tim" th́ là
cái ǵ? Theo tôi, không chừng chỉ có tính ích kỷ và sự ngu dốt.
NGUYỄN HƯNG QUỐC
(Nguyễn Ngọc Sơn sưu tầm, Ngọc Trân chuyển)