BẦU BÍ MỘT GIÀN
(Tràm Cà Mau)
Bầu
Bí Một Giàn là truyện ngắn hóm hỉnh với nhiều
t́nh tiết cười ra nước mắt. Gia đ́nh anh
Phàn cũng như hàng triệu người Việt tị nạn
khác, rời quê hương đến vùng đất tự
do để có cuộc sống xứng đáng với số
phận con người: được tự do, được
yêu thương, được tôn trọng và được
quư mến. Tuy nhiên, v́ phải sống nhiều năm dưới
sự cai trị, giáo dục nhồi sọ của cộng
sản, và chịu ảnh hưởng của chiến tranh
nên anh Phàn và gia đ́nh có lối hành xử không thích hợp
trong một xă hội văn minh. Bởi những hệ lụy
của nền văn hóa xă hội chủ nghĩa, anh Phàn và
gia đ́nh luôn nghi ngờ ḷng tốt của người
đồng hương và các cơ quan từ thiện. Tất
cả t́nh tiết trong truyện đă diễn ra trong khung cảnh
cười ra nước mắt. Có phải chăng tựa
đề của truyện nầy đă được
mượn ư từ câu ca dao:
"Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn"
Tác giả
đă ngầm nhắc rằng dù vạn dặm xa quê,
nhưng chúng ta vẫn có cùng chung gịng máu Việt. Đùm bọc
yêu thương cần sự nhẫn nhục, ḷng nhân từ,
và sự cảm thông nhất là với những người
có cùng tiếng nói, mầu da. (HUỲNH KIM KHÁNH)
****
Người xưa viết rằng, tha
hương mà gặp người quen biết cũ là một
trong bốn cái thú lớn nhất trong đời. Tôi nghĩ,
cần chi phải là quen biết cũ, tha hương mà gặp
một đồng hương, cũng mừng đến
lịm người đi chứ. Đó là trường hợp
của anh Hy và tôi, khi gặp nhau trong cái thành phố Morris nhỏ
bé, có dân số bảy ngàn người nầy, vào năm
1981. Tôi v́ cơm áo, mà trôi dạt đến đây, gặp
anh Hy. Anh được định cư trong thành phố
nầy đă hơn một năm. Thế là có được
hai gia đ́nh Việt Nam trong thành phố nhỏ hiền ḥa
nầy. Không quen biết trước, mà chúng tôi quư và thân thiết
nhau c̣n hơn cả anh em ruột thịt. Gia đ́nh anh Hy
có năm người, bà mẹ già, hai vợ chồng anh và
hai đứa con nhỏ. Lần đầu tiên gặp chúng
tôi, bà cụ mẹ anh Hy cầm tay vợ tôi mà mắt
rưng rưng v́ mừng, bà cứ vuốt ve lưng bàn tay
vợ tôi măi. Vợ tôi thân thiết ngồi ép sát vào bà. Bà
cười nói sung sướng, như vợ tôi là đứa
con gái của bà thất lạc nhiều năm mới t́m lại
được. Gặp người đồng hương
là sung sướng thế đó. Chị vợ anh Hy th́ không
dấu được niềm vui, cười nói tíu tít, và
nh́n hai vợ chồng tôi với ánh mắt đầy thiện
cảm. Anh Hy hiền lành, ít nói, nhưng nụ cười
trên môi nở măi không tàn. Hai đứa con chưa biết
ǵ, chạy nhảy, reo ḥ. Gia đ́nh anh Hy sung sướng,
chúng tôi cũng hân hoan mừng.
Một buổi tối, tôi đi làm về,
được điện thoại của anh Hy, anh hớn
hở báo cho tôi biết rằng, sắp có một gia
đ́nh Việt Nam tị nạn đến thành phố nầy.
Giọng anh vui mừng ríu rít. Ông bà người Mỹ bảo
trợ mới thông báo cho anh biết. Ông bà muốn anh xếp
đặt th́ giờ, để cùng mấy người
trong họ đạo đi đón người mới
đến, vào thứ tư tuần tới. Tôi vội vă
báo tin mừng cho vợ , và trong ḷng nghe lâng lâng vui. Có thêm
càng đông đồng hương, càng đở buồn,
và thỉnh thoảng qua lại chuyện tṛ cũng bớt
cô đơn nơi quê người. Vợ tôi bàn thêm, nếu
thuận tiện, th́ chúng tôi cùng đi đón gia đ́nh Việt
Nam tị nạn nầy cho vui, và tỏ cái t́nh thân thiết
lúc ban đầu.
Suốt trong tuần, vợ anh Hy và vợ
tôi soạn nồi niêu, chén bát, ly tách, muỗng đủa,
chia bớt các thứ cần dùng trong nhà, để dành mà tặng
cho gia đ́nh mới đến. Mỗi khi bà Mỹ bảo
trợ tiết lộ một tin tức ǵ về người
sắp đến, chị vợ anh Hy vội vă điện
thoại báo cho chúng tôi biết ngay.
Máy bay sẽ chở gia đ́nh người
tị nạn đến phi trường Chicago vào hôm thứ
tư, lúc mười một giờ đêm. Hôm đó anh Hy bị
cảm mạo, lên cơn sốt, thân nhiệt nóng hơn một
trăm độ F. Hai ông bà người Mỹ bảo trợ
kêu điện thoại cho tôi lúc bảy giờ tối, khi
tôi mới đi làm việc về. Họ yêu cầu tôi thay
anh Hy, đi cùng họ, để đón người tị
nạn mới tới. Bỏ tắm rửa, tôi ăn vội
vă, để khởi hành lúc tám giờ rưỡi, pḥng khi
đường sá có ǵ bất trắc. Ông Mỹ bảo trợ
tên là Gary có vợ là bà Eva, cả hai ghé nhà tôi để
hướng dẫn và chỉ đường trên bản
đồ. Tôi cũng run lắm, v́ chưa bao giờ đi
đến phi trường nầy, và thấy cái bản
đồ ghi chằng chịt đường sá đan
nhau, như cái nùi chỉ rối. Ông bảo tôi chạy bám
sát xe ông, nhưng chưa được mười phút th́
đă lạc nhau. Khi cách phi trường ba mươi dặm,
th́ xa lộ bị tắc nghẽn, v́ chiếc xe vận tải
hàng hóa bị lật, gây tai nạn dính chùm. Xa lộ bị
đóng hoàn toàn. Khi vào đến phi trường, tôi bị
lạc đường hai lần, chạy quanh măi mới
vào được nhà đậu xe. Ông bà Gary cũng đi lạc,
và đến sau tôi. Tuyết rơi quá dày, nên máy bay cũng
đến trể. Ông Gary cầm cái bảng lớn, đề
tên người chủ gia đ́nh là Phan Ly, đưa lên cao
trước cỗng đi ra của hành khách. Gặp dáng
người Á Đông nào, tôi cũng chăm chắm ḍm kỹ.
Cho đến khi hành khách không c̣n ai cả, th́ ông bà Gary bối
rối. Ông chạy đi hỏi hăng máy bay, họ bay xác nhận
là có gia đ́nh anh Phàn trên chuyến máy bay vừa rồi. Hai
vợ chồng ông Gary và tôi, cầm cái bảng đề
tên anh Phàn đi quanh các ghế chờ trên phi trường,
thấy gia đ́nh Á Đông nào, cũng ch́a cái bảng tên ra
trước mặt họ, để ḍ hỏi. Đi quanh
ba ṿng, mà không t́m được, ông Gary nhờ loa kêu, hỏi
gia đ́nh anh Phàn ở đâu, cho biết để người
bảo trợ đón về. Cũng vô hiệu. Đi t́m gia
đ́nh anh Phàn cả tiếng đồng hồ mà không kết
quả, cả ba người chúng tôi ngồi xuống ghế
nghỉ một chốc với ḷng vô cùng chán năn. Tôi bảo
hai ông bà Gary ngồi chờ, tôi cầm cái bảng tên đi
t́m một lần nữa. Tôi đi ḍ t́m tên từng gia
đ́nh trên cái túi ni lông mà họ xách trên tay, của cơ
quan ICM phát, khi họ cho mượn tiền máy bay. Tôi đến
gần một anh mang cà vạt đỏ, áo vét ba mảnh
bên trong, bên ngoài khoác áo bành tô bằng dạ. Tôi nh́n tận
cái túi, và thấy loáng thoáng tên Phàn, tôi đánh bạo hỏi:
"Anh là Phàn phải không"
"Vâng. Tôi tên là Phàn, anh là ai?"
"Tôi đi theo hai ông bà bảo trợ
người Mỹ đến đón gia đ́nh anh. Sao năy giờ
chúng tôi đi qua đây nhiều lần, đưa cái bảng
tên anh ra, mà anh lại ngồi im?" - Tôi nói với giọng hơi mất kiên
nhẫn.
Anh Phàn chỉ vào cái bảng và nói:
"Cái bảng nầy ấy à? Thấy ông
Mỹ ch́a ra trước mặt tôi ba lần, nhưng
đâu phải tên tôi mà nhận. Tên ông Ly nào đó mà. Tôi là
Phàn".
Tôi cười, nói nhỏ nhẹ:
"Đây là tên anh . Theo lối Mỹ, ghi
tên trước, họ sau".
"Ngược ngạo thế th́ "bố giời" mới
biết được".
"Thế th́ loa kêu tên anh nhiều lần,
sao anh cũng chẳng trả lời?"
"Nghe được cái quái ǵ đâu?"
Tôi chợt nghĩ ra, nếu người
ta có gọi tên tôi trên loa, chưa chắc tôi đă nghe kịp,
huống chi anh Phàn là người mới đến. Tôi quay
lại báo tin cho hai ông bà Gary, và giải thích tại sao không
t́m ra. Ông bà Gary mừng, và tôi đọc được sự
kiên nhẫn, chịu đựng của hai ông bà, khi đêm
khuya không ngủ, tuyết đổ, lái xe cả trăm
đặm, đi đón một gia đ́nh ngoại quốc,
khác màu da, khác chủng tộc, không hề bà con, không hề
quen biết. Và trước đó nữa, phải làm bao
nhiêu giấy tờ, mất bao nhiêu bao nhiêu th́ giờ, tốn
kém đủ thứ. Chỉ v́ trái tim biết thương
người mà thôi.
Gia đ́nh anh Phàn có hai vợ chồng,
năm đứa con, đứa đầu mười bốn
tuổi, đứa út c̣n ẵm trên tay. Anh Phàn người
da sậm, gầy ốm, cái má thóp, răng cỏ đen
điu v́ khói thuốc. Vợ anh thấp, trắng hơn, có
bề ngang. Chị mang váy đầm dạ xám, áo vét, ngoài
khoác áo bành tô cứng ngắc. Gia
đ́nh anh c̣n có một bà già mù, mang váy nâu, đầu quấn
khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, trên mắt có
che miếng vải đen, gợi tôi nhớ rơ h́nh vẽ
trong cuốn sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày c̣n bé tôi
hay đọc. Bà cụ y hệt cái h́nh vẽ bà già mù trong
sách. Trang phục của vợ chồng anh Phàn có vẻ sang
trọng hơn cả ông bà bảo trợ nhiều,
nhưng cũng không dấu được vẻ quê mùa.
Hành lư được chất lên cao trên bốn
chiếc xe đẩy. Ông Gary , tôi, vợ anh Phàn, và cháu bé
gái mười bốn tuổi, mỗi người đẩy
một chiếc xe. Anh Phàn đi tay không thong thả, rút thuốc
lá châm mồi và hút trong hành lang, nhả khói mù làm bà Eva ho sặc.
(Dạo nầy, chưa có luật gắt gao cấm hút thuốc
nơi công cộng). Bà Eva đi dang xa ra khỏi anh Phàn, và
ghé lại chiếc xe của cháu bé gái, phụ đẩy.
Thấy đi măi trong hành lang dài, anh Phàn hất đầu hỏi
tôi:
"Sao không kêu tài xế lái xe vào gần
đây, mà phải đi xa quá vậy?"
Tôi cười và trả lời:
"Tài xế? Tài xế là ông Gary và tôi
đây. Xe đậu trong ga-ra là nơi gần nhất rồi,
không có nơi nào gần hơn nữa".
Anh Phàn hỏi tôi:
"Anh làm tài xế cho ông bà Mỹ nầy?
Lương trả có khá không?"
"Không, tôi làm việc cho công ty tư vấn.
Ông bà Mỹ nầy nhờ tôi đi đón, phụ
đưa gia đ́nh anh về. Đường xa, anh có mệt
lắm không?"
"Cũng mệt, nhưng chẳng can ǵ
cả".
"Có lẽ anh nên đẩy xe giúp cho cháu
bé th́ hơn" - Tôi nói.
"Kệ nó, để nó làm việc cho
quen"
Hành lư quá nhiều, hai chiếc xe hơi
không đủ chở. May mắn ông Gary gặp người
quen, ông gởi bạn mang về nhà, hẹn ngày sau sẽ
đến lấy.
Vào ngày chủ nhật đầu tiên của
anh chị Phàn trên đất Mỹ, chúng tôi tổ chức
một bữa tiệc lớn để chào mừng và
đăi đồng hương. Anh Hy và tôi, mỗi gia
đ́nh đóng bảy mươi lăm đồng làm chi
phí. Chị Hy và vợ tôi trổ tài nấu ăn, rộn
ràng nấu nướng từ sáng sớm tinh sương.
Anh Hy kê thêm thùng giấy làm bàn, mượn thêm ghế của
các gia đ́nh bên cạnh. Chai rượu nho hồng đậm
đặt trên bàn bên cạnh b́nh hoa giả. Anh Hy và tôi lái xe
đến tận nhà anh Phàn đón tất cả mọi
người, cả cháu bé c̣n bế trên tay. Ba gia đ́nh vui
vẻ nhập tiệc. Anh Phàn kêu bà cụ già mù bằng d́.
Tôi cảm phục cái t́nh gia đ́nh của anh Phàn, khi
đem bà d́ mù ḷa di vượt biển. Anh Phàn uống
rượu rượu nho như uống nước ngọt,
tu một hơi hết nửa ly lớn. Anh nói:
"Rượu
nầy nhạt lắm. Có đế trắng hoặc rượu
Tây mới đă miệng".
Anh Hy nghe vậy, vào bên trong lục tủ,
lôi ra nữa chai Vodka, rót vào ly anh Phàn. Anh Phàn uống một
hớp nói:
"Cái nầy mới thật là rượu".
Khi đă ngà ngà, anh Phàn hăng say kể về
cuộc chiến anh hùng chống Mỹ cứu nước
của nhân dân ta. Hạ máy bay Con Ma, bắt giặc lái. Máy
bay của ta núp trong mây, chờ máy bay Mỹ đến th́ bắn
hạ rụng như sung chín. Anh kể công ơn bác, đảng,
văn minh tiên tiến. Những chuyện nầy, tôi đă
nghe nhiều lần khi c̣n ở bên nhà. Chị vợ anh Hy
giận, nói lớn, hỏi sao anh không ở lại với
bác đảng anh hùng của anh, mà lại đi qua Mỹ
làm chi. Anh trả lời là sống với bọn đó
không được, sống không nổi, đời sống
thua con chó, khoai sắn c̣n không có mà ăn, chứ đừng
nói đến cơm.
Khi vợ anh Phàn khoe cái hay của ông chồng,
chị nói:
"Ông nhà tôi thế chứ khảnh ăn
lắm. Chỉ thích ăn quà, chứ không thích ăn cơm".
Chị vợ anh Hy nói:
"Sống với bác đảng, đói
cho ră họng ra, ở đó mà thích quà không thích cơm. Nói
làm sao mà tôi không hiểu chi cả".
Mỗi tuần, các bà trong hội nhà thờ
đến đưa vợ anh Phàn đi chợ hai lần.
Họ nhờ chị Hy đi theo để hướng dẫn
và thông dịch. Mỗi lần đi chợ về, th́ chị
vợ anh Hy cũng kêu điện thoại cho vợ tôi
để than văn:
"Chị
biết không, lần nào em xấu hổ muốn độn
thổ quách. Chị ấy lựa những tảng thịt
ḅ đắt tiền nhất, lấy hai ba tảng to tướng.
Lựa các thức ăn ngon nhất, đắt nhất
trong chợ, chất đầy một xe cao nghệu. Em
đoan chắc với chị rằng, cái bà bảo trợ
chưa bao giờ dám đụng đến các thứ thịt
đắt tiền đó. Bà bảo trợ cứ chỉ
vào thịt gà, thịt heo, mà chị ấy lờ đi. Em
thấy cái mặt bà bảo trợ nhăn như cái bị
rách. Khi trả tiền, mặt mấy bà tái ngắt v́ số
tiền phải trả".
Có lần vợ anh Hy khuyên vợ anh Phàn rằng,
nên chọn các thức ăn có giá trung b́nh hoặc rẻ mà
mua, v́ chính ngay các bà bảo trợ, cũng rất ít khi dám
ăn các thứ đắt tiền đó. Vợ anh Phàn lắc
đầu mà nói rằng, ḿnh không trả tiền, tội ǵ
không lựa món ngon mà ăn. Từ đó , vợ anh Hy sinh ra
có thành kiến với gia đ́nh anh Phàn.
Các ông bà bảo trợ trong nhà thờ rất
chu đáo. Mua cho các cháu bé áo quần, giày vớ, áo lót chống
lạnh, áo khoác đi tuyết, sách vở, viết ch́, viết
màu, túi xách mang lưng để đi học, ghi tên cho các
cháu đến trường. Khi họ đến thông báo
cho gia đ́nh anh Phàn, để hẹn ngày đem các cháu
đến trường, th́ anh Phàn phản đối, nhất
quyết không cho cháu gái đầu mười bốn tuổi
đi học. Anh lấy lư do là nhà đông con dại, cháu nầy
đă lớn, cần ở nhà giữ em, làm việc vặt
, giúp mẹ nấu nướng. Ba bà bảo trợ cố
gắng giải thích, qua sự thông dịch lơm bơm của vợ
anh Hy, rằng luật pháp ở Mỹ bắt buộc trẻ
con dưới mười tám tuổi phải đi học.
Nếu không được đi học, th́ cha mẹ phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chị vợ
anh Hy cũng chỉ hiểu lơ mơ lời các bà, và
thông dịch cho anh Phàn. Anh Phàn cứ lắc đầu, nhất
quyết không chấp nhận lời khẩn cầu của
các bà Mỹ, cho cháu lớn đi học. Các bà cứ thuyết
phục măi làm anh Phàn nổi giận nói gằn với chị
vợ anh Hy :
"Con của tôi sinh ra, tôi muốn cho nó
đi học hay không là quyền của tôi. Sao các bà ấy cứ
muốn xía vào chuyện riêng của chúng tôi măi thế".
"Pháp luật bắt buộc cho trẻ
con đi học. Không phải các bà muốn đâu"
"Pháp luật nào mà lạ thế? Tùy hoàn
cảnh gia đ́nh mỗi người, mà cho con đi học.
Nhà nước nào mà can thiệp vào? Đây là xứ tự
do mà".
"Đúng, xứ tự do, nhưng không
phải cha mẹ muốn làm ǵ th́ làm. Pháp luật bảo vệ
con trẻ dưới tuổi trưởng thành".
"Thôi, chị đừng nói nữa, tôi
đă nhất quyết rồi. Tôi đă có phương án
riêng cho gia đ́nh tôi. Vô ích. Chị đừng tuyên truyền
tôi nữa".
Vợ anh Hy tức cành hông, muốn khóc v́
không phá vỡ được cái vỏ cứng rắn của
anh Phàn. Chị cùng ba bà Mỹ chán nản ra về. Tối
hôm đó, bà Eva điện thoại cho tôi, nhờ giải
thích cho anh Phàn hiểu luật pháp Mỹ .
Tôi chưa kịp kêu cho anh Phàn để giải
thích, th́ điện thoại reo. Anh Phàn ở đầu dây
bên kia. Anh than phiền là các bà Mỹ, và vợ anh Hy cứ
ép anh, buộc phải cho đứa con gái đầu đi
học. Anh nói là họ làm áp lực anh, họ vô lư. C̣n bày
đặt ra là luật lệ bắt buộc để dọa
anh. Nghe giọng nói của anh, tôi cũng phải chùn lại,
v́ biết rất khó thuyết phục anh trong lúc nầy.
Tôi chỉ ừ è cho qua chuyện, và giả vờ theo phe
anh, mà nói :
"Anh nói đúng, mỗi gia đ́nh có hoàn
cảnh riêng, giải quyết theo cách riêng. Không ai có quyền
ép ai cả. Về luật lệ xứ nầy, th́ tôi cũng
không được rơ lắm. Hay là anh thử kêu điện
thoại qua Oklahoma hỏi những người anh quen biết
từ ngoài Bắc, mà họ đă đến xứ nầy
từ lâu rồi, để biết thêm cho rơ. Biết chắc
luật lệ, mà thi hành. Không ai có quyền ép ḿnh theo ư họ,
nhưng ḿnh cũng không nên làm trái luật. Có ǵ th́ anh cho tôi
biết với".
Không biết anh có kêu điện thoại
cho người quen ở Oklahoma hay không, nhưng sau cùng, anh
Phàn cũng phải nhượng bộ yêu sách của nhà thờ,
để cho cháu gái mười bốn tuổi đi học.
Anh nói rằng : "Thôi, th́
tôi cũng tạm thời lui một bước, ḿnh mới
đến đây mà căng quá cũng không nên".
Các ông bà bảo trợ để anh chị
Phàn nghỉ ngơi cho hoàn hồn trong hai tháng. Trời tuyết
đổ bên ngoài, trong nhà đóng cửa kín mít, ḷ sưởi
mở tối đa, anh chị và bà cụ bó gối ngồi
trên ghế bành . Cái máy truyền h́nh nhấp nhem, nói tiếng
Mỹ ồn ào. Anh Phàn bảo rằng, không đi tù, mà cũng
giống như bị giam lỏng, bị quản chế.
Ra ngoài th́ trời lạnh, tuyết ngập, đi gần cũng
không biết đi đâu, đi xa th́ không có xe cộ.
Khi hội nhà thờ muốn kiếm việc
cho anh chị làm, th́ anh gạt ngang. Anh nói với ông bà bảo
trợ, qua thông dịch của vợ tôi:
"Chưa biết nghe, biết nói chi cả
chưa thể đi làm được".
Bà bảo trợ thuyết phục:
"Công việc cần làm, không cần nói,
cũng không cần nghe".
"Khi nào chúng tôi nói và nghe giỏi như
các bà, chúng tôi sẽ đi làm việc. Gấp làm chi. Tôi cần
đi học tiếng Anh cho giỏi".
Vợ tôi bảo rằng, dù anh học thêm
năm ba chục năm nữa, cũng không thể nói và
nghe bằng họ được. Đi làm việc, chỉ
cần cố gắng làm. C̣n nghe và nói, th́ ai cũng lơ
mơ, nghe một phần, đoán một phần. Ḿnh không
lớn lên tại Mỹ, th́ hiếm hoi lắm mới nghe
và nói giỏi tiếng Mỹ. Phải vừa làm, vừa học.
Nhưng anh Phàn nhất quyết rằng, chưa nghe,
chưa nói giỏi th́ chưa chịu đi làm. Nghe vậy,
mấy bà trong họ đạo, ngày nào cũng thay phiên nhau
đến nhà anh Phàn dạy tiếng Mỹ. Mỗi ngày dạy
bốn giờ liên tiếp. Các ông bà Mỹ tin tưởng rằng,
trong ṿng ít tháng, th́ cả nhà sẽ giỏi tiếng Mỹ,
không giỏi bằng họ, th́ cũng một tám một
mười. Trong những buổi học tiếng Mỹ,
anh Phàn và vợ thấy buồn ngủ khủng khiếp, cứ
ráng chống mắt lên, mà cái đầu cứ
gục lia lịa. Anh chị uống trà đậm chống
cơn buồn ngủ cũng không hiệu quả. Anh chị
thấy những buổi học nầy, như cực h́nh,
như tra tấn, và nản ḷng vô cùng. Học được
phút trước, th́ phút sau quên béng đi. Không nhớ ǵ cả.
Anh chị kết luận, là cái óc của anh chị đă
hư rồi, không thể học được ǵ nữa.
Sau một tháng dạy liên tục, các bà Mỹ cũng nản
ḷng, bỏ lớp dần dần, và không đến dạy
nữa. Kết quả vượt bực. Anh Phàn th́ chỉ
ấp úng nói được hai chữ "yes" và "no" , vợ
anh giỏi hơn, nói được rất ngọng thêm chữ
"thank you". Vợ
tôi cho rằng, các bà Mỹ không có phương pháp sư phạm,
nên dạy không kết quả.
Từ đó, anh Phàn mới chấp nhận
là không thể học nói học nghe cho giỏi bằng các
ông bà Mỹ được, và anh chị cắn răng
để cho nhà thờ thu xếp việc làm cho anh chị.
Mỗi buổi sáng tinh sương, anh Hy
đến chở anh Phàn đi làm, buổi chiều chở
về tận nhà. Có những buổi chiều, khi tan sở,
xe anh Hy là một đống tuyết khổng lồ, anh phải
vất vả đào tuyết moi xe ra. Trong khi anh Hy quần
thảo với đống tuyết, với những mảng
nước đá đông cứng trên kiếng xe, th́ anh Phàn
đứng hút thuốc lạnh lùng nh́n. Anh Hy bất b́nh,
nhưng không nói. Một lần, mệt quá, anh Hy không nín
được, quay qua hỏi anh Phàn:
"Anh không giúp tôi một tay dọn tuyết
cho mau mà ra về?"
"Xe anh chứ có phải xe tôi đâu!"
"Nhưng .. anh có đi trên xe nầy không?"
"Anh lái xe mà, đâu phải việc của
tôi"
Anh Hy giận
lắm, im lặng, và không nói với anh Phàn trong nhiều
ngày liên tiếp. Anh Hy nói với tôi rằng, v́ đă lỡ
nhận lời gởi gắm của bà Mỹ bảo trợ,
nếu không, th́ anh chẳng chở anh Phàn đi làm nữa.
Tôi an ủi anh Hy, khuyên anh đừng giận anh Phàn, v́
đồng hương c̣n có ai đâu, giận nhau nữa
th́ c̣n ai. Nhiều khi anh Phàn cự nự anh Hy v́ đă đến
đón sớm hơn giờ quy định. Những khi nầy,
anh Phàn rề rà cho anh Hy phải ngồi chờ thật lâu
trong xe dưới tuyết đổ. Có lần anh Phàn ngần
ngừ hỏi:
"Tôi hỏi thật, anh đừng dấu
nhé. Nhà thờ trả cho anh mỗi tháng bao nhiêu, để
anh đưa đón tôi đi làm ?"
Anh Hy nghe mà buồn cười, hỏi lại:
"Anh hỏi làm chi vậy?"
"Hỏi cho biết bao nhiêu, nếu số
tiền đó khá, th́ tôi xin lănh tiền, và kiếm chiếc
xe đạp đi làm cũng được."
"Không có xu nào cả. Tôi chở anh miễn
phí, v́ anh là đồng hương, và v́ tôi cũng đă từng
qua thời kỳ mới đến định cư
như anh. Đáng ra anh phải chia tiền xăng, tiền
hao ṃn xe với tôi mới phải lẽ."
"Tôi không tin."
"Không tin th́ anh thử hỏi mấy ông
bà bảo trợ xem.
Anh Phàn cười mũi:
"Có hỏi mấy ông bà Mỹ, th́ vợ
anh hay anh phiên dịch. Anh chị muốn nói chi mà không
được. Thà đừng hỏi."
Anh Hy buồn lắm, nhưng không nỡ
nói nặng lời, anh chỉ thở dài:
"Năm ba năm nữa, nếu nhớ
lại chuyện nầy, anh sẽ biết rơ sự thực."
Mỗi
ngày, có xe nhà trường đến tận nhà chở ba
cháu bé đi học. Cháu lớn học ở trường
xa hơn, hai cháu nhỏ học trường tiểu học
gần nhà. Anh Phàn nói rằng, nhờ đấu tranh gay gắt
với nhà thờ về vụ cho đứa con lớn
đi học, mà nhà thờ phải nhượng bộ, bằng
cách đem xe đón tận nhà, đưa luôn ba đứa
đi học. Chị vợ anh Hy giải thích rằng, trẻ
con ở thành phố nầy, em nào cũng được vậy,
không riêng ǵ các cháu con anh Phàn. Anh Phàn không tin và chỉ cười
ruồi đáp lại.
Mùa đông miền Trung Bắc nước
Mỹ, như mọi ngày đông khác, tuyết đổ ngập
đường trắng xóa. Xe cào và thổi tuyết hoạt
động liên miên. Muối được rải ra những
con đường chính cho xe chạy. Một cháu trai nhỏ
con anh Phàn đang ngồi trong lớp học, bỗng đứng
dậy ôm sách vở ra về. Cô giáo cản lại. Hai bên
trao đổi vài câu. Không ai hiểu ai . Cô giáo chỉ ra sân
đầy tuyết trắng chất thành đống cao,
như muốn nói cho em hiểu rằng không thể đi
được, và dắt em về lại chỗ ngồi.
Em rươm rướm nước mắt, và đứng
dậy, nhất định ra về. Cản măi không
được, cô giáo kêu bà hiệu trưởng. Bà xuống
lớp, khuyên bảo em. Hai bên cũng không hiểu nhau. Bà
không thể để em bé bảy tuổi ra về một
ḿnh trong gió hú, trong tuyết cao chất đầy như thế.
Bà cầm tay giữ em bé lại. Em khóc lớn. Hai bà giáo nh́n
nhau thất vọng, không biết phải làm ǵ. Bỗng bà
hiệu trưởng nhớ là em bé có con chị học trên
nó hai lớp. Bà cho người đi kêu chị nó xuống.
Con chị xuống gặp đứa em, nói vài câu. Xong, con
chị nắm tay thằng em dẫn nó ra về. Hai bà giáo vội
cản lại. Kéo hai em vào bên trong lớp. Cả hai đứa
đều khóc ṛng. Bà hiệu trưởng dẫn hai chị
em đứa bé về pḥng, và kêu điện thoại cho bà
Mỹ trong gia đ́nh bảo trợ, nhờ giúp đỡ.
Bà bảo trợ vào trường ngay. Bà dắt hai chị
em về lớp, hai đứa không chịu đi, mà nhất
định kéo nhau ra sân, để đi bộ về nhà.
Ba bốn cô giáo họp lại bàn căi. Một hồi sau, bà bảo
trợ theo yêu cầu của các cô giáo, chạy xe đến
công ty anh Phàn đang làm, xin cho anh được tạm nghỉ,
đến trường giải quyết việc học của
hai cháu. Anh Hy phiên dịch cho anh Phàn biết, là hai cháu không chịu
học, mà đ̣i đi bộ giữa mưa tuyết, để
về nhà. Anh Phàn giận hầm hầm và nói với anh Hy :
"Con cái mất dạy. Đề tôi dến cho chúng vài bạt
tai, cho bớt biếng nhác". Anh Hy vội
vă níu anh Phàn lại, đặn ḍ: "Không được,
đánh trẻ con th́ cảnh sát c̣ng tay đó . Đừng dại
dột". Anh Phàn
hất tay anh Hy ra, và chưa dứt cơn giận: "Vợ
chồng anh được cái giỏi là hay hù họa tôi mà
thôi. Con cái mà không đánh cho sợ, th́ thành hư đốn.
Dạy con từ thuở nên ba". Anh Hy
biết khó thuyết phục anh Phàn, bèn nói vọng theo:
"Bớt nóng giận. Đừng đánh con, tội nghiệp.
Có chi th́ từ tốn, dạy bảo." Anh Hy sợ anh Phàn bị cảnh sát c̣ng
tay. Khi xe đến trường, anh Phàn hùng hổ, xăm
xăm đi theo bà Mỹ đến gặp hai đứa
con. Hai đứa bé mặt xám ngắt, trên mắt c̣n ướt
sũng lệ. Anh lớn giọng gằn hai đứa bé.
Sau vài câu trao đổi giữa ba cha con, mặt anh Phàn dịu
xuống, đến nắm tay hai đứa con, dắt
chúng ra về. Tuyết ngập trời, tuyết cao nghệu,
các bà giáo cản cha con anh lại không cho đi. Không ai cho anh
dắt trẻ con đi trong mưa tuyết lạnh lẽo
nầy. Anh kéo con đi, nhưng một ông giáo to lớn
như hộ pháp đang giữ tay hai em bé lại. Các bà giáo
đang vây quanh th́ líu lường xôn xao. Anh Phàn nh́n đám thầy
cô người Mỹ với ánh mắt tuyệt vọng, với
nét mặt anh nhăn nhúm đầy đau khổ, anh vội
cúi xuống, banh quần thằng bé ra, và ̣a khóc lớn. Cả
ba cha con cùng khóc vang thảm thiết. Mùi thối tha bốc
lên làm ngát mũi. Mấy ông bà giáo người Mỹ cùng ồ
lên một tiếng lớn, và cùng cười. Họ hiểu,
em bé đă phóng uế ra cả quần. Em đă không biết
nói sao để xin cô giáo đi ra pḥng vệ sinh, và cũng
không biết pḥng vệ sinh ở đâu, ráng sức cầm cự, và khi hết chịu
nổi, th́ phóng ra quần.
Mỗi buổi chiều, sau khi anh Phàn
đi làm về chừng một tiếng, th́ có bà Mỹ
đến chở vợ anh đi làm. Mấy ông bà Mỹ
xin cho chị được chân rửa bát tại một
khách sạn sang nhất trong tỉnh nhà. Khoảng mười
giờ rưỡi đêm, th́ mấy bà Mỹ trong họ
đạo chia phiên nhau, lái xe trong tuyết lạnh, đến
chở vợ anh Phàn về nhà. Mùa đông tỉnh lẻ, họ
ngủ sớm, mười giờ đêm là đă say giấc,
họ phải để đồng hồ báo thức. Vợ
tôi thường biểu lộ sự cảm phục ḷng tốt
của các bà trong họ đạo. Khuya lạnh, ai mà không
muốn thẳng giấc, phải thức dậy đội
tuyết ra đi là một cực h́nh. Có nhiều đêm, v́
lư do bất khả kháng, các bà kêu tôi, nhờ đến
đón chị Phàn về. Thời đó, dù sáng phải dậy
lúc năm giờ, để kịp năm giờ rưỡi
khởi hành, đi làm, nhưng tôi vui vẻ nhận lời
ngay, để cám ơn cái ḷng tốt của các bà Mỹ,
đă giúp cho người đồng hương của
tôi. Có lần tôi bị cảm mạo, chóng mặt, mà không
dám từ chối, sợ các bà cho là tôi không có ḷng. Mỗi lần
đi đón, th́ tôi phải cào tuyết trên xe hơn mười
lăm phút, chờ máy nóng mới đi được. Bởi
thế, nên thường đến trễ. Chi vợ anh
Phàn giận, không vui, ngồi trên xe mà không nói một lời
nào . Cả không một lời cám ơn, một lời chào
khi được đón và khi về thấu nhà. Có lần
chị nói :
"Nếu đón tôi, th́ đừng đến
trễ. Ngồi chờ rất nản."
"Tôi được các bà Mỹ kêu, nhờ
đi đón chị, th́ tôi đi ngay. Phải mang áo, phải
cào tuyết, phải chờ xe ấm máy, nên hơi trễ,
chị đừng buồn. Các bà người Mỹ tử
tế quá, đêm nào cũng đi đón chị trong lạnh
lẽo, mưa, tuyết."
"Tôi có nhờ các bà đâu. Họ bắt
tôi phải đi làm việc đấy chứ. Hừ, tử
tế!"
Tôi không buồn mà thương cho chị.
Có lẽ anh chị Phàn hiểu lầm rất nhiều về
ḷng tốt của những người chung quanh.
Một hôm, anh chị Phàn mời vợ chồng
tôi, và vợ chồng anh Hy đến nhà, để nhờ
chúng tôi một việc quan trọng. Hỏi anh chuyện ǵ,
anh nói sẽ cho biết sau. Anh Hy cười nói với tôi rằng,
sao cái lối nói nầy giống hệt cách thức của
công an nhà nước cộng sản hồi trước. Buổi
chiều đi làm việc về, có "giấy mời" tối
nay ra trụ sở công an, lư do "Cho biết sau. Cứ thế
mà run, mà thắc mắc, không biết có chuyện ǵ, không biết
có bị nhốt luôn hay không. Ra đi mà hồi hộp, mà dặn
ḍ vợ con phải làm ǵ để sinh sống, nếu bị
nhốt tù. Chúng tôi rủ nhau cùng qua nhà anh Phàn mà không phải
hồi hộp, không phải lo lắng. Anh Chị Phàn cùng bà
cụ đă ngồi sẵn trong pḥng khách. Họ rót nước
trà mời chúng tôi, xem bộ trịnh trọng, không lạt
lẽo như thường ngày. Sau một hồi thăm hỏi
xă giao, anh Phàn tằng hắng nói:
"Tôi mời các anh chị đến
đây, v́ không c̣n ai có thể giúp cho chúng tôi được
trong hoàn cảnh câm điếc này. Nhà thờ đă ăn chận
của gia đ́nh tôi mỗi tháng hơn hai ngàn đô. Tôi van
xin các anh chị, nói với các ông, các bà trong nhà thờ, cho
chúng tôi lại số tiền đó, để tôi làm vốn,
ra làm ăn buôn bán, kiếm sống, chứ đi làm cu-li cho
hăng sửa tàu, cho khách sạn, th́ biết bao giờ mới
ngóc đầu lên nỗi? Chúng tôi van lạy các anh chị,
xin giúp chúng tôi, và v́ thương các cháu nhỏ .."
Cả bốn người chúng tôi bàng hoàng,
không tin vào lỗ tai ḿnh. Chị vợ anh Hy ấp úng hỏi
lại:
"Nhà thờ ăn chận tiền của
anh chị? Mỗi tháng hơn hai ngàn ? Sao? Anh nói rơ hơn
được không?"
Anh Phàn gằn giọng, nói lớn, rơ ràng:
"Đừng vờ vĩnh. Gia đ́nh
tôi có tám người, nhà nước Mỹ cấp cho, ít nhất
cũng trên ba ngàn bạc mỗi tháng. Cứ cho tiền chợ,
tiền nhà mà mấy ông bà bảo trợ chi cho chúng tôi, chừng
mấy trăm là cùng, th́ cũng c̣n hơn hai ngàn đồng
mỗi tháng, chứ có ít đâu. Nếu không ăn chận,
th́ tiền đó để đâu, vào túi ai?"
Chị vợ anh Hy tái mặt, hỏi:
Ai nói với anh điều đó?
"Chúng tôi biết rơ lắm, không cần
ai nói cả."
Anh Hy ôn tồn giải thích rằng, anh cũng
đă đến đây trước. Anh rơ thủ tục.
Ban đầu hội nhà thờ thuê giúp nhà, cho tiền chợ,
mua cho đủ các thứ cần dùng hàng tháng. Rồi họ
kiếm việc cho ḿnh làm. Khi đă có lương tiền,
th́ ḿnh phải tự túc lấy. Đó là chính sách của nhà
thờ."
Mặt anh chị Phàn và cả cụ già
đều sậm lại. Giọng chị Phàn chua ngoét:
"Chúng tôi đâu có ngu. Tôi biết rơ hai
ông bà Hy nầy là những con c̣ mồi của nhà thờ. Biết
rơ đến mười mươi."
Anh Hy run lên v́ giận, chị Hy th́ mặt
đỏ bừng, thét lên the thé:
"Làm c̣ mồi
để được cái ǵ? Ăn nói như những kẻ
vô ân bạc nghĩa. Nói như vậy mà không biết tự
xấu hổ sao? Giao thiệp với hạng người
nầy thêm xấu hổ, thêm nhục nhă cho cái giống ṇi
ḿnh mà thôi."
Chị Hy kéo anh chồng đứng dậy,
giận dữ ra về. Anh Hy quay lại nói với anh Phàn:
"Tuần tới, ông tự kiếm lấy
phương tiện mà đi làm. Tôi không muốn làm mọi
cho ông nữa."
Vợ tôi cũng giận và muốn ra về
theo vợ chồng anh Hy. Tôi làm dấu, bảo ngồi yên.
Anh Phàn phân trần tiếp:
"Chuyện
trợ cấp cho người mới định cư là
luật của nhà nước Mỹ. Rơ ràng, không ai chối
được. Chúng tôi đă biết rơ từ hồi c̣n ở
trại tị nạn Hồng Kông. Nay nhà thờ ăn chận
tiền, rơ ràng thế, mà c̣n chối loanh quanh".
Tôi thấy tội nghiệp cho vợ chồng
anh Phàn, v́ hiểu lầm, nên có nhiều suy nghĩ và hành
động đáng tiếc. Tôi cũng không dám nói thẳng
là anh đă hiểu lầm luật lệ. Biết là khó mà
giải thích cho gia đ́nh anh Phàn hiểu, không chừng càng
giải thích, th́ càng gây thêm nhiều ngộ nhận khác. Tôi
ngồi im một lúc suy nghĩ. Anh Phàn nói tiếp :
"Bây giờ chỉ c̣n hai anh chị. Tôi
nhờ anh chị "báo cáo" lại cho nhà thờ những đ̣i hỏi
chính đáng của gia đ́nh chúng tôi. Chúng tôi kiên quyết
đấu tranh cho đến thắng lợi cuối cùng".
Vợ tôi nghe cái giọng điệu giống
hệt những anh cán bộ trong các buổi học tập
chính trị bên nhà, th́ ph́ cười, hết giận. Vợ
tôi nói:
"Xem bộ mấy ông mấy bà trong họ
đạo nầy dư công rỗi nghề gớm nhỉ.
Ḿnh ở xa ngàn dặm, không bà con, không quen biết, không ân
nghĩa, không nợ nần, lại nai lưng ra bảo lănh
ḿnh vào đây, cho nhà ở, cho cơm ăn, cho áo mặc, lo
cho đủ thứ. Lại bị ghét bỏ, thật
đáng đời. Của nợ giữa đường
mà mang cơng lên lưng. Anh chị xem, không biết họ bảo
lănh cho ḿnh, th́ được lợi lộc ǵ nhỉ ?"
Hai vợ chồng anh Phàn cùng nói lớn một
lúc, với giọng chắc nịch:
"Để lập thành tích chứ để
làm ǵ. Ai mà không biết".
Vợ tôi bật cười ha hả và nói
tiếp:
"Đúng. Lập thành tích dâng lên đảng
!"
Tôi ôn tồn bảo vợ tôi đừng
đùa nghịch. Tôi hứa sẽ cố gắng giúp hai anh
chị Phàn và gia đ́nh. Chữ hứa của tôi, trong thâm
tâm, là hứa cố gắng giúp anh chị giải tỏa
những hiểu lầm đáng tiếc, nhưng có lẽ anh
chị Phàn tưởng là tôi sẽ đến nhà thờ
đ̣i tiền "ăn quỵt" giúp cho anh chị.
Chúng tôi về, ghé lại nhà anh chị Hy.
Anh chị Hy chưa nguôi giận. Chị vợ anh Hy nói:
"Chúng nó là thứ vô ân bạc nghĩa,
không biết đạo lư làm người. Khi nào cũng
ngoác miệng ra nói lời dóc lác, đao to búa lớn, nào là
đấu tranh, nào là thắng lợi, kiên quyết. Nghe mà
ngứa lỗ tai, chịu không nổi".
Vợ tôi nói:
"Họ c̣n cho rằng, nhà thờ muốn
lập thành tích nên bảo lănh họ đến đây".
Anh Hy ph́ cười, nói:
"Mấy ông bà trong họ đạo mà nghe
câu nầy, chắc tức mà hộc máu chết hết không
c̣n một mống. Thôi, anh chị cũng nên tránh xa gia
đ́nh anh Phàn, để tránh bực ḿnh và rắc rối về
sau. Những hạng người nầy, không chơi
được".
Tôi nói:
"Thôi, anh chị bớt giận. Tất
cả cũng do hiểu lầm. Người ngoài, không cùng
màu da, không cùng ḍng giống, mà họ c̣n tận t́nh giúp đỡ.
Ḿnh không giúp nhau, th́ làm sao cho ḷng yên ổn được".
"Nhưng họ nói cái giọng khó nghe của
"bọn dân tộc anh hùng", ngứa tai chịu không nổi".
Tôi dịu giọng:
"Họ cũng là nạn nhân dài hạn
của chế độ. Họ c̣n đáng thương
hơn chúng ta nữa, v́ chịu đă chịu đựng
chế độ lâu dài hơn hai mươi mấy năm.
Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh đó, được
giáo dục theo lối đó, th́ không chừng chúng ta tệ
hại hơn anh chị Phàn bây giờ. Anh chị đừng
buồn nữa. Thứ hai nầy, anh cứ đến chở
anh Phàn đi làm như thường nhé. Chúng ta không
thương nhau, th́ ai thương chúng ta được?"
Anh Hy im lặng. Chúng tôi ra về. Không biết
nghĩ sao, vào tối chủ nhật, anh Hy nhờ tôi điện
thoại báo cho anh Phàn biết là sáng thứ hai, sẽ đến
đón anh Phàn đi làm như thường lệ. Tôi nghe mà
mừng. Nhưng anh Hy và anh Phàn vẫn c̣n buồn nhau. Cùng
đi cùng về mà giữ im lặng, không nói một lời.
Sau nầy, anh Phàn nói với tôi rằng: "Bố bảo, thằng Hy cũng không dám
thôi đưa rước tôi đi làm. Nó c̣n phải ŕnh ṃ,
ḍ xét tôi, để báo cáo cho nhà thờ nữa chứ".
Mỗi sáng Chủ Nhật, các ông bà Mỹ
đến chở toàn gia đ́nh anh Phàn đi nhà thờ xem
lễ. Với ư nghĩa làm ơn, làm phước, cứu vớt
linh hồn của một gia đ́nh ngoại đạo tội
nghiệp, chưa biết đến danh Chúa Trời,
đem ơn phước đến cho họ. Nhưng gia
đ́nh anh Phàn cắn răng chịu đi nhà thờ, là
để làm ơn cho các ông bà Mỹ, làm họ vui ḷng, may
ra họ nghĩ lại mà trả lui số tiền họ
đă ăn chận. Chứ đến nhà thờ, theo anh
Phàn nói, chỉ nghe xi-lô xi-la không biết họ nói ǵ, buồn
ngủ lắm, ngồi lâu mỏi lưng, tê chân. Anh Phàn nói
với tôi rằng: "Mấy ông bà Mỹ sang trọng,
giàu có nầy, nhưng keo kiệt không ai bằng. Mỗi khi
lễ xong, có người cầm cái vợt đi thu tiền,
tôi thấy họ chỉ cúng vào vợt tờ bạc một
đồng thôi. Để cho họ xấu hổ, nhục
nhă, khi nào tôi cũng bỏ vào vợt mười đồng". Tôi chỉ cười, không dám có ư kiến.
Một hôm anh Phàn lội tuyết qua nhà tôi
vào buổi tối, đem tặng một gói trà Tàu bèo nhèo mà
anh đă mua từ Hồng Kông . Sau một vài câu chuyện
vu vơ, anh lôi trong túi ra một xấp điện tín có
mười bốn tờ, đưa cho tôi xem, và hỏi những
món hàng ghi trong điện tín có thể mua ở đâu, làm
sao t́m ra tiệm bán giá rẻ. Tôi lật từng trang điện
tín từ Hải Pḥng, Hà Nội, Móng Cáy
điện qua, do nhiều người khác nhau đánh đi,
yêu cầu gởi những món đồ gia dụng như
máy nghe nhạc, máy chụp h́nh, xe đạp đua, vải
vóc, bột ngọt, thuốc trụ sinh và những món linh
tinh khác nữa. Anh nói :
"Bên nhà
tưởng tôi qua đây đi ăn cướp tiền của
thiên hạ anh ạ. Tiền đâu mà đ̣i hỏi đủ
thứ như thế nầy? Tôi cũng nhức đầu
về mấy cái điện tín và thơ từ liệt kê
dài ḷng tḥng các món hàng họ đ̣i hỏi. Điên lên
được đấy chứ" .
Tôi an ủi anh:
"Bên nhà họ khổ quá, ḿnh giúp đỡ
được ít nhiều chi, th́ giúp trong khả năng của
ḿnh. Anh lo buồn làm chi cho khổ tâm vô ích".
"Người ta tưởng qua đến
Mỹ là hốt tiền thiên hạ như hốt lá vàng. Mỹ
nó ngu cả hay sao? "
Tôi hứa khi nào rảnh, sẽ lái xe
đưa anh lên Chicago, t́m các tiệm bán hàng cần thiết
để anh ḍ hỏi giá cả. Anh hỏi vay tôi năm
trăm đồng, có tiền lời mười phân, và sẽ
hoàn trả lại khi lănh được tiền trợ cấp.
Tôi cười bảo anh:
"Để tôi bàn lại với vợ
tôi, thuyết phục vợ cho anh vay. V́ hầu bao trong gia
đ́nh do các bà nắm giữ, và giữ chặt lắm. Mỗi
ngày tôi phải ngửa tay xin tiền quà, tiền xăng. Và
nếu có cho anh vay, th́ cũng không dám lấy lời. Ở
Mỹ mà cho vay cắt cổ, th́ cũng dễ vác chiếu
ra ṭa lắm".
"Tiền lời là do tôi đề xuất,
và bằng ḷng, chứ anh có ép tôi đâu? Anh tự quyết
định cho tôi vay không được sao? Các anh yếu
đuối quá, anh Hy cũng vậy, để cho vợ lấn
lướt, qua mặt".
Tôi cười, nói đùa:
"Đàn ông miền Nam chúng tôi không
được dũng cảm như các anh. Mà khi ở trên
đất Mỹ nữa , th́ chúng tôi càng x́u như sợi
bún thiu".
Làm việc được bốn tháng, anh
Phàn bỏ việc mà không thông báo cho công ty, nên anh bị sa thải.
Mấy người bảo trợ trong nhà thờ đến
nhà anh t́m hiểu sự việc để giúp đỡ. Họ
kêu vợ chồng anh chị Hy đi thông dịch, nhưng
anh chị Hy từ chối. Họ đến nhờ vợ
tôi. Nhóm nhà thờ gồm năm ông bà, đi hai xe. Họ hỏi
lư do thôi việc. Anh Phàn lừng khừng đáp:
"Không muốn làm việc nữa, th́ nghỉ".
"Thế anh đă kiếm ra việc làm
khác chưa ?".
"Chưa".
"Không có việc làm, lấy tiền
đâu chi tiêu, thuê nhà, ăn uống?"
"Tôi không biết!"
"Tại sao anh không muốn làm việc
đó nữa? Có vấn đề ǵ không?"
"Không có vấn đề chi cả".
"Anh có muốn nhà thờ t́m việc khác
cho anh không?"
"Chưa muốn. Khoan đă".
Mấy ông bà trong nhà thờ lắc đầu,
nh́n nhau, rồi nh́n anh Phàn với ánh mắt thương hại.
Các ông bà hỏi, bây giờ anh muốn ǵ không? Anh nhờ vợ
tôi nói, là muốn nhà thờ trả lại cho anh số tiền
hơn hai mươi ngàn mà họ đang giữ giúp, để
anh tính kế làm ăn. Vợ tôi tái mặt, không biết phải
nói làm sao, để hội nhà thờ không bất b́nh. Ngập
ngừng, vợ tôi nói trại ra rằng, anh Phàn tha thiết
muốn biết những chi phí của nhà thờ đă chi
tiêu cho anh, và ai đă đóng góp bao nhiêu, quỹ nhà thờ
bao nhiêu, và nhà nước cho bao nhiêu, để anh tri ân họ.
Các ông bà khoát tay, bảo là không cần thiết, đừng
nghĩ đến, đừng thắc mắc. Vợ tôi
năn nỉ, nói rằng, nếu không được biết
những điều đó, th́ anh Phàn cứ thắc mắc
măi, không yên tâm để làm ăn. Các ông bà cười sung
sướng, thoải mái.
Cuộc đấu tranh kiên cường của
anh Phàn gần thành công mà anh không biết. Khi nhà thờ thấy
anh chị đều thôi việc, không chịu đi làm nữa,
họ cũng quưnh lên, lo lắng lắm. Họ đạo
cũng nghèo, tín hữu cũng không giàu có chi, không thể
đài thọ dài ngày cho cái gia đ́nh đông đảo nầy
được. Các ông bà bảo trợ chịu thua, định
ngày đem gia đ́nh anh Phàn lên sở xă hội xin trợ cấp
của quận hạt. Nhưng anh Phàn loan báo rằng, anh sẽ
dời nhà về Oklahoma City. Cả họ đạo thở
phào. Anh Phàn có nhiều bạn bè quen biết trong trại tị
nạn cũ, họ đă định cư ở Oklahoma,
và biết rành mạch cách xin trợ cấp xă hội.
Anh Phàn nhờ tôi mua vé máy bay cho cả gia
đ́nh về Oklahoma City, đồng thời dàn xếp xe cộ
để chở anh chị ra phi trường. Ông Gary và bà
Eve hứa thuê một chiếc xe có thùng sau lớn, để
chở hành lư cồng kềnh của gia đ́nh anh. Tôi và anh
Hy, hai xe sẽ chở người trong gia đ́nh. Anh Phàn
nói nhỏ với tôi rằng, trước khi đi anh sẽ
đốt căn nhà để trừ vào số tiền nhà
thờ đă ăn quịt của anh. Ăn của ai th́
được, ăn của anh th́ nuốt không trôi đâu.
Tôi can gián, và dọa anh rằng FBI của Mỹ giỏi lắm,
thế nào họ cũng điều tra ra. Và tội chi
đi tù cho khổ thân, con cái không ai nuôi. Ḿnh đến
đây, đời sống c̣n dài, c̣n sức th́ c̣n làm ra tiền.
Vả lại, có đốt căn nhà, ḿnh cũng không
được đồng xu nào, chưa chắc đă hả
được cái tức tối, mà mua thêm lo lắng vào
thân. Lỡ cháy lan qua nhà lân cận, th́ thêm tội nghiệp
những người láng giềng tốt của anh. Anh nói
rằng, nếu không đốt được nhà, th́
trước giờ đi, anh sẽ phá cho tan tành, đập
vỡ bồn cầu, nhà tắm, bẻ ống nước,
phá tủ lạnh, đập bếp. Tôi cười bảo
rằng, anh cứ lo đi trước, sau khi anh đến
Oklahoma rồi, tôi sẽ thay anh làm các việc đó. Đừng
làm sớm, mà họ giữ anh lại, không đi được,
mất toi tiền máy bay.
Ngày anh Phàn ra phi trường, tôi và anh Hy xin
nghỉ việc, thay phiên nhau đến nhà anh, lấy cớ
là phụ soạn hành lư, nhưng thật tâm là để
ngăn cản anh phá hoại căn nhà. Khi cả nhà lên xe hết,
anh Hy chạy vào một ṿng bên trong nhà, xem có ǵ hư hại
không. Anh Hy ra xe và đưa hai ngón tay lên làm một ṿng tṛn,
cho tôi biết là mọi sự tốt đẹp. Tôi thở
phào.
Trong khi chờ máy bay, anh Phàn nhờ tôi nói với
ông Gary và bà Eva rằng, qua Oklahoma, anh sẽ gởi tiền,
mua vé máy bay, mời cả họ đạo của ông bà qua
chơi, anh sẽ bao tiền săn ở, bao tất. Tôi dịch
khác đi, nói là anh biết ơn hai ông bà lắm, và không bao
giờ quên cái ơn bảo bọc lúc ban đầu nầy.
Hai ông bà nghe xong cảm động, ôm chầm lấy anh chị
mà nói cám ơn rối rít. Anh Phàn th́ tưởng hai ông bà mừng
v́ được anh hứa cho vé máy bay, cả họ đạo
sẽ được đi chơi.
Khi đưa gia đ́nh anh ra máy bay, chúng tôi
ôm nhau thân thiết, và mắt anh Phàn cũng rươm
rướm, nói nhỏ với tôi, giọng run run rằng,
thôi đừng phá căn nhà nữa. Tôi gật đầu.
Đưa gia đ́nh anh Phàn đi rồi,
anh Hy nói với tôi rằng: "Thế mà tôi cũng thấy
buồn, trống trải, như mất mát một cái ǵ
đó. Bây giờ chỉ cỏn hai gia đ́nh ḿnh trong thành
phố nầy thôi". Trong
ḷng tôi cũng thấy buồn.
****
Mười sáu năm sau, kể từ khi
đưa gia đ́nh anh Phàn về Oklahoma, tôi t́nh cờ gặp
lại anh trong một tiệc cưới tại Houston,
Texas. Anh nhận ra tôi, mà tôi không nhận ra anh. V́ bây giờ
anh mập mạp, trắng hồng, ăn mặc chững
chạc, không c̣n dáng quê mùa như xưa. Chị vợ anh
th́ sang trọng trong bộ áo kim tuyến lóng lánh, như cô
ca sĩ. Anh ôm chầm lấy tôi, hỏi có c̣n nhớ ra anh
là ai không. Anh nói: "Phàn
đây, Phàn ở Morris, Illinois đây mà". Tôi cũng mừng vui gặp lại
người quen biết xưa. Anh xin chuyển bàn, để
vợ chồng anh ngồi cạnh chúng tôi mà hàn huyên. Anh cho
biết ở Oklahoma được hai năm , th́ dọn về
Houston, bây giờ cả hai vợ chồng đều làm việc
cho một hăng sản xuất đồ nhựa. Suốt
hơn mười mấy năm anh làm hai việc toàn thời
gian, mỗi đêm chỉ ngủ năm sáu giờ thôi. Ngày
nghỉ th́ đi sửa chữa nhà cửa, ống nước.
Hai cháu gái lớn đă có gia đ́nh. Cháu trai kế th́ vừa
tốt nghiệp đại học. Bây giờ anh chị
Phàn có ba căn nhà, một căn để ở, hai căn
cho thuê.
Tôi mừng cho anh. Anh nói với giọng
thành thật:
"Hồi mới qua, chắc anh chị
buồn chúng tôi lắm. Nhiều năm sau tôi c̣n ân hận,
và xấu hổ v́ chuyện xưa. Bị thông tin sai lạc,
tôi hiểu lầm, làm nhiều chuyện lố lăng, kỳ
cục, bậy bạ. Lại ăn nói ngang ngược.
Tôi nhớ ơn anh chị, và cả vợ chồng anh Hy,
chịu đựng được chúng tôi, mà không đấm
cho vỡ mồm, hộc máu mũi. Càng lâu, tôi càng thấm
thía cái câu "Bầu
bí một giàn" của
anh Hy nói ngày xưa".
Chị vợ anh Phàn cười vui vẻ,
nói tiếp:
"Ông nhà tôi thay đổi nhiều lắm
rồi. Nhưng không bỏ được cái phét lác đă
ăn sâu vào máu. Cứ một tấc thấu trời".
Chúng tôi cùng cười với nhau. Tôi nói
đùa:
"Nếu phét lác mà không hại đến
ai, th́ cứ để anh phét lác cho sướng cái miệng."
Anh Phàn ôm lấy vai tôi và lắc lắc,
cười vui vẻ.
TRÀM CÀ MAU
(Huỳnh Kim Khánh giới thiệu,
Thanh Long chuyển)