Home | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | TA.P GHI 47 | TA.P GHI 48 | TA.P GHI 49 | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | SUY NGÂM~ 8 | SUY NGÂM~ 9 | SUY NGÂM~ 10 | SUY NGÂM~ 11 | SUY NGÂM~ 12 | SUY NGÂM~ 13 | SUY NGÂM~ 14 | SUY NGÂM~ 15 | SUY NGÂM~ 16 | SUY NGÂM~ 17 | SUY NGÂM~ 18 | SUY NGÂM~ 19 | SUY NGÂM~ 20 | THO' HAY | THO' HAY [tt] | THO' HAY 1 | THO' HAY 2 | THO' HAY 3 | THO' HAY 4 | TÀI T̀NH | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | CU'̉'I CHÚT CHO'I 1 | LINKS | NHA.C HAY | VÊ` VN | -DE.P | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | TUYÊ.T V̉'I !!! | -DÔ.C -DÁO | THÚ VI. | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BÀI VIÊ'T 12 | CÂ?N THÂ.N | CÂ?N THÂ.N [tt] | VINH~ BIÊ.T !!! | VINH~ BIÊ.T !!! *

BÀI VIÊ'T 2

 

TIM & ÓC

(SƠN NGHỊ)

 

Trong t́nh yêu, khi đam mê làm cho con người trở nên mê muội người ta thường viện một câu nói bất hủ của Blaise Pascal: "Con tim có những lư lẽ riêng của nó mà lư trí không thể nào hiểu biết được". (Le coeur a des raisons que la raison ne peut pas savoir). Trí óc bao gồm nhiều trung khu thần kinh, như trung khu nói, trung khu hiểu tiếng nói, trung khu suy luận, trung khu nhớ, và trung khu cảm xúc. Chính những trung khu này đă điều khiển toàn bộ chức năng của mọi bộ phận trong cơ thể trong đó - dĩ nhiên - có trái tim. Nhưng chính trái tim đă có lúc từ chối sự điều khiển của bộ óc, tự biện minh cho t́nh yêu để yêu và được yêu.

 

Óc nói đến lư, tim nói đến t́nh. Khi yêu là nói đến chức năng của trái tim. Nhưng theo cơ thể học, chức năng của trái tim chỉ là bơm máu vào các mạch chạy khắp cơ thể để duy tŕ sự sống, kể cả óc cũng cần tim bơm máu đến để nuôi các tế bào thần kinh. Tim chỉ là một khối thịt nặng khoảng 400 gram với một nhiệm vụ thật cần thiết nhưng rất đơn giản chứ không phức tạp như lúc sa vào chốn yêu. Mỗi lần đập là mỗi lần bơm máu đi. Và tim đập liên tiếp như thế khoảng 2.5 tỷ lần trong quăng đời trung b́nh 66 năm. Nhịp đập cũng nói lên trạng thái của con tim. Nếu t́nh cờ ánh mắt gặp nhau mà hai trái tim đập rộn ră trong lồng ngực là lúc thôi thúc t́m đến nhau trong ṿng tay. Khi hai trái tim đập cùng nhịp là lúc không thể sống xa nhau. Nếu đập lỗi nhịp th́ xin đành hẹn lại kiếp sau. Và thật bất ngờ, tim ngưng đập là lúc nói đến chia ly vĩnh viễn.

 

Một lúc nào đó, những con sóng (lăng) t́nh cảm vượt bờ (mạn) lư trí là lúc trái tim làm chủ những nghĩ suy, gạt bỏ tất cả mọi lời khuyên bảo hữu lư của óc. Thế gian ca ngợi những mối t́nh lăng mạn như thế. Khi yêu chỉ biết yêu và bất chấp mọi hậu quả để được yêu. Sử xanh đă ghi lại những mối t́nh với con tim phủ mờ lư trí, gây mối cảm hoài cho hậu thế qua bao nhiêu thế hệ. Shakespear đă thi vị hóa mối t́nh của Romeo và Juliette giữa hai gia đ́nh thù nghịch. Họ đă yêu bất chấp những truyền thống xă hội thời bấy giờ để rồi mang cả mối t́nh xuống tuyền đài.

 

- TRỌNG THỦY & MỴ CHÂU:

Lịch sử nước Nam cũng để lại hậu thế một chuyện t́nh đau thương của Trọng Thủy và Mỵ Châu thời An-Dương-Vương. Triệu Đà thuộc nước Nam Hải có ư thôn tính nước Âu Lạc của An-Dương-Vương bèn sai con trai là Trọng Thủy sang kết nghĩa với Mỵ Châu là con gái của An-Dương-Vương. Thần Kim Quy có ban cho An-Dương-Vương một cái nỏ thần dùng để triệt yêu quái khi dựng Loa Thành và giữ nước v́ một khi bắn ra là giết chết vạn quân địch. Nhờ cái nỏ thần này mà An-Dương-Vương giữ vững nước Âu Lạc. T́nh yêu vợ chồng say đắm nên Mỵ Châu mới nói cho Trọng Thủy biết bí mật của nỏ thần. Chính Trọng Thủy đă đánh tráo bằng cái nỏ thần giả. V́ thế Triệu Đà chiếm trọn nước Âu Lạc dễ dàng. Hai cha con An-Dương-Vương và Mỵ Châu trên đường chạy trốn, nhà vua cầu thần Kim Quy giúp. Thần hiện ra và nói giặc đang ngồi ở sau lưng. An-Dương-Vương hiểu ra v́ đứa con gái mà mất nước nên vung gươm chém chết con gái. Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng t́m được xác vợ. Chàng buồn rầu và cũng nhảy xuống giếng tự tử. Chuyện t́nh lăng mạn kết thúc bằng cái chết của hai vợ chồng giữa hai nước thù địch.

 

- TRƯƠNG CHI & MỴ NƯƠNG:

Nhưng chuyện t́nh giữa Trương Chi và Mỵ Nương lại có sự phán đoán của trí óc. Nàng công chúa tương tư anh lái đ̣ có tiếng sáo lăng đăng vang trên quăng sông vắng làm mê mệt ḷng người. Con tim thôi thúc nàng phải yêu nhưng đến khi gặp nhau óc đă phủ nhận mối t́nh chỉ v́ chàng quá xấu trai. Hóa ra nàng chỉ tương tư tiếng sáo chứ không hề yêu người thổi sáo. Dù không nên vợ chồng nhưng rơ ràng trí óc đă giúp nàng công chúa chấp nhận thực tại. Chẳng thà phụ nhau ngay từ đầu c̣n hơn dấn sâu vào một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. 

 

Óc chính là cái phanh để hăm chất lăng mạn trong t́nh yêu. Nhưng nếu người ta chấp nhận buông thả trái tim để yêu không cần đến lư trí th́ thế gian cũng thông cảm, không ai khắt khe lên án một người sẵn sàng chết cho t́nh yêu. Nhưng nếu con tim cứ hành động theo những lư lẽ riêng của nó mà bất cần đến lời khuyên bảo của trí óc th́ sẽ dẫn đến hậu quả thế nào?

 

Trong lănh vực gia đ́nh, cha mẹ thương yêu con cái là một lẽ tự nhiên. Nhưng nếu thương yêu chiều chuộng chúng một cách vô lư th́ chưa hẳn là một lối giáo dục tốt. Con cái cần phải được răn đe, để chúng nhận biết tốt xấu, sự lành, và sự dữ. Chiều chuộng chúng để muốn ǵ được nấy chắc chắn không giúp ích ǵ cho đứa trẻ sau này khi bước vào trường đời. Một đứa trẻ được nuông chiều quá mức ở trong gia đ́nh dễ sinh ra tuyệt vọng khi gặp phải thất bại trong cuộc sống.

 

Trong lănh vực luật pháp cũng thế, tim và trí óc phải đi đôi với nhau. Cho"pháp bất vị thân" nhưng một quan ṭa cứ áp dụng cứng nhắc luật lệ th́ bản án sẽ đưa đến bất công. T́nh và lư cần phải cân nhắc để đi đến một phán quyết. Tục ngữ Việt có câu, "Có ở trong chăn mới biết chăn có rận". Tục ngữ Mỹ cũng nói, "Before criticizing a man, walk a mile in his shoes". Người quan ṭa công chính là người phải hiểu rơ hoàn cảnh của từng tội nhân. Luật là phạm vi của trí óc nhưng nếu đặt ḿnh vào t́nh huống của tội phạm là lúc nói đến lư lẽ của con tim. Phán quyết dựa vào tim và óc sẽ thấy một bàn tay sắt nhưng không thiếu khoan dung.

 

Lănh vực chính trị cũng thấy tim và óc song hành. Aristide Briand (1862 - 1932), một chính khách từng giữ chức Thủ tướng Pháp trong nhiều nhiệm kỳ đă khẳng định: "Một người ở tuổi hai mươi không theo chủ nghĩa xă hội th́ đúng là không có trái tim, nhưng nếu đến tuổi bốn mươi mà vẫn c̣n mê chủ nghĩa xă hội th́ đúng là không có óc". (L'homme qui n'est pas un socialiste à vingt n'a aucun coeur, mais s'il est toujours un socialiste à quarante il n'a aucune tête.)

 

Một chủ nghĩa mà Marx vẽ vời ở thế kỷ 19, khi tư bản mới phôi thai, được Lênin phát triển một cách có hệ thống vào đầu thế kỷ 20 đă được chứng minh là một chủ nghĩa điên rồ, tàn bạo, và vô luân. Ông Briand nói phải mất 20 năm mới nhận ra sự hăo huyền của chủ nghĩa nhưng thật ra chỉ cần sống vài năm ở xă hội què quặt luân lư Việt nam là hiểu rơ cái bản chất bất nhân của một chủ nghĩa đă gây biết bao tang tóc cho nhân loại. Cần ǵ phải đợi đến tuổi 40, yêu chủ nghĩa ở tuổi 20 nhưng đến 25 tuổi mà vẫn mở miệng bệnh vực cho cái chủ nghĩa vô luân ấy th́ quả thật đầu óc đó không có một chút chất xám nào. Họa chăng những cái đầu này chỉ chứa một thứ chất vàng sền sệt mà con người thải ra mỗi ngày.

 

Viễn ảnh của một chủ nghĩa về một thế giới đại đồng, trong đó con người "làm theo khả năng""hưởng theo nhu cầu" được lịch sử minh chứng một cách hùng hồn là viển vông, là không tưởng. Giấc mơ đại đồng này đă làm say mê hàng triệu con tim đầy nhiệt huyết của các thanh niên thiếu nữ. V́ mục đích "cao cả" này, họ đă quên đi tính chất bạo lực cách mạng, nền tảng "luân lư" của chủ nghĩa cộng sản, là phải tàn sát cho hết những người không cùng chí hướng, những kẻ đối lập. Kết quả là nhân loại phải hứng chịu cái tai ương nghiệt ngă này trong suốt thế kỷ 20 với cái giá của hơn 100 triệu người chết v́ bị trấn áp, bị thủ tiêu và bị tù đày trong các trại cải tạo. Những người cộng sản bây giờ chẳng c̣n có con tim để yêu một chủ nghĩa "lư tưởng" như ông Briand đă nghĩ. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào vật chất, yêu những tờ giấy đôla xanh hơn là yêu giấc mộng ban đầu như đấu tranh giành thắng lợi cho giai cấp vô sản, mơ tưởng một thế giới không c̣n sự bóc lột, xây dựng một xă hội công bằng. Trái lại, chủ nghĩa chỉ dựng lên để đấu tranh quyền lợi tuyệt đối cho giai cấp tư bản đỏ, để thực hiện một thế giới đầy dẫy bóc lột tàn khốc và dữ dội hơn bao giờ, và để dựng lên một xă hội với những thảm cảnh luân lư suy đồi đến tận cùng và nhan nhản bất công với nhiều nước mắt.

 

Ban đầu, có thể Marx ôm giấc mộng đại đồng với ư tốt muốn biến cơi đời ô trọc này thành cơi thiên đàng, đến Lênin thêm chút mắm muối "bạo lực cách mạng" và kêu gọi "vô sản các nước, đoàn kết lại!" th́ cái chủ nghĩa xă hội huyễn hoặc của Marx bước sang một khúc ngoặt gây đau thương cho con người nhất trong lịch sử nhân loại. Sự tàn ác của chủ nghĩa phát-xít so ra chẳng thấm ǵ với sự tàn bạo và độc ác cách mạng của chủ nghĩa cộng sản. Họ - những người sống chết với lư tưởng cộng sản - say mê đấu tranh với khẩu hiệu tất cả v́ quyền lợi của giai cấp bị bóc lột nhưng thực tế hoàn toàn khác hẳn. Họ chỉ mượn sức mạnh của giai cấp bị bóc lột để tranh đấu cho quyền lợi cá nhân của từng người cộng sản nắm giữ quyền lực cao nhất nằm trong cái-gọi-là bộ chính trị. Bên trong thâm cung của các quan cộng sản, sự tranh dành quyền lực gay gắt và khốc liệt không thua ǵ cuộc đấu tranh bằng bạo lực ở bên ngoài với các nước tư bản.

 

Măi đến cuối thế kỷ 20 th́ chủ nghĩa cộng sản đă bị biến thái hẳn. Nó biến thái đến mức người ta hoàn toàn không nhận ra cái cốt lơi chủ nghĩa nằm ở chỗ nào trong suốt tiến tŕnh tiến lên thế giới đại đồng nữa. Người ta không hiểu nó là một triết lư? một chủ nghĩa? hay một học thuyết? Nó như một nồi tạp-pí-lù - trộn một thứ một ít vào rồi gọi là chủ nghĩa cộng sản ở thế kỷ 21 - để lâu ngày ươn śnh và bốc mùi làm ai cũng buồn nôn mửa. Nó như một cái xác bị chết cháy không c̣n nhận diện được h́nh dạng của nạn nhân. Làm sao một người được Thượng đế ban cho một trí óc b́nh thường lại có thể nói rằng tôi vẫn c̣n yêu cái chủ nghĩa phi nhân bản như thế? Đừng t́m hiểu chủ nghĩa cộng sản qua sách vở! Đừng đọc mớ chủ thuyết đó bằng trái tim nhưng bằng cả trí óc! Khẩu hiệu với những mỹ từ dễ làm mê muội con người. Tính chất "lăng mạn" của chủ thuyết cộng sản dễ làm con tim rung động. Hăy luôn nh́n nó bằng trí óc minh mẫn của một người b́nh thường.

 

Trong cuộc sống lưu vong cũng cần suy nghĩ về thái độ chính trị chính đáng của một người tỵ nạn. Vào đầu thập niên 80, dân chúng Việt nam ùn ùn kéo nhau ra biển. Họ t́m đủ mọi cách để đào thoát khỏi cái xă hội rách nát nhân bản và bần cùng vật chất đó. Người ta phỏng đoán khoảng hơn 1 triệu người bỏ nước ra đi nhưng đến bến bờ tự do chỉ được non nửa. Những người đi sau không phải không biết những hiểm nguy của cái giá vượt biển, cứ hai người đi ra biển th́ chỉ một người thành công. Thất bại là đồng nghĩa với cái chết v́ băo tố, hải tặc, đói khát .. thế mà họ vẫn lầm lũi cắm đầu đi sống đi chết ra biển. Băng qua lănh thổ Miên đến đất Thái cũng đối đầu với những hiểm nguy chết người. Nào là bọn Miên đỏ khát máu, bọn Việt cộng điên cuồng thù hận, thú dữ trong rừng già, bọn thổ phỉ buôn người, đám buôn lậu có máu lạnh giết người không chùn tay. Có người đi ra biển không thành lại quay về đi bộ. Có người vượt biển thất bại đến khánh kiệt tài sản. Cả miền Nam lên cơn sốt bỏ nước. Tính đến đầu thập niên 90, non nửa triệu người đạt được ước nguyện.

 

Con số nửa triệu người may mắn sống sót, một lần nữa, lại may mắn được định cư ở các nước tư bản, có cơ hội ngắm nh́n bầu trời dân chủ, hít thở không khí tự do, và nhất là có cơ hội vươn lên từ hai bàn tay trắng. Sau hơn 30 năm, con số người Việt tỵ nạn sinh sôi nẩy nở đă lên đến vài triệu, ở rải rác khắp năm châu, thành công ở khá nhiều mặt trong xă hội, tạo của cải vật chất cho chính gia đ́nh ḿnh và đất nước nơi hai ba thế hệ Việt sinh sống thành từng cộng đồng với sinh hoạt khá khởi sắc.

 

Khi trong tay có chút tiền th́ những người Việt hải ngoại chợt nghĩ đến chuyện "vinh qui về làng". Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, khi nhà nước cộng sản bắt đầu mở cửa, một số người Việt lưu vong trở về với mớ tiền trong tay. Thuở ấy trong nước ai ai cũng nghèo, kể cả bọn cán bộ. Thế là có màn vung tiền tiêu cho thỏa thích với trăm đô đổi ra tiền triệu, một giấc mơ của khá nhiều người nghèo khổ. Bên Mỹ không biết những người đó làm ǵ nhưng khi về nước họ t́m thấy được sự nể trọng (đồng tiền), tự ái họ được vuốt ve đến độ tận cùng. Từ đó, họ cố gắng làm lụng kư cóp cho được kha khá tiền và mỗi năm trở về nước ngồi bảnh chọe tiêu tiền trên sự đau khổ của rất nhiều kẻ khác. Cho đến năm nay, năm 2008, tuy sự nể trọng (cũng đồng tiền) đă bớt đi nhiều nhưng vật giá vẫn quá rẻ so với khi du lịch ở các nước khác nên số người về nước ngày mỗi đông hơn. Số người đổ xô về nước chưa hề giảm bao giờ.

 

Hơn 30 năm trước, chúng ta đánh đổi lấy mạng sống để ra đi cho bằng được th́ không v́ một lư do ǵ để có thể trở lại mảnh đất khốn khổ đó một cách quá dễ dàng. Mảnh đất dứt khoát bỏ lại sau lưng bằng chính mạng sống của ḿnh, của vợ chồng con cái ḿnh th́ làm sao có thể trở về nh́n lại cái đám người đă chưởi rủa những kẻ ra đi - chính chúng ta - là bọn trộm cắp, đĩ điếm. Nếu dùng óc để suy nghĩ, nếu c̣n sĩ diện, cần phải tỏ thái độ khinh bỉ bọn nhà nước cộng sản đă hàm hồ kết tội chúng ta là thành phần cặn bă của xă hội bỏ nước ra đi. Xét cho cùng, cần trân trọng những người trở về để thăm cha mẹ già yếu, lo ma chay cho người thân, giúp đỡ những kẻ khốn cùng. Có những kẻ trở về với trái tim độ lượng, xót thương người, cố làm một cái ǵ nho nhỏ để xoa dịu nỗi đau khổ của đại đa số đồng bào. Về với trái tim nhân từ như thế thật đáng khuyến khích, thật đáng kính phục. Không bao giờ về với đầu óc của kẻ lợi dụng thời cơ, vui đùa hưởng thụ vật chất rẻ mạt, cười cợt trên thân xác bèo bọt của những cô gái quê mà quên đi cảnh chiếc thuyền nan lênh đênh trên biển khơi mấy mươi năm về trước.

 

Nghĩ là nghĩ thế nhưng thực tế tin tức cho thấy mỗi năm cả triệu người rầm rộ về thăm quê hương; chỉ riêng trong dịp Tết cả trăm ngh́n "khúc ruột ngàn dặm" rộn ràng trở về quê ăn Tết. Thèm ăn Tết trên quê hương đến vậy sao? Cho dù Tết đă mất hẳn cái hương vị ngọt ngào của bầu sữa mẹ? Vương trong không khí của một buổi sáng đầu năm nghe có tiếng ai oán của đám dân oan, nghe có tiếng than khóc mỏi ṃn của những người vợ thương nhớ chồng c̣n bị đày đọa trong các trại tù v́ họ lên tiếng đ̣i hỏi một nền dân chủ của một nước Việt nam, nghe có tiếng kêu gào bi thiết của những nhà lănh đạo tôn giáo đă lên tiếng bênh vực cho công lư. Một bầu khí Việt nam bị ô nhiễm độc tài, bị vẩn đục áp bức đến thế liệu chúng ta có thể thản nhiên trở về quê ăn Tết hay sao?

 

Bài thơ, "Ta Chẳng Về Chi" (không rơ tác giả là ai) diễn tả những suy nghĩ chín chắn của một người có trái tim tràn đầy yêu thương.

Bạn hỏi ta sao chẳng trở về

Về chơi nối lại mối t́nh quê

Theo bạn bên nhà giờ vui lắm

Tha hồ du hí, sướng hả hê!

Ta nghe bạn tả, dạ nao nao

Bao năm biệt xứ nhớ làm sao

Vẫn hằng mơ ước về quê cũ

Cho thỏa chờ mong tự thuở nào

Nhưng rồi nghĩ lại ta chẳng về

Sá ǵ một phút chốc đam mê!

Để rồi phải thấy bao ngang trái

Bao nỗi tang thương luống năo nề

Bạn trách bao người đă hồi hương

Cứ ngồi tiếc nuối với vấn vương!

Ta đă ra đi trong hận tủi

Về chi gợi dĩ văng đau thương

Bạn rủ ta về thăm phố phường

Thăm mái nhà xưa, những người thương

Nhà xưa bị chiếm c̣n đâu nữa

Người thương thời tản mác bốn phương

Bạn bảo quê hương giờ thanh b́nh

Danh lam, thắng cảnh thật đẹp xinh

Ḷng ta c̣n đâu mà du ngoạn

Khi thấy bên đường cảnh điêu linh

Bạn giục tội ǵ không về chơi

Đất nước giờ đây đổi thay rồi

Ta thấy vẫn ngục tù, bắt bớ

Đàn áp không ai được hé môi

Bạn nói về đi ăn đă đời!

Sao ta có thể nuốt cho trôi

Khi thấy chung quanh bao đứa bé

Chẳng có miếng ăn, đứng chực chờ

Bạn kể ta nghe rất mê hồn!

Các em mơn mởn, hăy c̣n son

Ta thấy xót thương thân nhi nữ

Mới từng ấy tuổi phải bán trôn

Bạn khuyên lo sướng cho thân ḿnh

Dại ǵ để ư chuyện linh tinh!

Ta chẳng thể nào câm nín được

Trước sự trái tai, cảnh bất b́nh

Bạn có thể vui thú nhởn nhơ?

Mặc ai rên siết, cứ làm ngơ

Ta không nỡ sống trên đau khổ

Ôm mối hoài hương ở xứ người.

 

Lại c̣n vấn đề gửi tiền về giúp thân nhân. Gửi tiền giúp là do trái tim thúc đẩy nhưng giúp thế nào để có hiệu quả th́ là công việc của lư trí. Từ năm 2000 đến nay, số tiền gửi về hàng năm cứ tăng măi. Năm ngoái số tiền là 4 tỉ đôla, năm 2008 có lẽ cũng bằng hoặc hơn chứ không kém. Đây chỉ là con số gửi qua hệ thống ngân hàng Mỹ có chứng từ hẳn ḥi, c̣n những ngh́n dấu kỹ trong ruột tượng của các cụ già đem về cho con cháu th́ không ai kiểm chứng được. Cứ tính đổ đồng mỗi người mang về nước chi tiêu khoảng $5000 đôla, với từng ấy người về hàng năm th́ số tiền đổ khơi khơi vào nước phải thêm vài tỷ bạc nữa. Như thế số tiền rót về nước (cho không) giá chót phải 6, 7 tỷ bạc mỗi năm.

 

Số tiền gửi về dưới nhiều h́nh thức khác nhau như gửi giúp các nạn nhân thiên tai, gửi về giúp thân nhân có vốn làm ăn, hoặc giúp chỉ để nuôi sống từng ấy miệng ăn, mỗi ngày .. Tính ra hàng tỉ đôla là công khó của biết bao nhiêu người Việt ở hải ngoại, sẵn sàng hy sinh một chuyến du lịch hàng năm của gia đ́nh, hoặc chấp nhận giảm bớt những chi tiêu để có đủ tiền gửi giúp thân nhân. Từng ấy tỷ bạc thân nhân tung vào thị trường để mua sắm, để ăn chơi, để khoe khoang kiêu hănh, nhưng cũng giúp nhiều gia đ́nh chỉ vừa đủ sống và sinh hoạt hàng ngày trong một xă hội mà sự lạm phát leo thang theo nhịp độ hàng tháng. Đúng ra tiền tệ trong lưu thông bỗng nhảy vọt lên con số tỷ mà không cần trữ kim bảo chứng như thế cũng tạo ra công ăn việc làm nhất thời cho đám dân nghèo khổ. Những công việc làm hoàn toàn mang tính chất tiêu dùng, chứ chưa hề dùng tiền tạo ra những cơ sở sản xuất mang lại lợi nhuận về lâu về dài trong tương lai.

 

Có nhiều lư lẽ biện minh cho việc gửi tiền. Lư lẽ được rất nhiều người ủng hộ là thân nhân cần được giúp đỡ trong một xă hội quá bần cùng. Họ quan niệm rất đơn thuần rằng nếu ngưng gửi tiền, chẳng biết bọn chóp bu cộng sản có chết không nhưng thân nhân của họ chắc chắn sẽ chết trước hết. Suy nghĩ này quả thật không sai thực tế bao nhiêu. Nhưng nếu thị trường tiêu dùng thiếu hẳn 4 tỷ trong 1 năm, chắc chắn công ăn việc làm sẽ giảm thiểu đi rất nhiều, những thân nhân sẽ sống dở chết dở nhưng sẽ tạo một áp lực lớn lao trên chính quyền cộng sản. Người dân đói quá đành phải làm liều. Xă hội sẽ hỗn loạn. Công an có bắt giữ được cả trăm hoặc cả ngh́n nhưng nếu cả triệu người liều ḿnh th́ chính quyền cộng sản chẳng thể nào đàn áp nổi. Nhà tù nào chứa cho nổi khi vài chục triệu người sẵn sàng chết để kiếm cái ăn cho gia đ́nh. Chính bao tử sẽ thôi thúc con người đến trở thành thú vật. Đây chẳng phải là bài học mà bọn việt cộng đă áp dụng triệt để trong mấy mươi năm cai trị nhân dân miền Bắc và cả trong các trại tù sao? Từng ấy nhân dân quá đói khổ nổi loạn th́ cái chỗ ngồi của bọn Bắc bộ phủ cũng phải lung lay.

 

Biết rơ như thế nhưng không một ai dám làm, hoặc không nỡ nhẫn tâm đẩy những người thân đến một hoàn cảnh cùng cực, nơi mà ranh giới của lư trí và thú tính chỉ mong manh như sợi tơ. Nếu đổi ngược lại hoàn cảnh, nghĩa là nếu những kẻ cộng sản ở hải ngoại gửi 4 tỉ mỗi năm về nước để cứu đói và họ biết rơ rằng nếu không có 4 tỉ này th́ xă hội sẽ hỗn loạn, chế độ sẽ sụp đổ th́ chắc chắn họ đă thực hành từ lâu rồi. Đây là sự khác biệt lớn lao giữa người quốc gia và người cộng sản. Sự dị biệt đó là trái tim. Những trái tim c̣n máu đỏ luân lưu trong thân xác của sinh vật có tên gọi là người. Chính con tim đă thổn thức khi thấy đồng bào trong nước lâm vào cảnh thiên tai. Chính con tim đă tha thiết khi thấy những đứa trẻ mồ côi, khuyết tật lăn lóc trên hè phố kiếm ăn. Và cũng chính con tim đă thôi thúc những người Việt hải ngoại gửi tiền về giúp những người thân nghèo khổ. Mặc dù họ biết rằng chính số tiền này đă phần nào giúp chế độ đứng vững đến ngày hôm nay.

 

Đă đến lúc lư trí cần phải xen vào hành động của con tim. Gửi vừa phải và gửi đúng lúc là cách hay nhất để giảm thiểu những số tiền thặng dư không cần thiết. Nên gửi để tạo công ăn việc làm hơn là gửi để giúp miếng ăn từng bữa. Giúp cần câu hơn là biếu con cá. Mỗi khi có thiên tai, làm thế nào để số tiền cứu đói phải đến thẳng tay các nạn nhân, không thể qua tay bọn cán bộ ở xă, ấp, huyện, hoặc phường. Phải hạn chế tối đa tiền của lọt vào tay những kẻ không tim này. Biết cách gửi, và biết gửi qua người nào. Các bậc tu hành, những sơ, những ni cô, các linh mục, thượng tọa (tuyệt đối không phải là bọn quốc doanh) là những người xứng đáng chọn mặt gửi vàng. Trở về thăm quê hương đọa đày khi thật sự cần thiết. Nên hạn chế tối đa những chuyến du hí vung tiền mua vui trên những thân xác bọt bèo. Nên tự chế để cái xă hội quá bấp bênh về đạo lư bớt bị bấp bênh. Nếu không làm cho nó tốt hơn th́ cũng đừng nhẫn tâm làm cho nó tồi tệ thêm.

 

Xem ra, trái tim và trí óc cần song hành. Hành động xuất phát do trái tim thôi thúc, và hành động dẫn đến một kết quả tốt đẹp lại luôn cần có lư trí hướng dẫn.

 

SƠN NGHỊ

(tn sưu tm, Kim Oanh chuyn)

 

website counter