TIM & ÓC
(SƠN NGHỊ)
Trong t́nh yêu, khi đam mê làm cho con người
trở nên mê muội người ta thường viện một
câu nói bất hủ của Blaise Pascal: "Con tim có những lư lẽ riêng của nó mà
lư trí không thể nào hiểu biết được". (Le coeur a des raisons que la raison ne peut pas
savoir). Trí óc bao gồm nhiều trung khu thần kinh, như
trung khu nói, trung khu hiểu tiếng nói, trung khu suy luận,
trung khu nhớ, và trung khu cảm xúc. Chính những trung khu
này đă điều khiển toàn bộ chức năng của
mọi bộ phận trong cơ thể trong đó - dĩ nhiên - có trái
tim. Nhưng chính trái tim đă có lúc từ chối sự
điều khiển của bộ óc, tự biện minh cho
t́nh yêu để yêu và được yêu.
Óc nói đến lư, tim nói đến t́nh.
Khi yêu là nói đến chức năng của trái tim.
Nhưng theo cơ thể học, chức năng của
trái tim chỉ là bơm máu vào các mạch chạy khắp
cơ thể để duy tŕ sự sống, kể cả
óc cũng cần tim bơm máu đến để nuôi các tế
bào thần kinh. Tim chỉ là một khối thịt nặng
khoảng 400 gram với một nhiệm vụ thật cần
thiết nhưng rất đơn giản chứ không phức
tạp như lúc sa vào chốn yêu. Mỗi lần đập
là mỗi lần bơm máu đi. Và tim đập liên tiếp
như thế khoảng 2.5 tỷ lần trong quăng đời
trung b́nh 66 năm. Nhịp đập cũng nói lên trạng
thái của con tim. Nếu t́nh cờ ánh mắt gặp nhau mà
hai trái tim đập rộn ră trong lồng ngực là lúc
thôi thúc t́m đến nhau trong ṿng tay. Khi hai trái tim đập
cùng nhịp là lúc không thể sống xa nhau. Nếu đập
lỗi nhịp th́ xin đành hẹn lại kiếp sau. Và
thật bất ngờ, tim ngưng đập là lúc nói đến
chia ly vĩnh viễn.
Một lúc nào đó, những con sóng (lăng)
t́nh cảm vượt bờ (mạn) lư trí là lúc trái tim làm
chủ những nghĩ suy, gạt bỏ tất cả mọi
lời khuyên bảo hữu lư của óc. Thế gian ca ngợi
những mối t́nh lăng mạn như thế. Khi yêu chỉ
biết yêu và bất chấp mọi hậu quả để
được yêu. Sử xanh đă ghi lại những mối
t́nh với con tim phủ mờ lư trí, gây mối cảm hoài
cho hậu thế qua bao nhiêu thế hệ. Shakespear đă
thi vị hóa mối t́nh của Romeo và Juliette giữa hai gia
đ́nh thù nghịch. Họ đă yêu bất chấp những
truyền thống xă hội thời bấy giờ để
rồi mang cả mối t́nh xuống tuyền đài.
- TRỌNG THỦY & MỴ CHÂU:
Lịch sử nước Nam cũng để
lại hậu thế một chuyện t́nh đau
thương của Trọng Thủy và Mỵ Châu thời
An-Dương-Vương. Triệu Đà thuộc nước
Nam Hải có ư thôn tính nước Âu Lạc của
An-Dương-Vương bèn sai con trai là Trọng Thủy
sang kết nghĩa với Mỵ Châu là con gái của
An-Dương-Vương. Thần Kim Quy có ban cho
An-Dương-Vương một cái nỏ thần dùng
để triệt yêu quái khi dựng Loa Thành và giữ
nước v́ một khi bắn ra là giết chết vạn
quân địch. Nhờ cái nỏ thần này mà
An-Dương-Vương giữ vững nước Âu Lạc.
T́nh yêu vợ chồng say đắm nên Mỵ Châu mới
nói cho Trọng Thủy biết bí mật của nỏ thần.
Chính Trọng Thủy đă đánh tráo bằng cái nỏ thần
giả. V́ thế Triệu Đà chiếm trọn nước
Âu Lạc dễ dàng. Hai cha con An-Dương-Vương và Mỵ
Châu trên đường chạy trốn, nhà vua cầu thần
Kim Quy giúp. Thần hiện ra và nói giặc đang ngồi ở
sau lưng. An-Dương-Vương hiểu ra v́ đứa
con gái mà mất nước nên vung gươm chém chết
con gái. Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng t́m
được xác vợ. Chàng buồn rầu và cũng nhảy
xuống giếng tự tử. Chuyện t́nh lăng mạn kết
thúc bằng cái chết của hai vợ chồng giữa
hai nước thù địch.
- TRƯƠNG CHI & MỴ NƯƠNG:
Nhưng chuyện t́nh giữa Trương
Chi và Mỵ Nương lại có sự phán đoán của
trí óc. Nàng công chúa tương tư anh lái đ̣ có tiếng
sáo lăng đăng vang trên quăng sông vắng làm mê mệt ḷng
người. Con tim thôi thúc nàng phải yêu nhưng đến
khi gặp nhau óc đă phủ nhận mối t́nh chỉ v́
chàng quá xấu trai. Hóa ra
nàng chỉ tương tư tiếng sáo chứ không hề
yêu người thổi sáo. Dù không nên vợ chồng nhưng rơ ràng
trí óc đă giúp nàng công chúa chấp nhận thực tại.
Chẳng thà phụ nhau ngay từ đầu c̣n hơn dấn
sâu vào một cuộc hôn nhân không hạnh phúc.
Óc chính là cái phanh để hăm chất lăng mạn
trong t́nh yêu. Nhưng nếu người ta chấp nhận
buông thả trái tim để yêu không cần đến lư trí
th́ thế gian cũng thông cảm, không ai khắt khe lên án một
người sẵn sàng chết cho t́nh yêu. Nhưng nếu
con tim cứ hành động theo những lư lẽ riêng của
nó mà bất cần đến lời khuyên bảo của
trí óc th́ sẽ dẫn đến hậu quả thế nào?
Trong lănh vực gia đ́nh, cha mẹ
thương yêu con cái là một lẽ tự nhiên. Nhưng nếu
thương yêu chiều chuộng chúng một cách vô lư th́
chưa hẳn là một lối giáo dục tốt. Con cái cần
phải được răn đe, để chúng nhận
biết tốt xấu, sự lành, và sự dữ. Chiều
chuộng chúng để muốn ǵ được nấy
chắc chắn không giúp ích ǵ cho đứa trẻ sau này
khi bước vào trường đời. Một đứa
trẻ được nuông chiều quá mức ở trong
gia đ́nh dễ sinh ra tuyệt vọng khi gặp phải
thất bại trong cuộc sống.
Trong lănh vực luật pháp cũng thế,
tim và trí óc phải đi đôi với nhau. Cho dù "pháp bất
vị thân"
nhưng một quan ṭa cứ áp dụng cứng nhắc luật
lệ th́ bản án sẽ đưa đến bất công.
T́nh và lư cần phải cân nhắc để đi đến
một phán quyết. Tục ngữ Việt có câu, "Có ở trong chăn mới biết chăn
có rận". Tục
ngữ Mỹ cũng nói, "Before
criticizing a man, walk a mile in his shoes". Người quan ṭa công chính là người
phải hiểu rơ hoàn cảnh của từng tội nhân.
Luật là phạm vi của trí óc nhưng nếu đặt
ḿnh vào t́nh huống của tội phạm là lúc nói đến
lư lẽ của con tim. Phán quyết dựa vào tim và óc sẽ
thấy một bàn tay sắt nhưng không thiếu khoan dung.
Lănh vực chính trị cũng thấy tim
và óc song hành. Aristide Briand (1862 - 1932), một
chính khách từng giữ chức Thủ tướng Pháp
trong nhiều nhiệm kỳ đă khẳng định: "Một người ở tuổi
hai mươi không theo chủ nghĩa xă hội th́ đúng
là không có trái tim, nhưng nếu đến tuổi bốn
mươi mà vẫn c̣n mê chủ nghĩa xă hội th́
đúng là không có óc". (L'homme qui n'est pas un
socialiste à vingt n'a aucun
coeur, mais s'il est
toujours un socialiste à quarante il n'a aucune tête.)
Một chủ nghĩa mà Marx vẽ vời
ở thế kỷ 19, khi tư bản mới phôi thai,
được Lênin phát triển một cách có hệ thống
vào đầu thế kỷ 20 đă được chứng
minh là một chủ nghĩa điên rồ, tàn bạo, và vô
luân. Ông Briand nói phải mất 20 năm mới nhận ra sự
hăo huyền của chủ nghĩa nhưng thật ra chỉ
cần sống vài năm ở xă hội què quặt luân lư
Việt nam là hiểu rơ cái bản chất bất nhân của
một chủ nghĩa đă gây biết bao tang tóc cho nhân loại.
Cần ǵ phải đợi đến tuổi 40, yêu chủ
nghĩa ở tuổi 20 nhưng đến 25 tuổi mà vẫn
mở miệng bệnh vực cho cái chủ nghĩa vô luân ấy
th́ quả thật đầu óc đó không có một chút chất
xám nào. Họa chăng những cái đầu này chỉ chứa
một thứ chất vàng sền sệt mà con người
thải ra mỗi ngày.
Viễn ảnh của một chủ nghĩa
về một thế giới đại đồng, trong
đó con người "làm theo
khả năng" và "hưởng theo nhu cầu" được lịch sử minh chứng
một cách hùng hồn là viển vông, là không tưởng. Giấc
mơ đại đồng này đă làm say mê hàng triệu
con tim đầy nhiệt huyết của các thanh niên thiếu
nữ. V́ mục đích "cao cả" này, họ đă quên đi tính chất bạo
lực cách mạng, nền tảng "luân lư" của
chủ nghĩa cộng sản, là phải tàn sát cho hết
những người không cùng chí hướng, những kẻ
đối lập. Kết quả là nhân loại phải hứng
chịu cái tai ương nghiệt ngă này trong suốt thế
kỷ 20 với cái giá của hơn 100 triệu người
chết v́ bị trấn áp, bị thủ tiêu và bị tù
đày trong các trại cải tạo. Những người
cộng sản bây giờ chẳng c̣n có con tim để yêu
một chủ nghĩa "lư tưởng" như ông Briand đă nghĩ. Họ hoàn
toàn lệ thuộc vào vật chất, yêu những tờ giấy
đôla xanh hơn là yêu giấc mộng ban đầu
như đấu tranh giành thắng lợi cho giai cấp vô
sản, mơ tưởng một thế giới không c̣n sự
bóc lột, xây dựng một xă hội công bằng. Trái lại,
chủ nghĩa chỉ dựng lên để đấu
tranh quyền lợi tuyệt đối cho giai cấp
tư bản đỏ, để thực hiện một
thế giới đầy dẫy bóc lột tàn khốc và dữ
dội hơn bao giờ, và để dựng lên một xă
hội với những thảm cảnh luân lư suy đồi
đến tận cùng và nhan nhản bất công với nhiều
nước mắt.
Ban đầu, có thể Marx ôm giấc mộng
đại đồng với ư tốt muốn biến cơi
đời ô trọc này thành cơi thiên đàng, đến Lênin
thêm chút mắm muối "bạo
lực cách mạng" và kêu gọi
"vô sản các nước, đoàn kết lại!" th́ cái chủ nghĩa xă hội huyễn hoặc
của Marx bước sang một khúc ngoặt gây đau
thương cho con người nhất trong lịch sử
nhân loại. Sự tàn ác của chủ nghĩa phát-xít so ra
chẳng thấm ǵ với sự tàn bạo và độc ác
cách mạng của chủ nghĩa cộng sản. Họ - những người sống chết với
lư tưởng cộng sản - say mê
đấu tranh với khẩu hiệu tất cả v́ quyền
lợi của giai cấp bị bóc lột nhưng thực
tế hoàn toàn khác hẳn. Họ chỉ mượn sức
mạnh của giai cấp bị bóc lột để tranh
đấu cho quyền lợi cá nhân của từng người
cộng sản nắm giữ quyền lực cao nhất nằm
trong cái-gọi-là bộ chính trị. Bên trong thâm cung của
các quan cộng sản, sự tranh dành quyền lực gay gắt
và khốc liệt không thua ǵ cuộc đấu tranh bằng
bạo lực ở bên ngoài với các nước tư bản.
Măi đến cuối
thế kỷ 20 th́ chủ nghĩa cộng sản đă bị
biến thái hẳn. Nó biến thái đến mức người
ta hoàn toàn không nhận ra cái cốt lơi chủ nghĩa nằm
ở chỗ nào trong suốt tiến tŕnh tiến lên thế
giới đại đồng nữa. Người ta không
hiểu nó là một triết lư? một chủ nghĩa? hay
một học thuyết? Nó như một nồi tạp-pí-lù
- trộn một thứ một ít vào rồi
gọi là chủ nghĩa cộng sản ở thế kỷ
21 - để lâu ngày ươn śnh và bốc
mùi làm ai cũng buồn nôn mửa. Nó như một cái xác bị
chết cháy không c̣n nhận diện được h́nh dạng
của nạn nhân. Làm sao một người được
Thượng đế ban cho một trí óc b́nh thường
lại có thể nói rằng tôi vẫn c̣n yêu cái chủ nghĩa
phi nhân bản như thế? Đừng t́m hiểu chủ
nghĩa cộng sản qua sách vở! Đừng đọc
mớ chủ thuyết đó bằng trái tim nhưng bằng
cả trí óc! Khẩu hiệu với những mỹ từ
dễ làm mê muội con người. Tính chất "lăng mạn" của
chủ thuyết cộng sản dễ làm con tim rung động.
Hăy luôn nh́n nó bằng trí óc minh mẫn của một người
b́nh thường.
Trong cuộc sống lưu vong cũng cần
suy nghĩ về thái độ chính trị chính đáng của
một người tỵ nạn. Vào đầu thập
niên 80, dân chúng Việt nam ùn ùn kéo nhau ra biển. Họ t́m
đủ mọi cách để đào thoát khỏi cái xă hội
rách nát nhân bản và bần cùng vật chất đó.
Người ta phỏng đoán khoảng hơn 1 triệu
người bỏ nước ra đi nhưng đến
bến bờ tự do chỉ được non nửa. Những
người đi sau không phải không biết những hiểm
nguy của cái giá vượt biển, cứ hai người
đi ra biển th́ chỉ một người thành công. Thất
bại là đồng nghĩa với cái chết v́ băo tố,
hải tặc, đói khát .. thế
mà họ vẫn lầm lũi cắm đầu đi sống
đi chết ra biển. Băng qua lănh thổ Miên đến
đất Thái cũng đối đầu với những
hiểm nguy chết người. Nào là bọn Miên đỏ
khát máu, bọn Việt cộng điên cuồng thù hận,
thú dữ trong rừng già, bọn thổ phỉ buôn người,
đám buôn lậu có máu lạnh giết người không
chùn tay. Có người đi ra biển không thành lại quay
về đi bộ. Có người vượt biển thất
bại đến khánh kiệt tài sản. Cả miền
Nam lên cơn sốt bỏ nước. Tính đến đầu
thập niên 90, non nửa triệu người đạt
được ước nguyện.
Con số nửa triệu người may mắn
sống sót, một lần nữa, lại may mắn
được định cư ở các nước
tư bản, có cơ hội ngắm nh́n bầu trời
dân chủ, hít thở không khí tự do, và nhất là có cơ
hội vươn lên từ hai bàn tay trắng. Sau hơn 30
năm, con số người Việt tỵ nạn sinh sôi
nẩy nở đă lên đến vài triệu, ở rải
rác khắp năm châu, thành công ở khá nhiều mặt
trong xă hội, tạo của cải vật chất cho
chính gia đ́nh ḿnh và đất nước nơi hai ba thế
hệ Việt sinh sống thành từng cộng đồng
với sinh hoạt khá khởi sắc.
Khi trong tay có chút tiền th́ những người
Việt hải ngoại chợt nghĩ đến chuyện
"vinh qui về làng". Vào đầu thập niên 90 của thế
kỷ trước, khi nhà nước cộng sản bắt
đầu mở cửa, một số người Việt
lưu vong trở về với mớ tiền trong tay. Thuở
ấy trong nước ai ai cũng nghèo, kể cả bọn
cán bộ. Thế là có màn vung tiền tiêu cho thỏa thích với
trăm đô đổi ra tiền triệu, một giấc
mơ của khá nhiều người nghèo khổ. Bên Mỹ
không biết những người đó làm ǵ nhưng khi về
nước họ t́m thấy được sự nể
trọng (đồng tiền), tự ái họ được
vuốt ve đến độ tận cùng. Từ đó, họ
cố gắng làm lụng kư cóp cho được kha khá tiền
và mỗi năm trở về nước ngồi bảnh
chọe tiêu tiền trên sự đau khổ của rất
nhiều kẻ khác. Cho đến năm nay, năm 2008, tuy
sự nể trọng (cũng đồng tiền) đă bớt
đi nhiều nhưng vật giá vẫn quá rẻ so với
khi du lịch ở các nước khác nên số người
về nước ngày mỗi đông hơn. Số người
đổ xô về nước chưa hề giảm bao giờ.
Hơn 30 năm trước, chúng ta đánh
đổi lấy mạng sống để ra đi cho bằng
được th́ không v́ một lư do ǵ để có thể
trở lại mảnh đất khốn khổ đó một
cách quá dễ dàng. Mảnh đất dứt khoát bỏ lại
sau lưng bằng chính mạng sống của ḿnh, của
vợ chồng con cái ḿnh th́ làm sao có thể trở về
nh́n lại cái đám người đă chưởi rủa
những kẻ ra đi - chính
chúng ta - là bọn
trộm cắp, đĩ điếm. Nếu dùng óc để
suy nghĩ, nếu c̣n sĩ diện, cần phải tỏ
thái độ khinh bỉ bọn nhà nước cộng sản
đă hàm hồ kết tội chúng ta là thành phần cặn
bă của xă hội bỏ nước ra đi. Xét cho cùng, cần
trân trọng những người trở về để
thăm cha mẹ già yếu, lo ma chay cho người thân,
giúp đỡ những kẻ khốn cùng. Có những kẻ
trở về với trái tim độ lượng, xót
thương người, cố làm một cái ǵ nho nhỏ
để xoa dịu nỗi đau khổ của đại
đa số đồng bào. Về với trái tim nhân từ
như thế thật đáng khuyến khích, thật
đáng kính phục. Không bao giờ về với đầu
óc của kẻ lợi dụng thời cơ, vui đùa
hưởng thụ vật chất rẻ mạt, cười
cợt trên thân xác bèo bọt của những cô gái quê mà quên
đi cảnh chiếc thuyền nan lênh đênh trên biển
khơi mấy mươi năm về trước.
Nghĩ là nghĩ thế nhưng thực tế
tin tức cho thấy mỗi năm cả triệu người
rầm rộ về thăm quê hương; chỉ riêng
trong dịp Tết cả trăm ngh́n "khúc ruột ngàn dặm" rộn ràng trở về quê ăn Tết.
Thèm ăn Tết trên quê hương đến vậy sao?
Cho dù Tết đă mất hẳn cái hương vị ngọt
ngào của bầu sữa mẹ? Vương trong không khí của
một buổi sáng đầu năm nghe có tiếng ai oán của
đám dân oan, nghe có tiếng than khóc mỏi ṃn của những
người vợ thương nhớ chồng c̣n bị
đày đọa trong các trại tù v́ họ lên tiếng
đ̣i hỏi một nền dân chủ của một
nước Việt nam, nghe có tiếng kêu gào bi thiết của
những nhà lănh đạo tôn giáo đă lên tiếng bênh vực
cho công lư. Một bầu khí Việt nam bị ô nhiễm
độc tài, bị vẩn đục áp bức đến
thế liệu chúng ta có thể thản nhiên trở về
quê ăn Tết hay sao?
Bài thơ, "Ta Chẳng
Về Chi" (không rơ
tác giả là ai) diễn tả những suy nghĩ chín chắn
của một người có trái tim tràn đầy yêu
thương.
Bạn hỏi ta sao chẳng trở về
Về chơi nối lại mối t́nh quê
Theo bạn bên nhà giờ vui lắm
Tha hồ du hí, sướng hả hê!
Ta nghe bạn tả, dạ nao nao
Bao năm biệt xứ nhớ làm sao
Vẫn hằng mơ ước về quê
cũ
Cho thỏa chờ mong tự thuở nào
Nhưng rồi nghĩ lại ta chẳng về
Sá ǵ một phút chốc đam mê!
Để rồi phải thấy bao ngang
trái
Bao nỗi tang thương luống năo nề
Bạn trách bao người đă hồi hương
Cứ ngồi tiếc nuối với vấn
vương!
Ta đă ra đi trong hận tủi
Về chi gợi dĩ văng đau thương
Bạn rủ ta về thăm phố
phường
Thăm mái nhà xưa, những người
thương
Nhà xưa bị chiếm c̣n đâu nữa
Người thương thời tản
mác bốn phương
Bạn bảo quê hương giờ thanh
b́nh
Danh lam, thắng cảnh thật đẹp
xinh
Ḷng ta c̣n đâu mà du ngoạn
Khi thấy bên đường cảnh
điêu linh
Bạn giục tội ǵ không về chơi
Đất nước giờ đây đổi thay rồi
Ta thấy vẫn ngục tù, bắt bớ
Đàn áp không ai được hé môi
Bạn nói về đi ăn đă đời!
Sao ta có thể nuốt cho trôi
Khi thấy chung quanh bao đứa bé
Chẳng có miếng ăn, đứng chực
chờ
Bạn kể ta nghe rất mê hồn!
Các em mơn mởn, hăy c̣n son
Ta thấy xót thương thân nhi nữ
Mới từng ấy tuổi phải bán
trôn
Bạn khuyên lo sướng cho thân ḿnh
Dại ǵ để ư chuyện linh tinh!
Ta chẳng thể nào câm nín được
Trước sự trái tai, cảnh bất b́nh
Bạn có thể vui thú nhởn nhơ?
Mặc ai rên siết, cứ làm ngơ
Ta không nỡ sống trên đau khổ
Ôm mối hoài hương ở xứ
người.
Lại c̣n vấn đề gửi tiền
về giúp thân nhân. Gửi tiền giúp là do trái tim thúc đẩy
nhưng giúp thế nào để có hiệu quả th́ là công
việc của lư trí. Từ năm 2000 đến nay, số
tiền gửi về hàng năm cứ tăng măi. Năm
ngoái số tiền là 4 tỉ đôla, năm 2008 có lẽ cũng
bằng hoặc hơn chứ không kém. Đây chỉ là con số
gửi qua hệ thống ngân hàng Mỹ có chứng từ hẳn
ḥi, c̣n những ngh́n dấu kỹ trong ruột tượng
của các cụ già đem về cho con cháu th́ không ai kiểm
chứng được. Cứ tính đổ đồng mỗi
người mang về nước chi tiêu khoảng $5000
đôla, với từng ấy người về hàng
năm th́ số tiền đổ khơi khơi vào nước
phải thêm vài tỷ bạc nữa. Như thế số
tiền rót về nước (cho không) giá chót phải 6, 7 tỷ
bạc mỗi năm.
Số tiền gửi về dưới
nhiều h́nh thức khác nhau như gửi giúp các nạn
nhân thiên tai, gửi về giúp thân nhân có vốn làm ăn, hoặc
giúp chỉ để nuôi sống từng ấy miệng
ăn, mỗi ngày .. Tính ra
hàng tỉ đôla là công khó của biết bao nhiêu người
Việt ở hải ngoại, sẵn sàng hy sinh một chuyến
du lịch hàng năm của gia đ́nh, hoặc chấp nhận
giảm bớt những chi tiêu để có đủ tiền
gửi giúp thân nhân. Từng ấy tỷ bạc thân nhân tung
vào thị trường để mua sắm, để
ăn chơi, để khoe khoang kiêu hănh, nhưng cũng
giúp nhiều gia đ́nh chỉ vừa đủ sống và
sinh hoạt hàng ngày trong một xă hội mà sự lạm
phát leo thang theo nhịp độ hàng tháng. Đúng ra tiền
tệ trong lưu thông bỗng nhảy vọt lên con số
tỷ mà không cần trữ kim bảo chứng như thế
cũng tạo ra công ăn việc làm nhất thời cho
đám dân nghèo khổ. Những công việc làm hoàn toàn mang
tính chất tiêu dùng, chứ chưa hề dùng tiền tạo
ra những cơ sở sản xuất mang lại lợi
nhuận về lâu về dài trong tương lai.
Có nhiều lư lẽ biện minh cho việc
gửi tiền. Lư lẽ được rất nhiều
người ủng hộ là thân nhân cần được
giúp đỡ trong một xă hội quá bần cùng. Họ
quan niệm rất đơn thuần rằng nếu
ngưng gửi tiền, chẳng biết bọn chóp bu cộng sản
có chết không nhưng thân nhân của họ chắc chắn
sẽ chết trước hết. Suy nghĩ
này quả thật không sai thực tế bao nhiêu. Nhưng nếu
thị trường tiêu dùng thiếu hẳn 4 tỷ trong 1
năm, chắc chắn công ăn việc làm sẽ giảm
thiểu đi rất nhiều, những thân nhân sẽ sống
dở chết dở nhưng sẽ tạo một áp lực
lớn lao trên chính quyền cộng sản. Người dân
đói quá đành phải làm liều. Xă hội sẽ hỗn
loạn. Công an có bắt giữ được cả
trăm hoặc cả ngh́n nhưng nếu cả triệu
người liều ḿnh th́ chính quyền cộng sản chẳng
thể nào đàn áp nổi. Nhà tù nào chứa cho nổi khi
vài chục triệu người sẵn sàng chết để
kiếm cái ăn cho gia đ́nh. Chính bao tử sẽ thôi thúc
con người đến trở thành thú vật. Đây chẳng
phải là bài học mà bọn việt cộng đă áp dụng
triệt để trong mấy mươi năm cai trị
nhân dân miền Bắc và cả trong các trại tù sao? Từng
ấy nhân dân quá đói khổ nổi loạn th́ cái chỗ
ngồi của bọn Bắc bộ phủ cũng phải
lung lay.
Biết rơ như thế nhưng không một
ai dám làm, hoặc không nỡ nhẫn tâm đẩy những
người thân đến một hoàn cảnh cùng cực,
nơi mà ranh giới của lư trí và thú tính chỉ mong manh
như sợi tơ. Nếu đổi ngược lại
hoàn cảnh, nghĩa là nếu những kẻ cộng sản
ở hải ngoại gửi 4 tỉ mỗi năm về
nước để cứu đói và họ biết rơ rằng
nếu không có 4 tỉ này th́ xă hội sẽ hỗn loạn,
chế độ sẽ sụp đổ th́ chắc chắn
họ đă thực hành từ lâu rồi. Đây là sự
khác biệt lớn lao giữa người quốc gia và
người cộng sản. Sự dị biệt đó là
trái tim. Những trái tim c̣n máu đỏ luân lưu trong thân
xác của sinh vật có tên gọi là người. Chính con
tim đă thổn thức khi thấy đồng bào trong
nước lâm vào cảnh thiên tai. Chính con tim đă tha thiết
khi thấy những đứa trẻ mồ côi, khuyết
tật lăn lóc trên hè phố kiếm ăn. Và cũng chính
con tim đă thôi thúc những người Việt hải ngoại
gửi tiền về giúp những người thân nghèo khổ.
Mặc dù họ biết rằng chính số tiền này đă phần nào giúp
chế độ đứng vững đến ngày hôm nay.
Đă đến lúc lư trí cần phải
xen vào hành động của con tim. Gửi vừa phải
và gửi đúng lúc là cách hay nhất để giảm thiểu
những số tiền thặng dư không cần thiết.
Nên gửi để tạo công ăn việc làm hơn là gửi
để giúp miếng ăn từng bữa. Giúp cần câu
hơn là biếu con cá. Mỗi khi có thiên tai, làm thế nào
để số tiền cứu đói phải đến
thẳng tay các nạn nhân, không thể qua tay bọn cán bộ
ở xă, ấp, huyện, hoặc phường. Phải hạn
chế tối đa tiền của lọt vào tay những
kẻ không tim này. Biết cách gửi, và biết gửi qua
người nào. Các bậc tu hành, những sơ, những
ni cô, các linh mục, thượng tọa (tuyệt đối
không phải là bọn quốc doanh) là những người
xứng đáng chọn mặt gửi vàng. Trở về
thăm quê hương đọa đày khi thật sự cần
thiết. Nên hạn chế tối đa những chuyến
du hí vung tiền mua vui trên những thân xác bọt bèo. Nên tự
chế để cái xă hội quá bấp bênh về đạo
lư bớt bị bấp bênh. Nếu không làm cho nó tốt
hơn th́ cũng đừng nhẫn tâm làm cho nó tồi tệ
thêm.
Xem ra, trái tim và trí óc cần song hành. Hành
động xuất phát do trái tim thôi thúc, và hành động
dẫn đến một kết quả tốt đẹp
lại luôn cần có lư trí hướng dẫn.
SƠN NGHỊ
(tn sưu tầm, Kim Oanh chuyển)