XÓM CẦU NGANG
(Hòa Đa)
1
Dân miền Nam dễ
dãi trong việc đặt tên người và địa
danh. Cha tên Khỏe, con là Mạnh. Cha tên Lúa, đặt cho
các con: Dun, Đầy, Bồ, Mừng, Dui .. Cứ nghĩ sao, đặt
vậy; cũng là cách biểu thị lòng mơ ước của
người bình dân. Địa danh cũng vậy, cái gì chỉ
ra được cái chung cho nơi đó thì họ gọi
tên như vậy: Giáp Nước, Ngọn Miễu, Xóm
Đình .. Tên "chữ" chỉ nằm trên giấy tờ hành chánh.
Thành thử trong miền Nam có bao nhiêu chỗ có tên Giáp Nước,
Ngọn Miễu, Xóm Đình ..? -
Nhiều lắm, không chừng tỉnh nào, làng nào, xã nào cũng
có. Cho nên câu chuyện tôi kể về Xóm Cầu Ngang này cũng
có thể giống như bất kỳ Xóm Cầu Ngang nào
khác, ở một làng một xã nào đó trong miền Nam,
nơi sông rạch chằng chịt. Chỉ cần một
cây cầu, bằng xi-măng kiên cố hay chỉ miếng
ván, thân cau, cây tre .. lung lay, nối hai xóm ở hai bờ con
rạch hay con sông nhỏ, cũng có thể làm cư dân quanh
đó chấp nhận cái tên "Xóm Cầu Ngang".
Hồi đó, lúc
mới về làm ruộng, tôi vô tuốt trong Ngọn Miễu,
sống heo hút một mình, kiểu như chán mọi chuyện,
tưởng mình theo gót Lão, Trang; tìm nơi vắng vẻ, có
gì ăn nấy, cứ thuận theo thiên nhiên mà sống. Phải
chi không vợ con, có lẽ tôi cũng "tu"
theo kiểu đó rồi. Ngặt một điều, mấy
đứa con ngày càng lớn, tụi nó cũng phải
đi học, phải có bạn ..
không lý gì tôi bắt chúng phải "tu" theo mình. Còn vợ tôi nữa, đành rằng "có chồng thì phải theo chồng, đói
no cùng chịu, lạnh lùng cùng cam" nhưng thấy sao mà tội quá. Cho nên, chỉ
sau vài năm, tôi sang lại miếng vườn nhỏ ở
Xóm Cầu Ngang, rồi dọn về đó, lòng nhủ lòng,
đó là do mình "thương
vợ thương con"! Bà con trong xóm, thấy tôi có chút chữ nghĩa
hơn họ, gọi tâng là thầy, tôi thứ năm, họ
gọi chết danh "thầy Năm" cho dù tôi không phải thầy giáo, thầy
tụng, thầy ký .. gì
hết; không mấy người biết tên thật của
tôi. Xét cho cùng, có cần gì biết tên họ thật, họ
chỉ cần tên gọi để ai cũng nhận biết
là được rồi, cần chăng là mấy người
làm việc trên xã, nhờ tên thật khai trong đơn xin
mua này mua nọ, hay trong hộ khẩu. Cả ấp, chỉ
có hai "thầy" thứ thiệt là thầy giáo Lễ dạy
ở trường cấp một và thầy y tá Hường
phụ trách phòng y tế xã, nhưng cả hai đều ở
tuốt ngoài Xóm Đình, cách xóm Cầu Ngang của tôi hơn
hai cây số.
Cả xóm chừng
ba mươi nóc gia, nối nhau bằng chiếc cầu
ngang ba nhịp, nhịp giữa là một thân cau lão, lung lay
như răng bà già, vắt ngang con kinh chảy quanh co giữa
mấy khu vườn um tùm mấy đám ô rô, cóc kèn, dừa
nước mọc dày ken ở hai bờ; nhiều đêm tối
trời bơi xuồng, không thấy được mũi
xuồng đằng trước. Đúng ra, cầu có tay vịn
bằng tre, nhưng không biết ai rắn mắt gỡ mất,
có ai đó thay tạm một cây trúc thấp tè ngang đầu
gối, quặt quà quặt quẹo; ban ngày ban mặt,
đi một hơi năm bảy bước là qua nhịp
bên kia, còn ban đêm tối hù, thôi thì bò bò đi cho chắc
ăn. Cầu này hồi trước do Xây dựng Nông Thôn
làm, cả ba nhịp bằng xi-măng chắc chắn. Bây
giờ, chỉ còn lại hai đầu là hai tấm
xi-măng mẻ nham nhở, lòi cả cốt sắt bên
trong, gối lên hai bờ, còn miếng lớn ở giữa
dài hơn hai sải tay đã mục gãy, cắm đầu
xuống lòng sông, cư dân hai bên bờ thay nhịp giữa,
khi thì tấm ván bìa, khi thì thân cau, thân dừa lão. Có vậy
còn hơn phải lội bọc lên phía trên hay phía dưới
cách hơn cây số, hay phải lội băng ngang sông.
Cư dân gồm
cả dân cố cựu, cả ba bốn đời lập
nghiệp ở đây, cùng với đám mới ngụ
cư như gia đình tôi và Hai Phang, ngày trước đi
Xây Dựng, nay về sống đùm đậu với má vợ,
giáp ranh nhà tôi. Bên kia con lạch nhỏ là nhà Hai Lý, con năm
đứa, hai Việt, hai lai trắng, một lai đen.
Hai Lý một thời đi bán ba, chồng đạp xích lô ở
Sài Gòn. Trừ mấy người mới về, còn thì hầu
hết là bà con xa gần với nhau. Nghề chính của dân
trong xóm là làm ruộng, trước khi vào tập thể có
nhà có đến mười mấy, hai chục công ruộng,
sau đó chỉ còn lại năm ba công, tùy theo số lao
động trong nhà nhiều hay ít. Nam phụ lão ấu trong
xóm có đủ, từ mấy lão nông tri điền, bảy
tám mươi tuổi, đi ruộng từ lúc còn trong bụng
mẹ, cho đến đám loi choi mới lớn. Từ
ngày làm ruộng kiểu tập thể, người dân không
đủ sống, quay ra làm đủ thứ nghề tay
trái khác: xe đạp ôm, gia công dệt thảm, dệt chiếu
cho mấy tập đoàn chiếu thảm xuất khẩu
ngoài tỉnh, bán cà-rem, hớt tóc dạo, mua ve chai lông vịt .. đủ nghề hết! Chỉ
một hai năm sau, dân trong xóm ai cũng thuận tay trái
hơn tay mặt. Lúc phải làm, họ ráng sức làm chết
bỏ, quên ăn quên ngủ, lúc rảnh rang, họ nhậu,
mà cũng nhậu tới bến, quên ăn quên ngủ.
2
Tiếng Tư Em
bên ngoài vọng vào
- Thầy Năm
ơi! ông Tư, ông già của Chín Đẹt gần "đi" rồi, thầy muốn qua đó một
chút hôn, sẵn đuốc nè, mình đi luôn, có cả Hai
Phang nè.
- Anh Tư chờ
một chút, tui xỏ cái áo rồi ra liền.
Ba anh em bò qua Cầu
Ngang. Nói bò là đúng vì không dám đi, nhất là trong đêm
hôm, trời lại mưa rỉ rả. Nhịp giữa cầu
là một thân cây cau.
Nhà Chín Đẹt
thắp sáng bằng hai cây đèn măng-sông ếch-đa của
Tám Lú và Sáu Cu cho mượn, trong nhà đầy người,
từ nhà trên xuống nhà dưới, ba bốn chiếc bàn
tròn được bày dọc hàng hiên vì trời vẫn còn
mưa lất phất. Bà con quanh xóm tụ lại, đàn
bà, thanh niên lo kê bếp, nước nấu liên tục để
châm trà, đàn ông ngồi túm tụm ở nhà trên bàn chuyện
và .. chờ. Ông Tư nằm một
chỗ cũng mấy tháng nay, nên cả Chín Đẹt với
bà con chòm xóm thấy chuyện ổng về với ông bà chỉ
còn là ngày một, ngày hai. Chín Đẹt cũng lo liệu
cho cha đầy đủ, quan tài đóng sẵn từ lúc
hai ông bà còn sống, bả đi trước rồi, bây giờ
ổng theo. Phần đất dành cho ông Tư, ngay sát cạnh
bà Tư cũng đã được đám thanh niên trong xóm
dọn dẹp trống trải. Hồi chiều thằng
Hai, con rể chín Đẹt qua tuốt bên Giáp Nước
đem về một con bò cột đàng sau, chờ làm
đám.
Ngồi chơi với
anh em một chặp, tôi xin kiếu về ..
Chừng gần
sáng, lúc tôi châm bình trà mới thì Tư Em đi ngang báo tin:
- Thầy Năm
ơi, ông Tư đi rồi ..
Nhà Chín Đẹt
bây giờ còn tất bật hơn hồi đầu hôm,
con bò làm đám đã được đâm họng và
đang xả thịt, tiếng người nói, tiếng
dao thớt va chạm lao xao .. Ở
nhà trên, người ta đã thay quần áo cho ông Tư bằng
bộ bà ba trắng còn mới, hai ngón chân cái được
cột dính bằng rẻo vải trắng, nải chuối
xanh đặt ngay ngắn trên bụng. Quan tài của ông
Tư được kê ngay ngắn giữa nhà, trước
bàn thờ, đã lót hai chiếu mới và vải trắng
phủ ra ngoài thành quan tài. Trong góc nhà, ba bốn người
đang dùng giấy báo cuốn bông gòn đã rút sạch lõi và
hột, làm loa kèn để liệm người chết. Có
tiếng út Một:
- Bà con cuốn
giùm cho đều tay, đừng chặt quá, đừng lỏng
quá! Chặt quá tốn gòn; lỏng quá dễ sút. Ờ, ờ
như vầy là được rồi.
Người ta chờ
rước thầy tụng, và nhờ người xuống
chùa ngoài chợ huyện xin thầy coi giùm giờ liệm,
giờ chôn cất. Ông Năm thợ mộc đang tính toán
số con cháu ông Tư để xé khăn tang. Bà con chòm xóm
quá quen thuộc với việc ma chay nên ai làm được
việc gì giúp gia chủ thì làm.
Có tiếng Hai
Phang:
- Thầy Năm,
chín Đẹt muốn nhờ thầy ..
Tôi biết anh
chín muốn nhờ gì rồi, từ ngày "định cư" ở xóm Cầu Ngang này, tôi nghiễm
nhiên trở thành "thư
ký" của mấy đám quan hôn tang tế
trong xóm. Trước tôi do ba Quang, con dì Ba Xệ, học hết
tiểu học lo, khi tôi về sống trong xóm, ba Quang giao
tôi, nói tôi có chữ nghĩa nhiều hơn. Tôi chịu trách
nhiệm về sổ sách chi thu, đám ma ghi rõ ai phúng điếu
bao nhiêu, chi tiền chợ cho ai bao nhiêu; đám cưới
ai đi mừng bao nhiêu. Phần tiền mặt do một
người bà con gia chủ giữ; miễn sao cho tiền
trên giấy tờ và thực tế ăn khớp nhau là
được. Tôi cũng vui vẻ nhận, mình từ chợ
về, không biết gì nhiều về tập tục dân
làng, lại không phải là người có sức vóc gì, thì
giúp cho họ trong việc ghi chép phân minh việc tiền bạc
cũng là việc nên làm, sẵn dịp học cách sống
thật của người dân quê mà đám có học ngoài "chợ" chỉ biết rất mù mờ qua sách vở,
tiểu thuyết.
Một chiếc
rạp được dựng tạm ngoài sân che nắng, gần
chục bộ bàn tròn đã bày ra. Đám thanh niên mau tay lẹ
chân lo hết mấy việc này, họ bơi xuồng
đến mấy nhà kha khá mượn chén dĩa, nồi
niêu, bàn ghế. Mượn của ai, nói thư ký ghi giấy,
mai mốt gia chủ cứ theo đó mà trả. Sinh hoạt
này, ngày trước sống nơi thị tứ không thấy.
Ở đây, một nhà hữu sự, mọi người
cùng góp công, góp sức, nhất là những lúc bất ngờ
như vầy, không thấy ai kêu ca hay từ chối, bất
kể có mất mát hay hư hao chút đỉnh. Mà cũng ngộ,
nhà nào cho mượn cũng có dấu riêng, như hai bộ
bàn ghế của Bảy Dẹt có ghi 7d ở mặt dưới;
còn chén dĩa thì họ chấm sơn màu ở khu. Thường
tôi phải ghi rõ: Hai Tú 10 tô, 30 chén, chấm vàng; Tám Ú 5 tô nhỏ,
6 dĩa, 15 chén, 2 chấm xanh .. còn
đũa chỉ ghi bao nhiêu đôi, lúc trả gia chủ chỉ
cần đếm cho đủ mà trả, thiếu chút
đỉnh không sao; đũa tre mà, một lóng tre già chẻ
được hơn chục đôi, của có sẵn, ngồi
chuốt chừng tiếng đồng hồ, được
cả rổ.
Dân trong xóm đã
tụ lại khá đông, họ ngồi uống trà bên ngoài.
Bên trong, thầy tụng đang làm lễ nhập quan và phát
tang cho con cháu ông Tư. Tiếng thầy í a lên xuống
đều đặn theo tiếng chuông mõ, tiếng khóc khi
lớn khi nhỏ lao xao với tiếng người nói chuyện
rì rầm .. Người ta khen ông Tư
được phước, chết ở tuổi tám
mươi ba là thọ quá rồi, con cháu đầy đủ,
ấm cúng.
Hồi còn sống,
mỗi khi qua chín Đẹt chơi ông vẫn thường
chỉ cho tôi coi cỗ quan tài bằng lõi gỗ còng nâu bóng
và nặng trịch kê trong góc chái mà nói:
- Năm coi,
như vầy là qua yên tâm rồi, chỉ còn chờ ngày theo
bả thôi.
Chín Đẹt
chen vào;
- Tía tui khoái nó lắm,
hồi nẳm, tui cho hạ cây còng lão, lõi ra gần tới
da, đem ngâm dưới mương cả hai ba năm rồi
nhờ ông Năm Thợ Mộc đóng cho tía má tui hai quan
tài, bả nhường cho ổng phần gốc. Bả
nói, để ổng chết, ổng nằm trong đó cho
lâu, khỏi sợ con gì đụng tới ..
Người ta bắt
đầu phúng điếu, họ nhường cho thông gia
đi trước. Tiếng trống tung tung chát tung tung cùng
với tiếng chập chõa xập xòa giữ nhịp cho việc
lên gối xuống gối quì lạy giã từ người
chết. Thông gia đông quá, chín Đẹt là con út mà đã
có tới hai sui rồi, kể hết sui gia với mấy
anh chị, tính ra gần hai chục. Họ phải đến
chào ông Tư lần chót, đạo nghĩa phải như
vậy, ổng là bực trưởng thượng, với
lại "anh em
ngày một xa, sui gia ngày một gần" mà!
Thằng hai con
chín Đẹt mang tiền trên bàn thờ xuống:
- Thầy Năm
ghi giùm: sui cô Bảy hai trăm, sui bác Ba hai trăm, ba chồng
con tư ba trăm .. cứ
ghi như vậy tía tui biết hà.
Bên ngoài bắt
đầu lao xao mời chào, tiếng hai Phang:
- Dạ, mời
chú tư ngồi vô bàn này cho đủ người! Dạ,
chú về sao được, tới cúng ông Tư rồi, cũng
phải uống ly rượu lạt với gia đình cho
phải phép ..
.. Cứ như vậy, người
nào tới lúc trời kêu cứ đi, kẻ còn lại vẫn
cứ nếp cũ mà sống. Có người uống vài hớp
rượu gắp vài món ăn cho phải lễ rồi xin
kiếu, cũng có người mượn rượu gia
chủ để miệt mài thỏa mãn. Có lần hai Phang
buông thõng " .. hèn chi
có người gọi đi phúng điếu đám ma là
đi chia thịt!"
Xong đám, hôm
cúng thất cho ông Tư, nghe bà con nói, ông Tư chết
như vậy là ấm cúng, trong xóm ai cũng tới cúng, mấy
người quen biết ở xóm Đình, Ngọn Miễu cũng
đến. Tiền phúng điếu, sau khi trừ hết mọi
chi phí, chín Đẹt còn "lời" hơn năm ngàn. Tư Em nói với tôi qua
hơi rượu:
- Thầy Năm
biết hông? không phải ai cũng được vậy
đâu, hồi nẳm thầy chưa về; trong xóm, có ông
hai Tổng chết. Nhà giàu quá, thằng con làm phách nói: "Lo gì! mỡ trôi tới đâu, lòng tong theo tới
đó" dân trong xóm nghe được, không thèm tới!
Chỉ có đám tá điền sợ mất ruộng, đến
cúng cho có mặt, báo hại con bò, con heo gần một tạ
với hơn chục gà vịt chết theo ổng lãng
nhách. Sau mấy ngày, thằng con phải năn nỉ ông
Năm thợ mộc hồi đó làm trùm trong xóm, đem
khay trầu rượu xuống Xóm Đình năn nỉ
đám "dưng
quan" xuống khiêng quan tài, mà ở bển nghe
bên này không làm cũng phải cử người vô xin phép
trước. Sau đó đám con cháu hai Tổng hết dám
làm phách với dân trong xóm, nhưng câu nói "mỡ trôi tới đâu, lòng tong theo tới
đó" còn hoài.
3
Đám cúng thất
cho ông Tư xong hôm trước, hôm sau cậu năm Côi dựng
nhà. Cả đời gom góp, gần sáu mươi, cậu mới
dựng được căn nhà có phần bề thế
đó. Cậu năm về cặm dùi ở đây từ
hơn ba mươi năm nay. Hồi đó chỉ có vài nóc
gia, ruộng thì minh mông mà ở đâu cũng có chủ, phải
mướn lại qua trung gian của tằng khạo.
Ăn ít làm nhiều, ky cóp mua lại được mấy
công đất cạnh bờ kinh, móc mương lên liếp
lập vườn ..
Tính ra hơn hai mươi năm cậu mới đủ
tiền đổ móng cuốn nền, lót gạch bông, tới
đó hết vốn đành cất tạm căn nhà lá trên
nền gạch bông, tuy coi khá hơn mấy nhà chung quanh
nhưng ngó kỳ cục giống như mấy bát nhang
chưn đèn bằng sành, bằng gỗ thô, ngự trên tủ
thờ danh mộc có cẩn hoa văn xà cừ óng ánh.
Hai người
con trai lớn của cậu Năm chuyên đổi ve chai
lông vịt ở xa, mỗi chuyến ghe mất ba bốn tuần,
cũng cần cù chắt mót như cha, góp tiền mua
được bộ cột kèo bằng cây rừng từ
xưởng cưa máy ngoài tỉnh. Ba cha con ky cóp gần cả
chục năm nay, bây giờ mới dựng căn nhà
tương đối kiên cố khang trang.
Ông Năm thợ
mộc được mời tới xẻ đục gần
tháng mới xong, lúc đó mỗi lần tôi có việc đi
ngang, thế nào cậu năm Côi và ông Năm thợ mộc
cũng hú vào uống nước trà. Ông thợ giỏi nghề
và khéo tay, lại có tiếng là hiền đức, mát tay nên
ai cũng cậy ông dựng nhà. Ông cũng lớn tuổi,
biết nhiều tập tục nghi lễ cũ theo sách
Văn Công Thọ Mai, nên ai có việc cũng nhờ tới
ông. Tôi thích ông vì ông biết nhiều chuyện mà tôi không thấy
trong sách vở hồi còn đi học. Có lần vui miệng
ông Năm thợ mộc nói:
- Thầy năm
biết hông, hồi mới học nghề, thầy tui dạy
đóng cái "kệ" trước, mà không phải riêng tui, ai học
nghề này cũng học đóng cái "kệ" trước.
- Sao vậy ông
năm? sao không học đóng cái gì cho dễ mà đóng chi
cái kệ cho khó trước?
- Thầy hổng
biết, nghề này cưa xéo một chút, đục trật
một chút, đẽo hư .. cái gì cũng nói "kệ" nó, hổng phải nghề này học
đóng cái "kệ" trước à?
Lần khác, Hai
Phang sửa lại chái nhà, kê phần gốc tre làm kèo chái
lên trên, ông Năm thợ mộc cười cười nói:
- Trồng tre trở
gốc lên trời, con chị xong rồi, tính tới con em.
Hai Phang khoái chí,
chả là cô em vợ Hai Phang thấy cũng có cảm tình với
ông anh rể đàn hay, hát giỏi xuất thân từ lực
lượng tay súng tay cày này.
Hôm dựng nhà,
tôi cũng lên góp một tay, gì thì gì, mình cũng làm thợ vịn
thợ phụ được mà. Trước bàn thờ,
bày sẵn ba hũ sành đựng đầy gạo, muối,
nước, một con heo nhỏ và một con gà cột ở
chân bàn thờ; trên bàn bày bình bông, xôi chè, bánh ngọt, và một
dĩa trái cây gồm một trái mãng cầu, một trái dừa
xiêm nhỏ, một trái đu đủ còn xanh và một trái
xoài; cậu năm Côi quần áo chỉnh tề thắp
nhang khấn vái, cầu quỉ thần, đất đai
nhân trạch, tổ tiên ông bà, xin được "cầu vừa đủ xài" và trong nhà lúc nào gạo, muối và nước
lúc nào cũng đầy lu đầy hũ, cầu cho lúc
nào cũng nuôi được con heo, con gà để không bỏ
phí đồ ăn thừa, hột thóc rơi rớt .. Mơ ước của
người bình dân đơn giản như vậy đó
mà lắm lúc cũng không có được.
Cúng xong, mọi
người xúm vào làm theo lịnh của ông năm thợ mộc,
chỉ hơn nửa buổi, sườn nhà đã dựng
xong. Cơm nước, gia chủ đã dọn sẵn trên
ba bàn tròn, mời mọi người dùng bữa chờ
nước lớn để gác đòn vông. Chuyện này thì
có lần tư Em đã nói với tôi, người ta tin rằng,
gác đòn vông lúc nước lớn gần đứng là
lúc sung nhất, gia chủ nhờ vào sự đầy đủ
của con nước mà làm ăn khá. Việc nhìn con nước
lớn để làm những việc hệ trọng này,
tôi chỉ thấy ở trong Nam. Như việc rước
dâu chẳng hạn; ở chợ hay ngoài Bắc, ngoài Trung,
thường người ta rước dâu vào giờ tốt;
trong Nam, giờ tốt là giờ nước lớn đầy.
Ông bà mình cũng khéo tạo thành một thứ tin tưởng
có tính thực dụng, vì thường ở trong vườn
người ta rước dâu bằng ghe, rủi giờ tốt
rước dâu (như kiểu ngoài Trung, ngoài Bắc) nhằm
lúc nước ròng sát đáy sông (dám có lắm chớ!) thì
thiệt là phiền, làm sao đưa với rước cô
dâu, chú rể và họ hàng hai bên xuống ghe qua bãi bùn lún tới
gối?
Đang ngồi
chung bàn với Tư Em và Hai Phang, cậu Năm Côi lại
khều tôi và Hai Phang nói nhỏ:
- Qua nhờ hai
cháu một chuyện, tí nữa lúc thượng đòn vông,
hai cháu làm sao cố cầm Bảy Lượm ở bàn nhậu,
rượu thịt qua biểu sắp nhỏ lo, cứ cho
chả uống thả giàn, làm sao đừng cho thằng chả
leo lên mái ..
- Sao vậy cậu
năm? - Tôi ngạc nhiên hỏi lại.
- Thằng chả
cũng là thợ mộc, biết bùa Lỗ Ban! chả lên
đó đóng bậy cây đinh ếm là qua khổ suốt
đời. Cũng hổng chừng, chả lên đó làm bộ
trật tay quăng cây búa đóng đinh của chả trúng
nhằm ngạch cửa là qua cũng tiêu, cháu không biết
chớ thằng chả độc lắm, chả ghét ai thì
ếm cho tiêu luôn, nên qua sợ .. Cả
đời qua, cả nhà qua chắt mót dành dụm mới có
được như vầy, qua sợ thằng chả
ganh ghét làm bậy, thà tốn rượu thịt cho thằng
chả mà qua có thể yên tâm ..
Chiếc đòn
vông có bịt hai vuông vải đỏ hai đầu kê trang
trọng giữa nhà. Ba Quang từ bờ sông chạy vào kêu
lớn:
- Nước
đứng rồi, ông Năm ơi!
Hai người
trung niên đã lên ngồi sẵn trên mái, hai người khác
đang đứng chờ cạnh cây đòn vông. Ông Năm
thợ mộc thắp nắm nhang đứng cạnh gia
chủ, trước cây đòn, khấn. Sau khi cắm nhang
vào bát, ông quay lại nói:
- Cẩn thận
nhen bây, chuyện quan trọng đừng giỡn hớt
không nên.
Hai người
bước tới, cùng một lúc trang trọng nâng chiếc
đòn vông, bước từng bước một lên hai chiếc
thang được dựng sẵn. Tiếng ông Năm thợ
mộc nhắc nhở:
- Đi lên cho
đều, có hai chú nào quởn, vịn giùm hai cái thang cho vững ..
Hai
người ngồi sẵn đón hai dầu chiếc
đòn vông, đặt đúng vào vị trí hai kèo trước
và sau giao nhau ..
Đến chiều,
căn nhà của cậu Năm Côi cũng dựng xong, chỉ
còn ráp bộ cửa, ngày mai ông Năm Thợ Mộc sẽ
lo. Gia chủ lại mời mọi người ăn, lần
này thì nhậu thả cửa vì công việc đã hoàn tất.
Tôi gần xỉn vì phải cùng Hai Phang chuốc rượu
cho Bảy Lượm, nhưng cũng không kiếu về
được vì cậu Năm Côi nài nỉ quá.
Tư Em cũng
đủ đô, bắt đầu lè nhè nói thơ:
- Thày Năm biết
"Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu" là gì hông?
Không đợi
tôi nói, Tư Em giải thích luôn:
- Rượu gặp
người tri kỷ (như thầy Năm đây) thì có trời
mới biểu thôi. Thầy Năm hiểu hông thiên bôi thiểu
là trời biểu thôi mà, phải hông thầy Năm, thầy
dô cạn ly này tôi đọc thơ thầy nghe:
Rượu uống đừng say giữ
tính thường
Tránh đường hoa nguyệt khỏi
tai ương
Đừng ham cờ bạc còn gia sản
Giận tức mà dằn họa khỏi
vương
phải hôn thầy
Năm. Thằng cha Bảy Lượm đó mà Lỗ Ban con
mẹ gì, thầy Năm.
Tôi hoảng hồn
đá chân Tư Em cản
- Thôi nghen Tư
Em, rượu uống bậy được chớ lời
không nói bậy được nghe Tư Em.
- Tui nói thiệt
mà thầy Năm, hồi thầy chưa về đây, nhà
thằng chả bị ăn trộm, chả đi khắp
xóm nói chả sẽ ếm bùa, thằng lấy trộm nhà
chả trong xóm chớ không đâu xa. Trong vòng bảy bảy
bốn chín ngày không trả sẽ sình bụng mà chết. Chả
dán lá bùa trên cây gòn đầu xóm, báo hại mấy đứa
chăn trâu không dám đi ngang. Của mất không thấy trả
lại, nhà thằng chả bị trộm lần nữa, lần
này nó lấy bộ chưn đèn trên bàn thờ, chỉ chừa
lại bát nhang. Không thấy thằng nào sình bụng chết,
chỉ thấy cây gòn có dán bùa không biết sao nó chết
queo. Lỗ Ban gì, lỗ hang thì có.
Tôi lấy cớ
Tư Em xỉn rồi, xin kiếu đưa Tư Em về .. dọc đường Tư
Em cứ lảm nhảm "Con người sống phải biết
Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, phải hôn thầy Năm?". Tôi biết khi Tư Em nói tới đó là
biết y sắp tiêu. Tư Em mạnh rượu hơn tôi
nhiều, chỉ vì thiên bôi thiểu mà lần nào cũng chìm
xuồng.
Hôm sau, Bảy
Lượm khăn đóng áo dài đi qua lại trước
nhà Tư Em chưởi:
- Đ.m. mày
Tư Em, tao chưởi mày như vầy là tao chưởi
có văn hóa, ăn mặc đàng hoàng mà chưởi, không
phải như mày không có văn hóa, ở trần quần xà
lỏn nói xấu tao .. Cây
gòn chết là nó tới số nó chết, thằng nào ăn
trộm nhà tao, không chết trước thì cũng chết
sau. Đ.m. mày Tư Em, có thằng nào không chết, có thằng
nào chết mà bụng không sình lên ..
Tư Em trong nhà,
vẫn còn xỉn, nói vọng ra : "Con người sống phải biết
Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín".
Thế đó,
đã gần cuối thế kỷ hai mươi mà người
dân trong Xóm Cầu Ngang của tôi cũng còn mang đủ gần
hết những cái tốt và xấu từ thời mới
tụ dân lập ấp.
HÒA ĐA
Houston - tháng 10/2006
(Rose KD sưu tầm và chuyển)